← Quay lại trang sách

- 13 -

Dẫu được nghe kinh và thành khẩn chiêm bái hình ảnh từ bi bác ái của đức Phật tỏa ánh đạo vàng như thế, nhưng qua làn khói hương nghi ngút chốn tôn nghiêm, tôi vẫn thấy ẩn hiện những đôi mắt nhìn mình không chớp. Những đôi mắt mòn mỏi đợi chờ của mẹ của cha, những đôi mắt căm hờn của bạn bè trong trại cải tạo, những đôi mắt ngơ ngác của bầy em thơ dại, những đôi mắt khiếp đảm của thuyền nhân, những đôi mắt tuyệt vọng của bắt cóc, hãm hiếp, những đôi mắt cầu cứu của người ở đảo... Những đôi mắt ấy hình như nhìn tôi trách móc, như khinh bỉ, như oán than, như kết tội, như có ý bảo rằng nếu không có những kẻ tồi tệ, ươn hèn, đốn mạt như tôi thì đâu có đến nỗi nước mất nhà tan, sẻ đàn tan gánh, đâu

đến nỗi đau thương uất hận ngút trời! Nhữngđôi mắt ấy theo tôi cả trong lúc ăn, lúc ngủ, trong lúc tôi khiêu vũ, đánh bài. Những đôi mắt ấy ám ảnh tôi ray rứt, triền miên như các chứng nhân theo sát một tội đồ.

Rồi đến một hôm, nhân đọc cuốn sách “Cõi Tự Do” của Giao Chỉ, tôi biết đích thực trăm phần trăm không còn chút gì ngờ vực nữa. “Rằng chính tôi là một trong những thủ phạm làm mất nước.”

Tôi vẫn ao ước được quen biết với giới văn nghệ sĩ - nhất là nữ giới - nên khi có ai nhờ vả chuyện gì tại địa phương thì lấy làm vinh dự lắm. Như đưa truyện, thơ, nhạc, báo tới các tiệm sách nhờ phát mại giùm, lâu lâu đảo qua đảo lại xem tình hình tiêu thụ tới đâu thì liệu thu tiền chuyển về tác giả. Như khi nào có các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, nhiếp ảnh gia, chủ báo... tới địa phương thì làm thổ công chùa hướng dẫn thăm viếng loanh quanh. Và được chụp hình màu chung với quý vị ấy thì thực là lưu niệm để đời, sướng không chịu được. Để ít ra đời con, đời cháu mình còn được nhòm hình mình một thời văn nghệ.

Giao Chỉ với tôi khác nhau một trời một vực.

Lẽ tự nhiên, tôi là kẻ ở dưới vực. Cứ xét hồ sơ quân ngũ thì rõ: Ông này đi lính, xuất thân Đà Lạt nên tự nhận là lính trận và có bút hiệu “Lính Chiến”. Còn tôi, sinh viên sĩ quan Thủ Đức hùng anh - như lời bản nhạc của trường - nhưng về binh sở nên gọi là “Lính Văn Phòng”. Giá trị của Lính Chiến nghe vẫn oai hơn là Lính Văn Phòng rồi nhá. Ông này ở nhà binh, đóng tới lon đại tá là làm lớn lắm, ba bông màu bạc chớ bộ. Còn tôi, lèo tèo hai bông mai vàng bé xíu xìu xiu.

Tôi có mỗi cái tên cúng cơm đem ra làm chuẩn mọi mục đề, còn ông này nào Hồng Hà, Lính Chiến xong lại lấy bút hiệu Giao Chỉ - đại diện cho cả dân An-Nam ta thời xưa nữa - thế là bao quát vấn đề lắm. Cứ xét về hồ sơ quân bạ như rứa, hai bên khó lòng ngồi chung với nhau. Hơn nữa, ông này lại viết báo, viết văn lừng lẫy một cây xanh rờn, tôi rất hãi và khép nép tránh xa.

