← Quay lại trang sách

- 12 -

Bốn năm lưu lạc, tôi chưa làm được gì cho ra hồn, ngoại trừ miếng cơm manh áo. Với đại gia đình bên kia đại dương đang sống đọa đày trong hờn tủi xót xa, tôi cũng không có lấy một cánh thư xuông an ủi. Mà thực ra, tôi biết nói gì? Nói về gia đình mình ư? Thì phải mô tả nhà có hai, ba phòng, có điện, có nước nóng, có điện thoại, có máy lạnh, có ti-vi màu, có cassette, có vườn trước sân sau cỏ mọc xanh rờn. Nhà ở cạnh hồ lớn, có bè rau muống, có thuyền đi câu, có gió mát trăng thanh, hương hoa bưởi, hoa cam thơm lừng một vùng trời an lạc.

Kể về tiện nghi ư? Thì nào là xe hơi Huê-Kỳ chạy êm như ru, chợ búa gần gũi, thịt thà, rau cỏ, sữa, trái cây e hề, mùa nào thức đó. Quần áo giày dép thì đủ kiểu, đủ màu cho hợp thời trang.

Phấn son, mỹ phẩm tha hồ chọn lựa. Chuyện học hành con cái ư? Thì có nhà nước lo xe đưa đón hàng ngày, lớp học mát mẻ, sáng sủa, thoải mái, lâu lâu lại nghỉ lễ, nghỉ chơi, nghỉ hè, cứ tuần tự lên lớp. Còn cái mục học trò Việt Nam chăm chỉ, lễ độ, thông minh, giỏi toán, giỏi cả anh- văn, cuối năm thường đứng đầu lớp thì đó là chuyện thường tình...

Hay là kèm theo thư, gửi về nhà một vài tấm hình lưu niệm ư? Thì hình là hình màu, người là người từ tiên giới, đầy đủ, ấm no... Người ở bên nhà đang chật vật, đói rách với hộ khẩu, với kinh tế mới, đang thất điên bát đảo với hội họp, kiểm thảo, tự khai và bắt bớ rình rập, nay nhận thư, nhận ảnh ngoại quốc, bỗng so sánh như địa ngục với thiên đường, ắt kẻ ở lại đau khổ dập vùi thêm, thất vọng hơn chứ nào có xoa dịu được chút nào đâu!

Thành ra, chỉ có những gói quà lớn nhỏ, tùy khả năng, tùy hoàn cảnh mà an ủi gia đình là xem ra cụ thể và có giá trị hơn cả. Cũng có người ở nhà bảo rằng chỉ mong thư từ hình ảnh của kẻ ở miền xa mà thôi, chứ đâu có cần quà cáp mà không thấy hồi âm. Nhưng sự thực đắng cay là cho dù những người có tư cách nhất, đạo đức nhất, tự ái nhất, một khi đã sống dưới chế độ Cộng sản do nhà nước quản trị, giám sát cái dạ dày, kiểm soát thanh tra luôn tư tưởng thì con người đã mất đi tất cả tự do và bị lệ thuộc nhiều vào miếng cơm, miếng khoai, củ sắn. Nên dẫu quân tử Tàu cách mấy, vẫn mơ ước những giúp đỡ, tiếp tế dù to dù nhỏ từ ngoại quốc gửi về.

Như kẻ sắp chết đuối vớ được tấm gỗ, thanh củi hoặc đám bèo... Cái gì cũng quí. Bởi đó là sự sống. Bởi đó là hy vọng...

Tôi chưa làm được chuyện gì ngoạn mục với gia đình, lâu lắm mới có tí quà về biếu ông bố già cô độc. Với đàn em, đàn cháu, tôi xa cách chúng nó mấy chục năm lưu lạc giang hồ, cái tình ruột thịt đâm ra cách xa, hầu như đến độ vô tình và tự cảm như vô trách nhiệm.

Lũ em tôi, dẫu sống từ tấm bé dưới chế độ Cộng Sản, được nhồi sọ khá đủ các giáo điều, vẫn ôm mộng một ngày nào đó vượt biển tìm tự do. Tôi chả dám khuyên chúng nó nên ở hay nên đi, chỉ biết qui vào số mạng. Đứa nào thoát được ngục tù thì đứa ấy may mắn. Qua đến đảo là tôi có bổn phận bảo lãnh, lúc đó tôi trách nhiệm đã đành.

