← Quay lại trang sách

- 8 -

Trong thời gian làm việc tại Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp, tôi được cụ chánh văn phòng dẫn đi giang hồ hơi nhiều. Cụ là cây tử vi tướng số hạng tài tử, muốn dùng tôi như dùng người mẫu hoặc một vật thí nghiệm, đưa tới quý vị tướng số chuyên nghiệp cũng như vô danh, ẩn dật xem quý vị ấy tiên đoán thời tiết, tương lai bổn mạng của tôi ra làm sao, có trùng hợp với tài tiên tri của cụ không, để dễ bề học hỏi và nghiên cứu.

Cụ kể chuyện Hui-Bon-Hoa mả táng hàm rồng, giàu nứt đố đổ vách, tặng đô thành nguyên một cái nhà thương gần chợ Bến Thành, tài sản khắp nơi... Xong cụ lái xe từ Saigon lên Thủ Đức, chỉ cho tôi coi con đường ngoằn ngoèo giống như đuôi, như thân con rồng. Theo lộ trình Thủ Đức - Biên Hòa, đi con đường cũ là “đường trong”, quá Thủ Đức một ít cây số ngàn, phía trái có khu mộ nhà Hui-Bon-Hoa. Cụ bảo có mấy cái mộ xây у như nhau nằm hàng ngang, nhưng chỉ có một cái là mộ chánh, còn mấy cái khác đều giả, để không cho kẻ gian biết đâu là thật, đâu là giả mà đào phá. Cụ giảng rằng mộ đặt ngay boong vào cái họng con rồng. Phía trước mộ thoai thoải xuống sông Biên Hòa là cái lưỡi rồng. Nhiều ngôi mộ đặt tại khu lưỡi rồng, chẳng kết phát gì sốt cả là vậy.

Tôi chả biết rồng rắn là làm sao nhưng nghe giảng địa lý nhân văn ra chiều hợp lý thì dạ dạ vâng vâng rất chiếu lệ. Thâm tâm, tôi đã nhắm mục tiêu trực chỉ quán thịt rừng Tân Vạn hoặc tiệm đầu cá hấp Biên Hòa, bởi nó vừa thực tế, vừa thực thể, vừa cụ thể mà lại vừa tiện thể.

Cụ bảo ở Saigon, có cái phủ đầu rồng là chỗ vị nguyên thủ quốc gia cai trị việc nước, nhưng mà thiếu cái đuôi rồng. Đầu mà thiếu đuôi thì còn ra cái thống chế Pétain gì nữa. Cho nên thày địa lý nào đó mới chỉ chỗ đặt đuôi rồng. Nó chính là cái bùng binh tức hồ Duy Tân, nơi đặt đài kỷ niệm tri ân các quốc gia giúp đỡ Việt Nam Cộng Hòa, có cái hồ nước phun róc rách, sen mọc lai rai. Giữa hồ, là kiến trúc uốn cong như đuôi rồng. Người ta bảo như thế là đủ bộ, là đẹp. Hồ này cạnh nhà đèn và trường đại học Luật Khoa cây dài bóng mát, chiều chiều mùa hè, các cô các cậu vẫn rủ nhau ra ngồi quanh ven hồ, soi bóng nước gương hẹn hò bù khú.

Tối tối, khi thành phố lên đèn, nhiều gia đình chở xe gắn máy, xe vespa, lambretta, xe hơi lại đây cho trẻ con chạy nhẩy chơi đùa. Khu đài kỷ niệm giữa hồ, sau này giăng kẽm gai không cho ai leo lên đuôi rồng, e phá hoại thì động đến phủ đầu rồng. Những trẻ bán cà-rem và các xe mía hấp, tập trung nơi này, làm ăn coi mòi ăn khách.