Đùng một cái, trên bàn giấy của tôi có cuốn “Cõi Tự Do” do tác giả gửi tặng. Lòng ưu ái ấy, kèm theo cái chỉ thị nghiên cứu tình hình địa phương tẩu tán dùm ít sách, tôi chưa phúc trình thượng cấp vụ bán sách, vì mải mê đọc cuốn sách mới ra lò xem nó ra sao.

Cuốn sách được giới thiệu là tác phẩm tiêu biểu cho 8 năm sinh hoạt cộng đồng, khi người lính “giá súng” để chiến đấu bằng cây bút có lửa, thiên hùng ca tặng QLVNCH... và còn nhiều nữa. Tác giả viết về cuộc sống phiêu bạt giang hồ của một nhóm gia đình đi từ miền Đông qua miền Tây để tìm chút nắng ấm quê hương qua mái tóc đen, mớ rau muống, cọng giá sống, lá rau dấp cá, để đứng bên này đại dương vời trông cố hương xa cách muôn trùng, để tìm về kỷ niệm...

Giao Chỉ phê bình một cuốn sách của tác giả Nguyễn Cao Kỳ, và theo thứ tự thời gian kể những chuyện về quê hương, chiến tranh, đời sống tỵ nạn với khá nhiều vấn đề phức tạp. Báo chí đã có những bài điểm sách, ca ngợi nhiệt tình. Lại có các nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhạc sĩ phát biểu cảm tưởng kịch liệt.

Tất cả những bài trong cuốn sách tôi đều yêu. Yêu vì sự chân thực, nhiệt tình và phong cách. Nhưng điều mà tôi yêu nhất, khoái nhất với riêng tôi, là bài “Ngôi Trường Cũ”. Tác giả nhớ về Khóa Cương Quyết Đà Lạt 1954, những ngày thụ huấn gian lao, những kỷ niệm vui buồn quân ngũ, những kẻ còn người khuất, những kẻ lạc loài... Ngày họp mặt Hội Ái Hữu Cựu SVSQ Đà Lạt với các đàn em tại xứ người, niên trưởng Giao Chỉ cùng anh em ôn lại chuyện cũ tích xưa. “Chả hiểu đàn anh ra trường làm ăn ấm ớ thế nào mà nước non cùng quân lực tan tành trong khoảnh khắc.”

Rồi đoạn chót, Giao Chỉ nhắc anh em cố giữ lấy “chút tình cốt nhục” để “làm sao mà gắn thành một khối.”

“Và nếu sau này, có ai tổ chức “Hội Những Người Làm Mất Nước” cũng xin vui lòng kết nạp tôi làm hội viên, bởi vì khi ta đã từng học ở ngôi trường cao cả ấy thì chắc chắn hôm nay phải chỉa sẻ nỗi nhục nhằn dù là với tư cách của kẻ thất phu.”

Mấy hàng chữ chót của trang 132 đã khiến tôi nhảy tưng tưng lên như vừa khám phá ra cái gì mới lạ.

Đây rồi, ông này nói rằng thì là ai lập hội “Những Người Làm Mất Nước” thì cho ông ấy vào một chân.

Cái ý tưởng viết về một bài tố khổ, tả oán chính mình làm cho đất nước đi đoong thì tôi đã có trong đầu từ mấy năm nay mà chưa dám nói ra đấy thôi. Nay được lời như cởi tấm lòng, đã có Giao Chỉ nổ pháo lệnh rồi thì mình a-la-xô xung phong làm lẹ đi chứ, kẻo có người khác lẹ mồm nhận họ là kẻ làm mất nước thì mình làm quái gì còn cái chi chi để nói nữa bi giờ?

Cho nên, như một mớ lửa rơm nổi cháy phừng phừng, tôi viết “Tôi Làm Tôi Mất Nước”. Đó là lý do tại sao có loạt bài này.