Chuyện vượt biển đã là chuyện có thực, xẩy ra hàng ngày tại Việt Nam. Trước năm 1975, chả thấy ai hành trang lên tàu lớn tàu nhỏ ra khơi qua Thái, qua Mã Lai, qua Úc, qua Phi, qua Nhật... Mà chỉ từ khi Cộng Sản được trao lại miền Nam mới thấy ào ào thuyền nhân đi tìm tự do liều lĩnh.

Những con thuyền gỗ mỏng manh, yếu đuối, chứa mấy chục người già trẻ lớn bé. Người lái tàu chưa từng đọc địa bàn, không hề biết sửa máy móc. Ấy thế mà họ vẫn ra đi, một liều ba bẩy cũng liều. Con thuyền trong đại dương còn nhỏ bé hơn chiếc lá tre trên sông lạch, lại sóng nước bao la dập vùi xô đẩy, lại bão tố ngập trời. Vực sâu, miệng cá vẫn đợi chờ rình rập. Họ vẫn ra đi. Trên đại dương, ngoài sóng to gió lớn biển sâu cá dữ, còn có một thứ dữ hơn cả thiên tai, ấy là bọn hải tặc. Bọn chúng đã cướp bóc, hành hạ, hãm hiếp, bắt cóc, thủ tiêu không biết bao nhiêu thuyền nhân.

Trước thảm trạng đó, lương tâm nhân loại hầu như vẫn ngủ im lìm.

Tôi thường nghe chuyện thương tâm, đau đớn về thuyền nhân nhưng trong lòng chẳng may may xót thương, lo lắng. Bởi những người chịu thảm trạng đó chẳng ai là ruột thịt của mình. Nên bình chân như vại. Cả đến những công cuộc lạc quyên giúp đỡ trại tỵ nạn, tiếp tế cho thuyền nhân, cứu vớt người vượt biển, các công tác xã hội, у tế để an ủi đồng bào kém may mắn, tôi cũng đều không tham gia, không đóng góp làm gì. Tôi nghĩ rằng nhu cầu thì nhiều, mình có giúp cũng như muối bỏ biển. Hai nữa, nếu tôi giúp thì tiền ấy liệu có đến tận tay nạn nhân hay lại trôi dạt phương nào? Ngoài ra, quanh tôi còn biết bao nhiêu kẻ tiền rừng bạc bể đã thấy nhúc nhích đóng góp gì đâu?

Với các tôn giáo như Phật Giáo, Công Giáo. Tin Lành, tôi ít khi lai vãng tới chốn tôn nghiêm. Thôi thì bên cha cũng kính, bên mẹ cũng vái, mình bận rộn quanh năm, đâu có thời giờ đi lễ bái. Chưa lần nào tôi đóng góp cho chùa để cầu phước, cầu an. Còn những hoạt động xã hội, Phật tử, tôi lại càng không mấy quan tâm ủng hộ.

Những ngày Quốc Hận, cộng đồng tổ chức kỷ niệm ngày bỏ nước ra đi, bày tỏ niềm nhớ quê hương, xót xa thân phận những người ở lại, những người bị đày ải giam cầm hành hạ nơi các trại cải tạo tập trung hàng đêm không ngủ, bằng chương trình họp mặt văn nghệ để nung nấu ý chí hờn căm phục hận, mong một ngày về thì tôi cũng nhớ đấy nhưng nghĩ có tham gia thì chưa chắc đã chết thằng Cộng Sản nào cho nên nằm nhà nghỉ khoẻ để còn giữ sức đi cầy.

Những đám mít-tinh, biểu tình lên án chế độ Cộng Sản đã được nhiều giới tham dự, dù trời gió trời mưa, dù phải lái xe hàng bẩy chục dặm đường mới đến nơi, dù phải nghĩ việc một buổi làm, dù có người già vẫn chống gậy lẽo đẽo theo con cháu, dù có kẻ con thơ bế ẵm trên tay cũng cầm thêm được lá cờ quốc gia để bày tỏ lập trường. Các đài truyền hình địa phương đã quay những cảnh hội họp và chiếu trên ti-vi, tôi vẫn theo dõi đầy đủ cả đấy chứ!

