← Quay lại trang sách

- 3 -

Làm Toà Đại Diện Việt Nam tại Cao-Miên đâu chừng một năm, tôi đã muốn rút dù. Vốn tính hay đổi thay, chóng chán nên dẫu gần gũi với Biển Hồ Tonlésap tôi vẫn nhớ bến Thủ Thiêm, dẫu sát cạnh chùa Vàng chùa Bạc, tôi vẫn nhớ khu Vĩnh Nghiêm; dẫu thân mật với các em ca-ve thơm ngon như xoài cát tôi vẫn nhớ các nàng đồn trú tại quán bia ôm, quán cóc Saigon. Lại nữa, xuân qua hạ tới thu tận đông tàn, nay lại một mùa xuân tiếp nối tò vò lởn vởn tới lui khiến lòng tôi nhớ về chốn cũ. Chốn ấy, như quê hương thứ hai của tôi - sau cái tỉnh Hải Dương bé nhỏ hiền hoà nằm trên quốc lộ số 5 nối Hà Nội, Hải Phòng-ấy là Đà Lạt. Nhân cái cớ anh tùy phái hục hặc tranh mối “pát-po” tính ăn hớt tay trên tiền nhậm xà của tôi, hắn ỏn ẻn với cấp trên, “vu” cho tôi bê bối, tôi liền xin nghỉ việc. Mần toà đại sứ, đại diện, lãnh sự, dẫu ở nước nào cũng là một điều mơ ước của nhiều người muốn xuất ngoại phục vụ, mà lại có tiền, sống đời dư dả, cho nên tôi thôi lắm đứa mừng thầm, vì có chỗ cho anh em bà con điền thế, cùng vây cánh làm ăn.

Thế là chỉ nội hai mươi bốn giờ, tôi đã rời khỏi xứ Chùa Tháp, qua biên giới Miên-Việt trở lại Sài-Ghềnh. Ở thủ đô vài bữa, tôi khăn gói quả mướp lên chuyến xe Minh Trung Ngã Bẩy để lên Đà-Lạt tức thì, tá túc nhà ông anh họ.

Qua mấy năm trở lại chốn xưa, thấy người cũ vẫn cứ đâu ở đấy, chưa mảy may dời đổi. Con gái Đà-Lạt má đỏ như mận Trại Hầm, mắt trong như mắt nai tơ, môi hồng như trái dâu ấp Hà-Đông, cây số 4. Anh con trai nào nhòm thấy cũng mê như điếu đổ. Người đẹp đài các quý phái như ái nữ của bác sĩ Dương ở biệt thự, có vườn hoa, đêm đêm qua khung cửa mờ ảo ánh đèn, ngân nga tiếng dương cầm thánh thót. Khu Chợ Hoà Bình, các cô Ninh, cô Kính chủ tiệm bách hoá Phúc Thái Lai, cổ đeo kiềng vàng, quần áo trắng nõn, ăn nói dịu dàng. Đường Phan Đình Phùng, qua rạp hát Ngọc Hiệp dăm trăm thước có tiệm chè của chị em cô Tâm, Hiền. Hai đoá hoa được rất nhiều vương tôn công tử giả bộ đến ăn chè mà lòng dạ thật là hảo ngọt.

Nói chi đến các sĩ quan, sinh viên võ bị ngày nghĩ cuối tuần chạm trán nhau đôm đốp ở đây. Phía nữ sinh Yersin, Couvent, phía nữ công chức hoa hậu hoa khôi mơn mởn đào tơ phơi phới. Với các nàng tiên yêu kiêu diễm lệ ây, tôi chỉ là một anh Trương Chi biết chèo thuyền mà không biết thổi sáo để làm cảm động Mỵ Nương, vả lại, “Cai Phúc” hồi ấy chưa thoát khỏi cái vỏ “cai sữa”, buồn thân tủi phận hẩm hiu, chả ai cảm thương cảnh “cùng một lứa bên trời lận đận”, cho nên chỉ nuốt nước bọt ngắm trộm các nàng cho đỡ ghiền cơn nhớ khó nguôi. Tôi cũng đoán già đoán non rằng các nàng nhìn tôi không khác chi nhìn một cậu bé con ngù ngờ bé bỏng. Đâu biết rằng trong tim tôi nó thổn thức bồi hồi.