Lại nói về đọc “Cõi Tự Do”, tôi là thứ lửa rơm nên cháy một chút xong là tịt ngúm. Cuộc đời trước mặt vẫn chỉ là áo cơm cơm áo nhọc nhằn, nên ngày nghĩ, thay vì tham gia công tác xã hội, sinh viên, đoàn thể, cộng đồng thì tôi lại tìm niềm vui bên cạnh cái cần câu, ra ngoài biển thả hồn về Vũng Tàu, Cam Ranh, PhúQuốc, Nha Trang, Đà Nẵng...

Và lại mần thơ tựa một nhà thơ hải ngoại thương ca vọng về cố quốc mà ruột rối tơ tằm, não nề tâm sự đầy vơi:

Sương Khuya

Một mình bên ghềnh đá

hững hờ buông giây câu

mênh mang trời biển cả

xôn xao sóng bạc đầu

nhấp nhô thuyền mấy lá

trôi dạt biết về đâu

trời chiều đùn mây toả

chập chờn cánh hải âu

lạc loài trên xứ lạ

nhìn nước cuộn lòng đau

nước dập vùi tàn phá

nước chia cách địa cầu

nước ngăn tình đôi ngả

nước khơi mối thảm sầu

cố hương vời vợi quá

nhớ nhung gửi về đâu

quê nghèo xưa vất vả

nắng mưa phận dãi dầu

đất cầy thơm lúa mạ

nhọc nhằn tấm ảo nâu

gái quê hồng đôi má

xinh xinh giấc mộng đầu

giọng hò ru lơi lả

đong đưa mấy hàng cau

bờ tre xanh bóng lá

nong tầm thương cành dâu

sáo diều nhà ai thả

trẻ đùa bên lũ trâu

chim hót ngoài mái rạ

đàn cò lội trắng phau

khói lam chiều nhẹ tỏa

lối mòn vương ánh sao

đã xa rồi tất cả

thân ga kiếp con tàu

cánh bèo trôi nghiệt ngã

nước vẫn chảy qua cầu

gió lạnh hồn băng giá

sương khuya tóc ngả màu

ta nhìn ta khác lạ

người cũ tìm nơi đâu

những mảnh đời tơi tả

bao giờ còn thấy nhau?

Thế là, không như tôi tưởng, rằng Giao Chỉ Vũ Văn Lộc và tôi xa cách nhau muôn trùng cả về cấp bậc lẫn uy danh lại có thể ngồi chung được với nhau, thì hôm nay đây, hai quân trường Đà Lạt - Thủ Đức đã thành liên trường. Hai cấp Tá - Úy đã là huynh đệ chi binh vì mình cùng chung đời lính, thương nhau khác chi nhân tình. Hai kẻ viết lách, một “nhà văn” và một “chòi văn” đã cùng chung lối về xóm nhỏ. Và nhất là cả hai đều có tư tưởng hùng vĩ trùng hợp у chang, tự nhận mình là kẻ đã làm mất nước, dám nói khơi khơi bằng văn tự thì kể như anh em nhà binh chúng tôi từ nay trở thành những kẻ khác hội cùng thuyền.

Từ đó suy ra, chúng tôi cùng chung chiến tuyến. Đại Tá Giao Chỉ đã tiếp tế cho tôi một chút xăng vào ngòi bút để khi viết họa may có chút lửa. Nếu không có lửa, ít ra cũng bay lên tí khói.

Nhòm vào sinh hoạt văn học nghệ thuật hải ngoại, từ khi mất nước đến nay, giới văn nghệ sĩ đã đóng góp tuy chưa nhiều nhưng cũng khá bộn. Bộ môn nào cũng hướng chủ đề về quê hương đất nước mến yêu, về hình ảnh ba miền Huế- Saigon- Hà Nội, về người chiến sĩ Cộng Hòa dũng cảm, về những trại cải tạo tù đày, về những chờ đợi của người ở quê nhà mong ngày giải phóng Việt Nam, về những tâm tình của kẻ ở người đi ngậm ngùi thương nhớ, về những hy vọng phục quốc, nối lại tình người...