Lớp người trẻ sang đây rất dễ hội nhập với cuộc sống Âu Mỹ mà có cái lạ làm sao họ vẫn thiết tha với Việt Nam. Bằng cớ là chính lớp trẻ thường đứng ra tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương, kỷ niệm các bậc anh hùng hào kiệt, đảm trách Chợ Tết, lo văn nghệ liên trường, tổ chức văn nghệ đấu tranh, mở các lớp dạy Việt Ngữ cho thiếu nhi, làm báo, sinh hoạt tập thể. Họ làm việc rất hăng say, dù ít người được người lớn làm cố vấn, yểm trợ, tiếp sức. Họ làm việc với tinh thần của tuổi trẻ, với trách nhiệm tự đề ra, với lòng nhiệt thành và tình yêu mến quê hương đã tiềm tàng trong dòng máu.

Những khi đi dự lễ, đi coi chương trình văn nghệ do sinh viên tổ chức, nhiều lúc tôi cũng xúc động đến tràn nước mắt vì được nhìn lại hình bóng cố hương qua các màn ca nhạc kịch vui tươi, được nghe lại những âm điệu với tiếng hát lời ca quen thuộc xa xăm, được theo rõi múa lân, ông địa, trống phách rộn ràng linh động, được trò chuyện gặp gỡ bạn cũ mới đồng hương. được sống lại một mảnh đất quê hương trên đất nước người.

Những giây phút ấy, thực tình là tôi quyến luyến Việt Nam, vui với cái vui tập thể.

Rồi khi chia tay, cuộc sống thực tại lại kéo tôi về với bổn phận riêng tư. Rồi mọi chuyện lại chìm sâu vào quên lãng mơ hồ.

Đôi lúc nghĩ quẩn nghĩ quanh, tôi không biết tôi là Việt Nam hay là Mỹ nữa...

Đời sống bên những vòi xăng, lốp xe, kìm khoá. dầu nhớt tuy không quá nặng nề nhưng tuổi đời chồng chất mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi, nó làm cho tóc ngả muối tiêu, mắt mờ chân chậm, còn hai cánh tay lực sĩ kiến càng ngày nào nay chỉ là hai que củi tong teo, bê cái lốp xe thấy như bê cối đá, dù cái lốp xe vẫn nặng có bấy nhiêu thôi...

Thế là tôi biết tôi đi xuống, tinh thần thể xác yếu nhiều. Nếu không mau tìm đường thoát thì chắc chắn có ngày sụm bà chè, tôi quỵ tại cái tỉnh nhỏ đêm buồn này lúc nào không biết...

Nhân một chuyến ngao du dịp hè qua tiểu bang Tếch-Xịt, tá túc nhà Hoán Tàu tại Houston, hắn nghe tôi tả oán cuộc sống lam lũ vất vưởng nên động tâm bồ đề trắc ẩn ra tay cứu vớt. Lại được bà vợ hắn rất dễ chịu dễ thương đồng ý sẵn lòng cưu mang bao bọc cho nên gia đình tôi quyết định bỏ nghề bơm xăng ở Florida để đi Texas làm nghề quét chợ.

Quyết định mau lẹ đến nỗi lúc đi chào bạn bè ở đơn vị chót, ai cũng cười tình cho là tôi rỡn chơi chứ đi đứng vào cái khổ nào. Tôi phải làm ra bộ nghiêm nghị đứng đắn, thề thốt dăm ba-phùa, lúc đó anh em mới ngỡ ngàng chia tay từ biệt ngẩn ngơ.

Sự ra đi là chẳng đặng dừng, chứ đất nước người, nơi nào cũng vậy. Đất mát thì cò đậu. Nhẩy lắm cũng mệt, dù là nhẩy... đầm! Vậy mà tôi phải rũ áo Amoco ra đi là chuyện không làm sao hơn được.