Cái mộng yêu hoa biết nói không thể tỏ cùng ai, tôi lang thang như một nghệ sĩ giang hồ, như một nhà thơ khốn khổ ư ử dăm bài “Lỡ bước sang ngang” cho ra vẻ tài tử đa cùng phú. Nhớ đến em xưa dưới gốc Nhà Bò, tôi bò xuống lân la hỏi dò tin tức. Ngờ đâu nàng đã tay bế tay bồng đìu íu sau lưng, nom chả còn chi là sắc nước hương người. Các cụ bảo “gái một con trông mòn con mắt, gái hai con vú quặt sau lưng” thật chả sai một ly ông cụ nào. Được cái “con chị nó đi, con dì nó lớn”, nên tôi đành tự hạ một cấp, ra chiều о bế cô em. Cô em là kẻ yêu hoa nên tôi có nhiệm vụ cung cấp hoa để làm duyên văn tự.

Đêm đêm, tôi vác dao đi chặt trộm những cành hoa anh đào ở bờ hồ, lối lên dốc chợ. Anh đào là loại hoa quý của Nhật. Nhật Bản có tặng cho thành phố Đà Lạt vài trăm cây làm cảnh, chở máy bay qua, quí như vàng nén. Khi hoa anh đào nở, cả tỉnh đẹp, mà khách phương xa đến du ngoạn cũng đẹp lây. Tôi lựa cành nào đẹp, phạng ngay một phát và chạy ù té về dốc Nhà Bò. Chưa hết, các công viên nơi nào có hoa là có tôi lởn vởn đến hái hoa. Cả đến tư gia tôi cũng không từ. Dọc đường Lò Gạch, Phan Đình Phùng, khu nhà đèn, khu nhà thương, nhiều nhà trồng hoa cúc, hoa mẫu đơn, hoa hồng, hoa thược dược đẹp tươi mơn mởn, cứ tối đến là tôi ngắt trộm.

Có lần chủ nhà rình sẵn, tôi mới chợt tới hàng rào là họ đã hô hoán vác đòn gậy đuổi đánh. Tôi hoảng hồn vắt giò lên cẳng, chạy thừa sống thiếu chết mới thoát thân.

Ái tình nó làm tôi mụ mẫm một phần, nhưng chính như tôi bản tính đã hay táy máy ăn cắp vặt từ nhỏ cho nên lúc nhớn lên các hành động xấu xa chỉ là tập quán. Ngày bé tôi ăn cắp ở nhà, bây giờ phá hoại ăn trộm của người, của công cộng, vi phạm an ninh trật tự, tài sản quốc gia và đồng bào, nào tôi có biết nó tệ hại sao đâu. Chỉ coi như vui chơi cuối trời quên lãng, văn nghệ thế thôi chứ nhằm nhò, tác hại nỗi gì...

Ấy đó, mấy cái đó tích tiểu thành đại, tôi hư lúc nào không biết. Mà vẫn tưởng mình công dân gương mẫu bảnh bao. Nhìn quanh, tôi thấy tôi còn lương thiện hơn chán vạn kẻ khác. Những đứa họp bè kết đảng chặt tre, chặt cây cưa gỗ đem từ Định Quán về Biên Hoà phát mại chia nhau bỏ túi. Những tên bắt lính đem GMC chở thông mang về Saigon bán dịp Giáng Sinh. Những kẻ thông đồng với nhân viên Lâm sản, với trại kiểm soát để chở gỗ lậu, hàng lậu mới là bê bối. Nhờ bê bối đó, bọn Cộng Sản mới lợi dụng chở súng đạn, thuốc nổ vào thị thành để đặt mìn giết dân lành, đàn bà con nít, nên chiến tranh mới đằng đẳng bao năm. So sánh với những hạng đó, tôi không là... phật thì cũng là... á thánh. Cũng bởi tự so sánh với quân khốn lịn như thế, tôi cá mè một lứa như chúng nó chứ có hơn gì. Chỉ khác nhau mức độ mà thôi. Mức độ nào cũng là hành động đưa đến mất nước.