Như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, TạTy, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, Phạm Cao Dương, Bùi Văn Bảo, Nguyễn Đông Thành, Phan Lạc Tiếp, Phạm Kim Vinh, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Cao Thế Dung, Túy Hồng,Vũ Thụy Hoàng, Nguyễn Ngọc Ngạn, Tưởng Năng Tiến, Võ Hoàng... qua nghị luận, biên khảo, sử liệu, sách truyện, tùy bút..

Như Hà Huyền Chi, Nhất Tuấn, Thanh Nam, Cao Tần, Bội Điệp, Du Tử Lê, Bảo Vân, Hoàng Ngọc Ẩn, Tuệ Nga, Đinh Tuấn, Đào Hữu Dương, Lưu Văn Vong, Bắc Phong, Vũ Kiện, Nguyễn Văn Hưng, Minh Lãng... với những bài thơ chất chứa thành sầu, tha thiết quê cha đất tổ...

Như Phạm Duy, Việt Dzũng, Nguyệt Ánh, Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Hữu Nghĩa, Phan Ni Tấn, Huỳnh Công Anh, Khúc Lan, Hà Thúc Sinh, Trần Lãng Minh, Lê Uyên Phương, Trần Quan Long... với những nhạc phẩm nung đúc ý chí đấu tranh để có một ngày về...

Như Hoàng Oanh, Hoàng Tường, Diễm Chi, Nguyễn Thanh, Tuấn Minh, Châu Đình An, Hoàng Long, Quỳnh Như đã khơi ngọn lửa hồng mỗi người tỵ nạn để tích cực hăng say tham gia phục quốc...

Như một Trần Cao Lĩnh đi khắp bốn phương trời, hành trang chỉ là những tấm ảnh quê hương để cho đồng bào được nhìn rõ đền thờ Quốc Tổ, hình ảnh ba miền đất nước Việt Nam, nếp sống dân tộc cần cù, nhẫn nại, hiếu hòa, những cảnh đẹp hơn tranh vẽ. Đó là tình tự dân tộc, là tổ quốc chúng ta. Hãy nhớ quay về.

Và còn biết bao nhiêu hoạt động khác của hội đoàn, của sinh viên, của cựu quân nhân, của phụ nữ, các vị lão niên, của giới thông tin, báo chí, phát thanh, điện ảnh, truyền hình, của các phong trào, lực lượng... vẫn ngày đêm ấp ủ tình đoàn kết, tình đồng bào, cố vun bồi cho gốc nhà Nam được vững vàng dẫu rằng nay sống đất tạm dung.

Nhìn vào các hình ảnh tập thể, sinh hoạt mạnh mẽ và đầy tin tưởng như thế, tôi tự nhận thấy rằng ngay cả lúc bỏ quê hương đi tỵ nạn, tôi cũng không đóng góp được gì cho đại cuộc, trái lại vẫn còn cái đầu óc nhỏ nhen tự ái, khoe khoang, chỉ trích, bất hợp tác, tiếp tục làm những điều lăng nhăng cà chớn.

Đã một lần mất nước, nay không hối hận, ăn năn chuộc tội mà còn kéo cho dài thêm ngày về thì quả là tội tôi lớn lắm.

Khi nhìn rõ chính mình, thời gian đã vùn vụt hơn chín năm quê người lưu lạc. Dẫu muộn còn hơn không, tôi cần phải tham gia hội hè như Giao Chỉ đã khơi mào, để làm một cái gì chuộc tội.

Hội đó có tên: “Hội Những Người Làm Mất Nước.”

Mỗi khi lập hội, những người chủ trương thường nhắm vào các mục đích cao cả đầy lý tưởng, hoặc đa mang tinh thần tương trợ tương thân tương ái, hoặc đầy ắp cử chỉ xã hội học đường, hoặc liên quan đến tôn giáo vinh danh, hoặc đồng nghề nghiệp, hoặc cùng hàng xóm láng tỏi xưa kia, hoặc cùng họ cùng hàng cùng tổ, hoặc cùng thú vui chơi văn nghệ văn giềng tài tử, hoặc độc đáo riêng tư giới hạn, hoặc nhân đạo vị tha công bình bác ái, hoặc vân vân và vân vân...

