Thay lời kết
Đã gần mười năm tôi làm tôi mất nước, ngẫm lại mới như vừa bỏ nước hôm qua. Thời gian trôi mau biền biệt, không giống nhau, không ngừng lại. Cuộc sống lưu vong mà Giao Chỉ gọi đó là nơi sống không bị cùm kẹp, bố ráp tinh thần mang tên “Cõi Tự Do”. Cõi đó đúng là “cõi tự do 100 phần trăm” của nhân loại văn minh, nhưng cõi đó cũng còn mang nhiều cái tên tùy theo từng tâm trạng. Cõi đó còn là “Cõi Mơ Hồ”, cái ta có ta không, ta là ai, ai là ta và chẳng ai giống ta cả. Cõi đó như là “Cõi Buồn” vây kín chung quanh, chỉ đủ cho ta thở, ta ăn, ta đi làm kéo cầy trả nợ. Cõi đó là “Cõi Tiên”, cõi thiên đàng cho những ai chấp nhận nơi này làm quê hương và quên khuấy đi cái dĩ vãng một thời sinh mạng mình gắn liền vào sinh mạng Việt Nam.
Cõi đó là “Cõi Ưu Phiền” của tuổi già quạnh quẽ, lạnh lùng dẫu đây bốn mùa xuân hạ thu đông, mùa nào cũng đẹp như tranh vẽ.
Cõi đó là “Cõi Mộng” với những ai ước ao được đặt chân tới miền đất thừa thãi vật chất ấm no.
Cõi đó là “Cõi Bềnh Bồng” của những tâm hồn lạc loài cô đơn, như cánh bèo trôi theo giòng nước.
Cõi đó là “Cõi Nhớ” chập chùng về những kỷ niệm xa xôi kỳ ảo.
Cõi đó là “Cõi Tương Tư” ta ở đây mà tâm hồn lúc ở Saigon, khi Cần Thơ, khi Đà Lạt.
Với cái tôi, ví mình cũng giống như thân phận Thúy Kiều, mà còn khổ hơn Thúy Kiều ở cái điểm là “không hồng nhan mà cũng vướng nhiều gian truân”. Gian truân từ khi định cư đất lạ đi làm cu- li của đời mưa gió bơm xăng vá lốp lau nhà. Gánh nặng gia đình đè trĩu hai vai, mới biết thế nào là trách nhiệm cụ thể, thế nào là chịu đựng hy sinh cho đàn con khôn lớn. Rồi lại chuyển bến xoay vần cuốn theo chiều gió, một xe trong cõi hồng trần đi làm ăn phương khác vì nghĩ câu “đâu cũng là nhà”. Qua dăm bẩy tám chín thứ nghề, từ văn phòng bàn giấy, com-lê cà-vạt đến chân bấm giá hàng, dọn kho, lau chợ, còng lưng vẫn gánh nặng đôi vai, vẫn khối buồn đeo đẳng, vẫn canh cánh bên lòng cái tội cái nợ làm mất nước.
Đời sống xứ người càng đầy đủ ấm no bao nhiêu, phong cảnh càng xinh đẹp mỹ miều bao nhiêu, Cai tôi càng cảm thấy chán ngán, dập vùi, lạc lõng bấy nhiêu...
Nên “Cõi Tự Do” này, tôi gọi nó bằng một cái tên khác, ít ra nó đúng với tôi: Là “Cõi Lêu Bêu”! Nó vừa lênh đênh bất trắc với tôi, vừa làm cho tôi cứ nhớ cứ thương về quê hương bản quán.
Chốn đó là nơi Cai tôi sinh ra, lớn lên, nửa đời được ăn rau muống với cà, được ê а đánh vần hai tiếng “Mẹ, Cha”, được nghe tiếng đại bác ru đêm chập chờn hỏa châu soi sáng tiền đồn, được nằm lều vải cá nhân ôm súng bên đồi sim tím, được ngắm suối reo thác đổ miền cao nguyên trùng điệp, được về miền Tây sông nước bao la cuộc sống hiền hòa, được nghe dân ca, vọng cổ, hát chèo những ngày mở hội, được đọc dòng lịch sử liệt oanh, lẫy lừng của dân tộc Việt Nam, được chứng kiến những thăng trầm của vận nước điêu linh, tang tóc...
Thất phu hữu trách, nên Cai tôi cũng trách nhiệm như ai. Nay xin làm thân mất nước ráng làm một cái gì trong cõi lêu bêu, cõi tự do này để chuộc tội. Nếu chuộc tội kiếp này chưa xong, thì kiếp sau còn dịp tái sanh duyên, xin lại được làm người. Và làm người Việt Nam để vẫn còn tiếp tục chuộc tội với lương tâm, với gia đình, với bạn bè, với tổ quốc...
Được vậy, khi hai tay buông xuôi nghỉ nơi nghĩa trang quân đội, Cai tôi sẽ yên tâm nhắm mắt mà cười khì khì, coi như đã thi hành xong nghĩa vụ quân dịch, trang trải nợ nần, rũ sạch bụi đời, thoát nợ trần gian và khò khò vùi sâu giấc cuối...
(Houston, Texas / 1984)