Mùa xuân trên cao nguyên xứ anh đào, ai may mắn có đào cặp kè thủ thỉ thì thật là ô mê ly tuyệt cú mèo số dzách. Nhìn những cặp nam thanh nữ tú, áo quần đẹp tươi, nắm tay nhau đi nghiêng trên đồi thông, ngồi bên ven hồ, ghềnh đá hoặc sát vai trong rạp xi-la-ma, nơi tiệm cà phê, tiệm mì, tiệm phở, lòng tôi lại thấy nỗi cô đơn chan chứa can tràng...

Tôi bơ vơ như lời hát Chế Linh tang thương rách nát, lủi thủi lang thang giống con chó hoang cụp đuôi lạc lõng giữa đường. Trời xuân đẹp, nắng xuân trong, tình xuân hồng, gái xuân rực rỡ. Những tà áo màu, áo thêu, áo len e ấp vườn Bích Câu, Hồ Xuân Hương, suối Cam Ly, thác Prenn, đèo Ngoạn Mục, rừng Ái Ân, hồ Than Thở, đường Minh Mạng, dốc Duy Tân, chợ Hoà Bình... Những sinh viên sĩ quan võ bị quân phục thẳng nếp, huy hiệu, phù hiệu, cấp hiệu sáng ngời, giày đen bóng loáng, đi đứng hiên ngang. Xe hơi, xe vespa, lambretta, honda, xe ngựa, lên dốc xuống đèo vui như ngày hội. Đầy trời xuân có hoa rộn nở tưng bừng. Hoa hồng, hoa cúc, hoa thược dược, “lay-ơn”, cẩm chướng, bất tử, hoa lan, hoa dại lưng đồi... Đà Lạt giống như một cảnh thần tiên của thiên đường hạ giới.

Dẫu cảnh đẹp mê ly là thế, mà lòng tôi lạnh ngắt vắng tanh cho nên “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, qua mấy ngày xuân con én đưa thoi, tôi lại đáp chuyến xe đò qua Liên Khương, Bảo Lộc, Định Quán, Long Khánh, Biên Hòa để về Saigon kiếm kế sinh nhai.

Việc đầu tiên là xin tá túc chỗ quen khu Tân- Định, xong trích ngân khoản dự trữ sắm chiếc xe đạp thay cho cái xe lô-ca-chân, rồi nạp đơn dăm bảy nơi xin mần việc chánh phủ. Nhờ có tí cựu quân nhân, tôi được ưu tiên tuyển dụng làm thơ ký công nhật tại Tổng Nha Kiến Thiết. Tổng nha này là hậu thân của Bộ Kiến Thiết thời KTS Hoàng Hùng làm Bộ Trưởng, ở đường Phan Đình Phùng gần đài phát thanh Saigon.

Tôi chăm chỉ làm việc như một công chức gương mẫu, được vài ba tháng thì bắt đầu dở chứng. Tôi bắt chước những dân bê bối chuyên môn đi trễ về sớm, lấy giấy “pơ-luya”, dụng cụ văn phòng đem về nhà. Lắm lúc lại lợi dụng giờ chánh phủ chuồn đi phố lo chuyện riêng, ăn nhậu, làm áp-phe với thân chủ. Ai muốn nhờ vẽ họa đồ nhà cửa, muốn có giấy phép sớm, mua vật liệu rẻ, xây cất lố khác họa đồ, tôi đều trung gian điều chỉnh. Nhờ vậy, lương tháng ba cọc ba đồng mà tôi vẫn rủng rỉnh tiền bạc.