Như “hội kín” là một thứ hội bàn các chuyện bí mật, hành tung nguy hiểm, nguyên tắc là kín như bưng nhưng nhiều khi bị “hở”, thế là vỡ mặt. Như hội “ái hữu” tự nó có định nghĩa thương nhau cởi áo cho nhau, lá lành đùm lá rách. Như hội “ái hữu cựu học sinh”, hội ái hữu cựu sinh viên, quây quần các người cùng chung dưới mái nhà trường hoặc quân trường. Nhà trường như Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long, Hồ Ngọc Cẩn, Lê Bảo Tịnh, Pétrus Ký... Quân trường như Huế, Nam Định, Thủ Đức, Đà Lạt, Nha Trang, Vũng Tàu... Như hội “Phủ Giày”, hội “Thánh Mẫu”, hội “La Vang”... Như hội у sĩ, hội nữ hộ sinh quốc gia, hội võ thuật, hội ngân hàng... Như hội đồng hương Nam Định, hội tương tế Hà Đông, hội tương tế Quảng Ngãi... Như hội Lê tộc, Nguyễn tộc, Trần tộc, Đinh tộc... Như hội ái hữu nghệ sĩ cải lương, hội văn nghệ sĩ, hội điện ảnh, hội nhiếp ảnh, hội tao đàn, hội bát âm, hội chèo cổ Bắc Phần... Như hội cờ tướng, hội đua ngựa, hội sư tử, Thanh Thương hội, Quốc hội... Như hội bạn người cùi, hội bạn người câm, hội bạn người mù, hội bạn người điếc, hội hoa tình thương, v.v... Cứ phác họa sơ sơ như thế, thì chỗ nào có người thì chỗ ấy có hội. Các hội đã hoạt động lớn nhỏ, ồn ào hay âm thầm, phát triển hay thụt lùi tuột dốc, có lẽ chỉ có người trong hội là rành mà thôi. Hội nào cũng có danh xưng bảng hiệu từ lâu đời, quen thuộc với mọi giới đồng bào bà con cô bác...

Duy có cái hội với tên nghe lạ hoắc là “Hội Những Người Làm Mất Nước” thì chưa có môn bài hành nghề, cũng chưa ai xin cầu chứng tại tòa, cho nên bây giờ xuất hiện tuy hơi muộn nhưng có còn hơn không, muộn còn hơn để cho nó chìm xuồng.

Hội có tuyên cáo trước quốc dân đồng hồ như vầy:

- Nhận định chắc chắn rằng “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Nay nước mất, không trách chỉ ai mà kẻ thất phu phải cúi đầu chịu tội trước mới phải đạo làm dân.

- Nhận định rõ ràng dù mất nước nhưng thực tế và thực thể thì nước vẫn còn đó, trơ trơ hình cong chữ S chứ đâu có suy suyển chút nào.

- Nhận định thẳng thừng rằng tuy không nhìn thấy rõ bàn cờ quốc tế, nhưng thân phận nhược tiểu luôn luôn là quân cờ đổi tốt thay xe bất cứ lúc nào đại cường quốc cần quân bình cán cân lực lượng.

- Nhận định nghiêm chỉnh rằng từ ngày bỏ nước ra đi, thân phận lưu vong dù ấm no rủng rỉnh, vẫn cứ mơ về chốn cũ người xưa, nhớ nhung chất ngất.

- Nhận định đúng đắn rằng vận nước qua cơn bỉ cực ắt tới thuở thịnh trị thanh bình ca hạnh phúc.

- Nhận định chủ quan rằng “gia bần tri hiếu tử, quốc loạn kiến trung thần”, tổ quốc có lâm nguy mới rõ mặt quân tử anh hùng, mới tỏ tường tiểu nhân phản phúc.