Có khi, thày trò tôi lại cụ Fây nghe tình hình chính sự và chiến sự cùng tử vi địa lý. Cụ Fây vẫn cứ khen tôi có vóc dáng cọp, bảo tôi đưa cụ một tấm hình “cát-xít” để cụ niệm chú giúp cho công danh sự nghiệp. Gì chứ mục đó thì tôi chịu liền cái rụp. Cụ Fây kể chuyện chánh phủ, chuyện tướng lãnh, chuyện các quý phu nhơn, rồi bảo rằng trên vùng Lâm Đồng có một chỗ đất đẹp lắm. Mả nào táng vào đó là phát lớn lắm à! Cụ đã lên tận Blao, đáp trực thăng cùng quan đầu tỉnh, bay vòng vo tam quốc mấy vùng đồi núi chập chùng quan sát địa lý. Cụ khám phá ra dưới thung lũng có vũng hố sâu, đó chính là đắc địa. Quan đầu tỉnh còn cả phụ mẫu chi dân, vẫn dành chỗ ấy cho mai hậu. Cụ Fây tiếc cho tôi, giá mà làm được thì lẫy lừng lắm. Tôi chả sao làm được, vì bà mẹ mất tận ngoài Bắc, phải cải táng đem hài cốt vào Nam, lên Lâm Đồng tái táng thì nhiều khê, diệu vợi và hầu như không thể có. Còn ông bố tôi mới ngoài bẩy mươi tuổi, chân tay vẫn mạnh khỏe, cũng ở Bắc, làm sao mời cụ... đi sớm để đem táng tận Lâm Đồng? Dẫu có ham phú quý vinh hoa công danh bổng lộc đến mấy, tôi cũng không dám có cái dã tâm như Cộng sản là làm bất cứ cách gì để đạt mục đích dù rằng phải cho đi ô-tô-bương các đấng sinh thành!

Cụ Fây có lần đến nhà tôi nhân chuyến thăm thân chủ, cụ đảo quanh nhà sau sân trước một lượt rồi phán rằng:

- Cửa chính nhà cậu mà lại xoay ngang, nhìn ra tường nhà bên cạnh, tức là đi vào cửa hông. Người quân tử phải đi cửa chính. Chỉ có kẻ tiểu nhân mới đi cửa hông, cửa sau, cửa hậu. Thành ra cậu không đón được người quân tử vào nhà. Muốn sửa lại, cậu phải bít cái cửa hông ấy đi, phá tường làm cửa mặt trông ra ngoài cổng trước, có vậy mới khá.

Được nhà địa lý khen mình là người quân tử thì tôi đã sướng quá đi rồi, nay cụ lại chỉ cho cách chỉnh trang kiến thiết nhà cửa cho đẹp đẽ văn minh hơn, rồi lại được chơi với toàn cỡ quân tử thời tôi chịu lắm lắm.

Ngay tút suỵt, tôi nhờ thợ mộc thợ hồ ra công làm liền tù tì. Chỉ trong vòng một tuần lễ, cửa ngõ nhà tôi đã nom rõ là chính diện, phong cách. Mỗi lần ra vào cửa chính, tôi đều cảm thấy mình là người quân tử.

Dẫu là quân tử đa cùng và độc diễn như thế, tôi vẫn mang cái mặc cảm lẹt đẹt thua anh kém em về đủ phương diện quốc gia. Như sự học của tôi là một. Hỏi cụ- Fây xem cái số khoa cử học hành thế nào thì cụ tỉnh bơ mà rằng:

- Cậu thì học hành cái con mẹ gì. Cậu chả cần học cũng đỗ...

Tôi đẩy nhẹ thêm một câu:

- Mà thưa cụ, con đỗ được tới đâu cơ ạ?

Cụ vẫn bơ đi mà rằng:

- Cậu muốn đỗ tới... tiến sĩ cũng dư sức qua cầu... Mà đỗ thì phải mang hai chai rượu tây cho tôi đấy nhá!

Nói xong, cụ cười khà khà...

Tôi đã được gọi là người quân tử, nay lại sắp võng lọng nghênh ngang nữa thì mê chết đi được. Bèn lẽo đẽo chạy cái lambretta khói phun mờ mịt đến trường luật nhờ vả cậy cục bài vở thi cử để mong chiếm tí bảng gỗ che lưới cho mát mặt với đời. Tôi có người bạn học cũ ở Khuyến Học Bổ Túc là anh Toàn, mỹ danh “Toàn Ngắn” bởi chiều cao có khi còn thấp hơn khẩu “ga-răng”. Hắn lo dùm ghi danh, lấy thẻ, mua bài, tin tức thi cử... Thế là quý hoá và ưu tiên quá xá rồi. Dần dà, tôi làm quen được với cụ Tổng Thư Ký Nguyễn Thượng Kiên. Cụ có vóc dáng mình hạc, nom người không mấy mạnh mà nói năng rất khỏe. Chức vụ của cụ là một chức vụ nặng nề nơi trường Luật. Ngôi trường nom có cái mã mà phòng ốc bàn ghế trong lớp lộn tùng phèo, sinh viên phải đi sớm theo ghế giữ chỗ chờ thày đến giảng bài, nêm như nêm cối, chen chúc như cái chợ vỡ vậy.