Về Houston, sau thời gian mấy tuần lễ ở nhà Hoán Tàu đớp hít thả dàn, tôi được Hoán Tàu giới thiệu với xếp lớn UTOTEM là mông-sừ Lê Phú Thịnh. Dăm bữa sau, xếp Thịnh cho gia đình tôi quản trị một tiệm Utotem nho nhỏ. Thế là tôi lại có chân đứng khá vững vàng, có nghề ngỗng kiếm ăn. Bỏ nghề bơm xăng qua nghề chạp phô, tưởng giã từ xăng nhớt, ai ngờ nó vẫn cứ lẽo đẽo theo đuôi. Tiệm chạp phô này, ngoài các mục bán hầm bà lằng đồ ăn thức uống, vật dụng linh tinh, còn bán cả xăng “rề-gu-la” và “ân-lít”. Tôi lại phải kiêm nhiệm luôn vụ đo xăng, bấm máy, báo cáo xăng hàng ngày. Chỉ có điều là không phải giãi nắng dầm mưa đứng tựa cây xăng nhìn trời mây non nước, còn thì trách nhiệm vẫn cứ như thường.

Ba năm ròng rã làm mỗi ngày 18 tiếng liên miên, gia đình từng năm bảy lần bị Mỹ Trắng, Mỹ Đen, Mể cầm súng ngắn, súng săn vào tiệm dơ súng bắt nạp tiền, có đứa lúc rút lui còn bắn pằng pằng lên trần nhà, giống như cao bồi trong phim xi-la-ma vậy. Vợ con xanh máu mặt, khóc ròng vì những cú “hít-cốc” lạnh người. Nhân lúc nhận định tình hình chạp phô người khôn của khó, lắm chuyện phiền hà, gia đình tôi lại thêm một phen giã từ vòi xăng, máy tính chạp phô để xoay nghề khác. Bỏ thì thương, mà vương thì... hãi! Dầu gì cũng xin cám ơn thành phố có chạp phô, đã nuôi mình no đủ.

Làm nghề chạp phô. cốt sao nhận hàng cho đủ. bán hàng đúng giá, bày hàng cho đầy cho đẹp, giữ gìn cửa tiệm ngăn nắp sạch sẽ, tiếp khách niềm nở ân cần, thi hành chu đáo các chỉ thị của hãng, kiểm hàng không thiếu hụt quá mức ấn định, thế là tà tà kéo dài ngày giờ lao động dễ thương. Điều quan trọng nhất là giữ sao trong ấm ngoài êm, chớ có nổi nóng gây lộn, súng ống đì đùng gây án mạng thương tích. Mọi chuyện cứ là “thân trọng thiên kim” chịu đựng, bình tĩnh để tránh nguy hiểm khi bị cướp đến viếng tiệm.

Lúc nào rảnh tay, buồn chân thì ta vận động thể dục thẩm mỹ bằng cách cầm cái chổi chà, cái hốt rác ra sân trước chợ, quét dăm ba cái rác rưởi chai lọ giấy gói, sao cho thẩm mỹ quan tươm tất. Cho nên gọi nghề “chạp-phô” tức nghề “quét chợ” hay “lau chợ” là vậy.

Bỗng dưng bỏ tiệm, không mau tay là thất nghiệp như chơi. Tôi xoay ra đi làm công cho một tiệm bách hoá Mỹ. Lại cũng phải nhờ đến tay Hoán Tàu một keo nữa, bởi hắn có mấy năm thâm niên mần việc tại nơi này.

Cuộc đời tỵ nạn bảy năm, nghĩ cũng cám cảnh thiên địa phong trần, thấm thía cái buồn hải ngoại thương ca, tôi lại nổi hứng mần một mài thơ tức cảnh sinh tình, tự vịnh như sau:

Chẳng phải là ông, chẳng phải thằng

Khôn khôn dại dại múa lăng nhăng

Ba mùa hạ héo đi lau chợ

Bốn độ thu tàn đứng đổ xăng

Chữ nghĩa phất phơ sinh loạc choạc

Học hành lẩm cẩm hoá lai căng

Kèm nhèm mắt mũi, đầu thêm bạc

Lủi thủi ra vào, hết tháng năm...

Lâu lắm không có tin tức gia đình, một bữa tôi nhận thư của chú em nói bóng gió rằng vợ chồng nó cùng thằng em thế nào cũng sang thăm các cháu bên này. Nghĩa là chúng nó tính đường vượt biển tìm tự do. Qua được đảo, có ông anh bảo trợ vào Mỹ thì yên chí rồi.