Lâu lâu, tôi lại о bế cấp trên, biếu xén quà cáp chút chút để xếp che chở, phe lờ cho mấy vụ lem nhem.

Hồi ấy, có phong trào học đêm, anh em công chức quân nhân tối tối mò đi học tại Hội Khuyến Học Bổ Túc đóng đô ở trường tiểu học xế cửa Tổng Nha Kiến Thiết. Đủ mọi thành phần quân cán chính, đủ lứa tuổi tác già trẻ, lại có cả các tên tuổi quen thuộc hiện diện dưới đèn. Như nhạc sĩ Hùng Lân “Khoẻ Vì Nước” đêm đêm ôm sách, kèm theo cái đèn điện, dòng giây thòng lòng dưới bàn, cắm điện sáng choang bởi ông này cận thị hơi nặng nên cần nhiều ánh nến. Ông Tá Huỳnh Hữu Hiền một thời Tư Lệnh Không Quân. Có ông vợ con cả bầy lớn bé, cũng cắp cặp đạp xe đạp đi học như Cao Bá Vũ sau này là giáo sư triết khá nổi tiếng.

Anh nào đi học cũng mong kiếm cái mảnh bằng Tú Tài I, Tú Tài II để làm bước tiến thân. Tôi cũng lóp ngóp giữa số đó. Được cái là tôi nhã nhặn hay nhường nhịn cho nên anh em đậu xong Tú Tài, lên Văn Khoa, Luật Khoa, tôi vẫn lẹt đẹt Tú Đơn chờ Tú Đụp.

Học hành chưa nên cơm cháo gì, đánh đoàng một cái, lệnh Bộ Quốc Phòng ban ra rằng ai có Tú Đơn trở lên mau mau ca bài ta đi tòng quân cứu nước. Tôi từng một thuở yêu đàn, đàn đúm trong ban văn nghệ Ngự Lâm Quân, rồi Đệ Tứ Quân Khu Ban-Mê-Thuột, nay coi như cựu quân nhân không hề théc méc. Thế mà một bữa đang mần việc nhà nước, nhận tờ giấy gọi nhập ngũ, lòng tôi ngẩn ngơ, tái tê, hãi ơi là hãi. Lệnh trên hành quân, không cần xét cựu quân nhân hay tân quân nhân, cứ tú đơn là a-lê-hấp đi lính, ai khiếu nại hạ hồi phân giải.

Cầm lệnh nhập ngũ, tôi lo lắng, sợ hãi, cứ у như hễ đi lính là mình nắm chắc cái chết vậy. Chả bù với những lúc ngồi trên gác trọ cùng nhạc sĩ Tuấn Khanh, người viết nhạc kẻ đặt lời các bài hát ca tụng những chiến công hiển hách của Chiến Sĩ Cộng Hoà, tôi đã như một người lính can trường cùng đồng ngũ vào sinh ra tử, hiên ngang tay súng bảo vệ sơn hà. Bây giờ vào việc mới rõ cái bộ mặt chuột hèn nhát, khiếp nhược của mình. Thì ra, nói một chuyện còn làm lại là một chuyện khác.

Tôi linh cảm cả hiện tại lẫn tương lai sụp đổ cái rầm. Mà con đường phải tiến tới lại là độc đạo. Ấy là “đường vào quân trường là đường về quê hương.” Chẳng đặng dừng, tôi thu xếp hành trang một gói, theo chuyến xe buýt ghé Quân Vụ Thị Trấn Saigon trình diện, chờ đến chiều tà đông đảo anh em, cùng nhau leo lên chiếc GMC qua ngả Lê Văn Duyệt, Ngã Tư Bảy Hiền trực chỉ hướng Quang Trung đến trại nhập ngũ số 3 làm thủ tục vào trường.

Cuộc đời tôi tưởng chuyến này đi đoong mút mùa lệ thủy, ai có ngờ đâu chính lại là đường mây rong ruổi thênh thang nhẹ gánh tang bồng.

Âu cũng là định mệnh đã an bài, đục nhờ trong chịu.