Cụ Kiên lo hầm bà lằng hành chánh, quản trị, chương trình thi cử các lớp. Lúc nào cụ cũng bận tối tăm mặt mũi và ít thì giờ trò chuyện với sinh viên. Ấy thế mà tôi lại được đài gương soi đến dấu bèo, cụ dành biệt nhỡn mỗi khi tôi nhờ vả.

Tôi học hành tối mò như đêm ba mươi tháng chạp nhưng bù lại trời cho cái thiên tài cóp bài, đút lót, chạy cửa hậu rất kền. Gia đình vợ con đìu íu, công việc chánh phủ chập chồng mà tôi còn đến trường lấy tài liệu bài vở được thì đã là giỏi lắm rồi ấy chứ! Còn bài vở đem về nhà có đọc, có học hay không, chỉ có tôi với cái giường biết mà thôi! Gần ngày thi, tôi lật dăm ba trang sách ra coi cho có lệ, đỡ thắc mắc. Rồi dành thì giờ vào phút chót, tôi quay thành các bộ phim tài liệu.

Học trò ngày xưa đi thi, dấu tài liệu dưới gầm bàn, trong tay áo, dưới giày... đều là các phương pháp cổ điển. Tôi đi thi, tài liệu lúc nào cũng chình ình ngay trên bàn, trên tay, ngay trước mắt giám khảo, giám thị mà vẫn bình tĩnh hiên ngang như chốn không người...

Phương pháp đi thi của tôi có thể in thành sách, ít ra là dầy bằng cuốn học thi vào quốc tịch Hoa Kỳ. Nhưng ở đây, tôi chỉ ghi vắn tắt để tránh bị nghi kỵ là cạnh tranh hoặc khoe khoang lớn lối.

Cách thứ nhất là ghi các công thức, các tên, các năm, các điều quan trọng cần nhớ vào... bàn học. Ghi bằng bút chì vót nhọn. Bàn học bên ta cũ mèm, đen kịt, viết chì lên, nom thấy gì đâu. Ấy thế mà nghiêng nghiêng con mắt nhòm xéo vào, tôi thấy nguyên con, tha hồ mà chép. Cái khéo là làm sao ra vẻ như mình suy nghĩ mung lung, ngả nghiêng thẫn thờ tìm ý để ngó và chép cho suya là được. Có cái sườn rồi thì cứ viết lia lịa cho đầy trang, kéo dài ra là thày tưởng như học trò này có ăn có học nên chữ nghĩa đầy mình.

Cách thứ hai là ghi mật mã, mật hiệu, mật lệnh vào bốn mặt của chiếc thước kẻ. Ghi bằng đầu mũi kim, chỉ cần các nét như khắc vào gỗ. Có thể làm vài cái thước kẻ, mỗi lần thi dùng một cái làm tin. Cũng ngả nghiêng cánh chim mà đọc thước kẻ để ghi ý chính hoặc số liệu cần thiết.

Cách thứ ba là dùng mũi kim ghi vào sáu mặt của chiếc bút chì, cũng vẫn phương thức đọc như trên. Cách thứ tư là thông tin tình báo, tức như làm quen trước với các tử sĩ đông tây nam bắc qua quanh mình. Hễ gặp biến cố thì nhờ đồng minh cứu nguy, yểm trợ tại chỗ. Nếu phúc đức lại gặp kẻ ngồi cạnh là sinh viên thuần túy, chịu khó đến trường nghe giảng và học thuộc bài như cháo mà cho ta tóm lược, tức là cho chép bài nhưng đừng chép nguyên văn mà khổ cả đám, thì thực là tuyệt... vọng!