Chú em tôi tốt nghiệp kỹ sư, vợ nó giáo sư, lấy nhau mới được một, hai năm chưa con cái gì. Cậu em kế độc thân, có bằng dược sĩ. Dẫu là “sĩ” hay “sư” thì dưới chế độ Cộng Sản, bằng cấp cũng như tờ giấy lộn. Đời sống luôn luôn bị đe dọa, cả vật chất lẫn tinh thần, nói chi đến tương lai mù mịt. Chúng nó quyết tâm đi tìm tự do và biết rằng chuyến ra khơi nào cũng đầy bắt trắc, hiểm nguy. Từ khi nghe tin nhà, tôi đâm ra lo lắng, không biết chúng nó đi đứng ra làm sao. Đồng thời, tôi cũng phải chuẩn bị chỗ ăn chỗ ở cho chúng nó sang nữa chứ.

Thế là mấy cha con tôi, nhân cơ hội sắp tiếp đón cô chú tỵ nạn, bèn ra tay sửa sang lại cái “ga- ra” cho sạch sẽ, nối ống dẫn hơi lạnh, đổ thêm bông cách nhiệt trên trần nhà, gắn thêm đèn, kê thêm giường, bàn ghế, cứ у như các cô chú ấy đã đến đảo, chỉ vài ngày nữa là qua Mỹ vậy. Tôi theo rõi tin tức Việt Nam, theo rõi tình hình đi biển, tình trạng thuyền nhân bên đảo Mã, đảo Thái, bám sát các hoạt động cứu trợ quốc tế.

Rồi tôi nhận được một điện tín từ Việt Nam, nói ý rằng hai em trai và em dâu đã lên thuyền. Tôi bồn chồn xúc động, nửa mừng, nửa lo, tối nào cũng thắp nhang chắp tay niệm Phật.

Qua ba tuần lễ, tôi không thấy tin tức gì. Đợi đến hơn một tháng, vẫn tuyệt vô âm tín. Một bữa đi làm về buổi chiều, tôi nhận được lá thư từ đảo gửi sang, hồi hộp như muốn vỡ tim. Đúng là thư của chú em tôi rồi, mà sao bì thư lại đề tên người khác. Tôi xé vội thư, đọc vài hàng xong choáng váng mặt mày té xỉu. Vợ con giựt tóc, đổ thuốc, khóc lóc gọi ầm ĩ làng xóm mãi mới tỉnh. Người viết thư là một thuyền nhân, cùng đi chuyến vượt biển với các em tôi, sống sót tới đảo, nhờ có địa chỉ em tôi dặn dò trước nên báo cho hay rằng cả ba đứa đều chết trên đảo san hô như báo chí có lần đăng tải. Chiếc thuyên trôi dạt vào đảo, không thức ăn, không nước uống, rồi phải ăn thịt người để sống. Các em tôi là các nạn nhân cuối cùng, trước khi có tàu lớn phát giác tiếp cứu mấy người sống sót.

Coi xong thư, tôi như kẻ mất hồn, như điên như dại. Bỗng chốc mất đi ba kẻ thân yêu. Các em tôi dư biết về hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, chém giết, vậy mà chúng nó vẫn chấp nhận để mong vượt thoát. Nhưng các em tôi không bao giờ lại có thể ngờ rằng sẽ bị phơi xương trên đảo san hô cả. Và không có đứa nào thoát nạn để ít ra còn được một người đến bến Tự Do.

Từ khi chịu cái tang đau đớn đó, tôi bắt đầu suy nghĩ về nhân quả, nghiệp chướng, luân hồi, sắc sắc không không. Tôi thấy mình có trách nhiệm về cái chết của các em. Nếu tôi không làm tôi mất nước thì đâu đến nỗi các em tôi phải vượt biển để chết thảm thương trên đảo san hô định mệnh.

Cũng từ đó, tôi cảm thông được với những đớn đau của tử biệt sinh ly, biết thế nào là đùm bọc yêu thương, hiểu thế nào là tình đồng bào một nước.

Và ngày rằm, mùng một lên chùa lễ Phật nghe kinh, tôi cảm thấy tâm hồn như được vỗ về, an ủi, vơi đi rất nhiều khổ não ưu phiền của tục lụy trần gian...