- Nhận định khách quan rằng luật tạo hóa cũng như luật nhân quả, có trả có vay, đứa nào gây tội thì phải đền tội, không thể lấp liếm, đổ thửa đổ vạ cho ai.

- Nhận định lạc quan rằng căn cứ vào các nhận định trên, tất nhiên sẽ có một ngày về trên quê hương ta tự do, no ấm.

Nay tuyên cáo:

Thành lập “HỘI NHỮNG NGƯỜI LÀM MẤT NƯỚC”. Tuy hội có cái tên lạ hoắc như rứa, nhưng cơ cấu tổ chức, điều hành, nội quy, ngoại vụ lại thi hành theo một lề lối rất ư là quen thuộc, hoàn toàn mang tánh cách tồn cổ, hoài cổ và vọng cổ, đầy dân tộc tính.

Hội không có các chức vụ nghe lớn lao, xôm trò như Thống Đốc, Chủ Tịch, Phó Chủ Tịch, Tổng Thư Ký, Ủy Viên... Hội không họp mũ cao áo dài cổ cồn cà-vạt giầy giầy tây quanh bàn tiệc sâm-banh, khiêu vũ. Hội không có nhiệm kỳ, không bầu bán chức vị. Hội không tổ chức thành liên danh, thành khối, thành nhóm. Hội không tuyên dương thành tích công trạng, không có ai là cá nhân xuất sắc.

Hội được tổ chức theo chế độ cổ xưa, kêu bằng chế độ xã thôn tự trị. Chế độ này lấy “làng” làm đơn vị, tự cai quản hành chánh, thuế khóa, công việc xã thôn, có thẩm quyền rộng rãi mà ngay cả đến nhà vua cũng không dám xía vào. “Phép vua thua lệ làng là vậy”. Theo qui tắc trên, mỗi địa phương tổ chức một hội độc lập, không lệ thuộc và chỉ liên lạc với hội bạn, hay làng bạn, theo hàng ngang mà thôi.

Các vai vế trong làng gồm có tiên chỉ, thứ chỉ, các chức sắc vua ban, ngồi họp trên chiếu cạp điều, loại chiếu nhất.

Các hương chức trên như tân, cựu chánh tổng, lý trưởng, hương trưởng, khán thư, trương tuần, nhiêu, xã... ngồi chiếu hoa hạng nhì, chỗ thấp hơn các vị chức sắc.

Còn mõ làng, ngồi riêng một chiếc chiếu manh, một mình một cỗ.

Dân làng, tức hội viên, được chia thành nhiều hạng:

- Danh dự hội viên, là những người tỵ nạn lưu vong nhưng chưa có hoàn cảnh gia nhập hội, đã đôi ba bẩy lần làm tổn thương và mất danh dự của Quân Đội.

- Chính thức hội viên: Là những người có đơn xin gia nhập Hội và được tối thiểu một trung đội sáng lập viên giới thiệu, ký tên và thị thực đàng hoàng.

- Dự khuyết hội viên: Là những người có đơn xin nhập hội nhưng chưa đủ túc số giới thiệu, phải lấy số thứ tự chờ đến số mới được kêu bổ túc hồ sơ cứu xét đặc biệt.

- Thân hữu hội viên: Là những người không nhận làm mất nước nhưng là anh em bà con thân hữu với hội viên, từng liên kết với hội viên làm sụp đổ cơ đồ.

- Bảo trợ hội viên: Là những người từng che chở, bao bọc, lấp liếm cho hội viên để làm mất nước.

- Tán trợ hoặc hỗ trợ hội viên: Là những người thường xúi giục, tĩ tê, dụ khị hội viên làm điều phi pháp, hoặc phe lờ ngoảnh mặt cho hội viên quấy nhiễu.

- Định kỳ hội viên: Là những người chỉ tham gia khi có lợi cho cá nhân, còn khi không sơ múi gì thì tự động rút dù chìm sâu lặn kỹ.