Cách thứ năm là hỏi xem thày chú trọng những đoạn nào trong sách thì nhắm vào đó để làm phim, đặt thành trọng tâm công tác tình báo chiến thuật.

Sau khi thi cử rồi, coi mòi bài vở viết được dăm bẩy tám chín trang đầy chữ, thì theo rõi tình hình chấm bài. Môn nào mình yếu quá, tất cần chạy thày chạy thuốc cho mau. Trên đại học luật khoa, bài nào dưới ba điểm là rớt dù các bài khác 19, 20... Chạy thuốc, có thể bằng nhiều cách thần sầu, nhưng cũng có giáo sư “đuya”, đụng vào như đụng đá vỡ đầu bể mặt. Thiên hạ chạy thuốc có khi bằng quyền băng thế, bằng tiền, bằng tình... Còn tôi chỉ nhờ trời cho cái bộ mặt ngây thơ nom rất dễ thương... hại mà hoá lại ăn tiền. Nên cụ Tổng Kiên nom thấy là ra tay cứu vớt đôi phen. Rồi bạn bè cũ công danh cả đống, tôi kể khổ, moi ra thời xưa đi học, đá banh, ăn ổi có nhau, nay nhờ tình đồng môn giúp nhau qua cơn hoạn nạn. Lũ bạn cũ lại vác chân lên cẳng chạy tiếp sức kéo tôi từ vực sâu lên núi cao có trăng thanh gió mát. Rồi mấy ông thày cũ, mấy ông làm lớn trong chánh phủ mà tôi có dịp phục tòng, thấy đệ tử đi thi thì cũng nới tay nâng đỡ. Nhờ tất cả những cánh quân tả phù hữu bật, tiền đạo, hậu vệ, trung phong nức lòng bao bọc mà tôi như phi thuyền đang từ mũi Kennedy bay tuốt luốt tới tận cung trăng cùng Hằng Nga, Hậu Nghệ...

Mỗi năm ngon trớn như thế, tôi lại vác một chai rượu tây lên nhà cụ Fây làm lễ tạ ơn và xin “chịu” một chai vào năm tới. Qua bốn phùa thi chơi ăn thiệt, tôi bỗng dưng trở thành một ông cử, tuy khó tin nhưng có thật.

Việc đầu tiên là tôi in một lô danh thiếp với tên tuổi, bằng cấp, gặp ai cũng làm ra vẻ thân mật hỏi nhà cửa rồi trao một tấm danh thiếp để tiện liên lạc sau này.

Họ hàng, phường xóm là chỗ đã quen biết thì tôi gợi chuyện học hành bận rộn, thi cử vất vả nên ít ghé thăm, để sau cùng đành lòng phải tiết lộ là mình vừa đậu xong ban đại học.

Với bạn bè cũ, những đứa trước kia cùng đạp xe đi làm, leo xe buýt đi phố, ăn kem mút, uống nước dừa, ăn thịt bò khô, bây giờ tôi thấy chúng nó với tôi như xa cách muôn trùng. Tôi đã là tôi có danh thiếp in bằng cấp sắp thăng hoa, còn chúng nó vẫn dậm chân tại chỗ, kém cỏi, tầm thường...

Việt Nam ta một thời có phong trào diễn thuyết “Tại sao tôi trở thành bác sĩ?”, “Tại sao tôi trở thành dược sĩ?”, v.v... Ai đến dự cũng đều khâm phục và khen ngợi. Tôi cũng định lập một chương trình đi các tỉnh, các đại học, các đoàn thể, các cơ quan với đề tài “Tại sao...”, nhưng ngồi nghĩ lại thấy mình toàn nhờ cóp bài, láu cá, ranh vặt, chạy chọt, luồn lọt, lạy lục mà có cái mảnh bằng thì vinh dự, danh giá chi mà đem khoe thiên hạ. Có khi còn bị khán thính giả ném cà chua, trứng thối, vạch mặt chỉ tên là đồ vô tư cách, vô liêm sỉ thì khốn. Cho nên tôi bỏ mộng diễn thuyết “Tại sao...”

Lắm lúc ngẫm lại, nhìn quanh quẩn gần xa tôi lại cảm thấy được đôi chút vỗ về an ủi. Những thằng “mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ” để xin một chân đi ngoại giao, những tên đeo mặt nạ theo hầu bà lớn để làm áp-phe kinh tế, những đứa đổi vợ đổi con để lấy một tí danh giá, những đứa buôn bán chợ đen chức tước, bán tống bán tháo quân trang quân dụng của quân đội cho kẻ thù, những đứa đem sinh mạng của hàng triệu đồng bào đổi chác lấy một đời thừa nhục nhã lang thang. Tôi so sánh rồi tự nhủ là mình chưa can phạm, lòng phạm hay thủ phạm thì chưa làm gì có tội với quốc dân đồng hồ đâu, việc chi mà áy náy!

Nhớ lại tướng số tử vi của mình, tôi thấy cụ Fây đoán cũng nhiều cái đúng. Như cụ bảo tôi chẳng học mà thi vẫn đậu thì quả nhiên cụ đoán như thần. Như cụ phán cho tôi sửa nhà thì từ đó tôi mời mọc cũng có ông lớn, bà lớn tới chơi. Như cụ bảo số tôi hiển đạt, làm to thì tương lai tôi đang sáng choang có khi còn hơn đèn 50 ngàn nến. Duy có điểm cụ nói tướng tôi là tướng cọp, ví tôi như Hàn Tín thì tôi còn hoang mang, mung lung suy nghĩ. Có đâu mồ mả nhà tôi lại có ai lén lút đem táng họng rồng, thay thế họ Hui-Bon-Hoa, hoặc có “mission impossible” nào đem hài cốt má tôi bỏ xuống thung lũng hồng miền Bảo-Lộc? Những chuyện ấy chẳng bao giờ có được. Thế thì: “Tại sao tôi trở thành” tướng cọp nhỉ?

Niềm vui kỳ ảo ấy cứ canh cánh bên lòng.

Một bữa cuối tuần đi lang thang quanh chợ Bến Thành, lúc qua gian hàng bán đồ chơi trẻ con, tôi thấy trong đám tàu thủy, máy bay, tàu ngầm, búp bê, mặt nạ, có cả thú vật như gà, heo, khỉ, chó, mèo và... cọp làm bằng giấy. Tôi đứng lại ngắm nghía một hồi lâu, xong tạt sang xe ngộ mị phá lấu làm một đĩa, nhâm nhi với chai la-de trái dứa. Trong lúc tâm hồn bay bổng với chút men say, tôi chợt trông thấy tôi chập chờn qua hình ảnh con cọp. Tôi khám phá được một điều cay đắng...

Thôi đúng rồi, ông cụ tử vi địa lý tướng số này vậy mà thâm trầm, xa xôi bóng gió quá đi thôi. Chẳng qua là cụ không muốn làm phật lòng tôi nên nói tránh né. Chứ với kinh nghiệm già đời, với con mắt tinh đời, cụ nhìn đường đi nước bước, nghe lời ăn tiếng nói, phong cách của tôi nó lộ rõ mồn một rồi thì cứ thế mà đọc ra, nào cần chi phải đoán.

Cụ bảo tôi có tướng cọp mà tôi cứ nghĩ mình là cọp rừng thiêng oai linh dũng mãnh “ta say mồi đứng uống ánh trăng tan", hoặc thất thế thì cũng như con cọp nằm mèo trong sở thú “ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ”, để chờ một mai tháo cũi sổ lòng lại tung hoành “giữa chốn rừng thiêng không tên không tuổi” như thường...

Đàng này, ý cụ chê tôi là tướng hèn, tiểu nhân, cả đời đi “cọp-pi”, qụy lụy đê tiện, không nhân cách, không cả sức mạnh thể xác lẫn tinh thần, nào có khác chi một con cọp... giấy!

Tôi đâm ra thương cho chính cái thân tôi. Giá được làm con cọp... chết cho đỡ khổ, thì tôi cũng còn mãn nguyện vì các cụ nói “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”, chứ như tôi làm thân “cọp giấy” khác chi làm ông “tiến sĩ giấy” cho trẻ con nó chơi, thì đầu đường xó chợ nào có thiếu gì...