Hội còn có một “hội đồng cố vấn” gồm đại diện các quốc gia đã gởi quân tham chiến hoặc đóng góp kỹ thuật, у tế, tài chánh, v.v... như Mỹ, Úc, Phi, Đại Hàn, Thái Lan, v.v...

Cạnh hội đồng cố vấn lại có “hội đồng tiểu Liên Hiệp Quốc” gồm đại diện cho các cường quốc từng góp công làm cho Việt Nam ba chìm bảy nổi, vô tình hay cố ý, trực tiếp hay gián tiếp đã tiếp tay cho Cộng Sản làm mất nước Việt Nam: Nga Sô, Trung Cộng, Hoa Kỳ, Pháp, Ăng-Lê,

Nhật Bổn...

Thành phần các hội đồng trên, được mời tham gia qua sự giới thiệu của Liên Hiệp Quốc. Hội không có trụ sở chính thức, nên mỗi khi cần hội họp sẽ mượn sân banh, trường học, nhà thờ, nhà chùa, công viên, bãi biển làm nơi tập trung.

Hội viên khi tới họp không mang cấp bậc, phù hiệu, huy hiệu, không đeo mề-đay cả cụm hay mề- đay toàn cuống, mà chỉ gắn một lá cờ Việt Nam nhỏ trên ve áo.

Hội không có vấn đề bầu cử, đề cử, độc cử, tiến cử, tái cử. Ai tự nhận thấy mình ở chiếu nào thì vào chiếu ấy.

Hội có mục đích qui tụ đủ mọi thành phần hội viên, cố vấn đoàn, và có trách nhiệm đề cao cảnh giác mọi âm mưu làm phân hóa người Việt Quốc Gia, tạo hoàn cảnh tốt để gây tình đoàn kết, khuyến khích con em học hành tiếng Việt Nam và nói tiếng Việt Nam khi ở nhà, lúc hội họp, tiếp tay cho các hội đoàn trong các chương trình Giỗ Tổ, sùng bái các anh hùng hào kiệt, đề cao lý tưởng quốc gia, hỗ trợ các sinh hoạt xã hội, thể thao, văn nghệ, sáng tác, tham gia cứu trợ thuyền nhân, vớt người vượt biển, ủy lạo người già yếu bệnh tật, thăm nom kẻ côi cút bần hàn. Và những công tác tương tự có ích lợi cho đồng bào.

Riêng các anh hùng dám bỏ gia đình, bỏ công việc, bỏ tiện nghi để phục quốc, giải phóng quê hương thì Hội xin cúi đầu khoanh tay, câm họng, không dám mời vào Hội.

Tất cả các chức vụ lớn nhỏ trong Hội, các hội viên tự vấn lương tâm và tự tìm cho mình một chỗ ngồi tương xứng trên chiếu làng. Hiện nay, hội chưa có ai xuất hiện vào cái thuở ban đầu thành lập. Duy có sáng lập hội viên Giao Chỉ và Cai Phúc là hai kẻ trình diện sớm ở trong làng. Giao Chỉ vốn làm lớn, tội nhiều, chắc sẽ can đảm lên ngồi chiếu cạp điều hoặc chiếu hoa chịu trận. Phần Cai tôi, nhân Hội còn khuyết chân thằng mõ nên xin nhận làm mõ làng. Cái chức này tiếng thế nhưng rất kêu, vì bản chất là mõ tất phải gõ mõ lốc cốc hô chiêng làng nước lắng tai nghe tin tức, tình hình. Nên mỗi khi cần triệu tập hội hè, Cai tôi sẽ đánh mõ, gân cổ loan tin rõ ràng, chính xác. Cai tôi theo lệ làng, được một mình một cỗ thảnh thơi ngồi đớp hít. Chức vụ và quyền lợi như thế rất thuận tình, họp lý và công bằng, không chỉ théc méc gì sốt cả...

Đại khái cái sườn của Hội là thế, các địa phương cứ tùy nghi như thế thi hành...