← Quay lại trang sách

Chương 16

Giles không biết trung đoàn đang đi đâu. Trong nhiều ngày trời, dường như anh luôn di chuyển không ngừng, không thể ngủ được nhiều hơn hai giờ đồng hồ mỗi lần. Đầu tiên anh lên một đoàn tàu, sau đó là một chiếc xe tải, trước khi đặt chân lên boong một con tàu chở quân dập dềnh trên các con sóng đại dương theo nhịp điệu riêng của nó, cho tới khi cuối cùng con tàu cũng đổ 1000 người thuộc trung đoàn Wessex xuống cảng Alexandria ở Ai Cập, trên bờ biển Bắc Phi.

Trong chuyến đi, Giles đã được tái hợp cùng các đồng đội cũ từ trại Ypres ở Dartmoor, những người anh phải chấp nhận giờ đây ở dưới quyền chỉ huy của anh. Một vài người trong họ, nhất là Bates, cảm thấy không mấy dễ dàng khi phải gọi anh là “ngài”, và thậm chí còn khó hơn khi phải chào anh mỗi lần họ gặp nhau.

Một đoàn xe quân sự đang chờ trung đoàn Wessex khi họ xuống tàu. Giles chưa bao giờ gặp phải cái nóng gay gắt đến thế, và chiếc áo sơ mi kaki mới tinh của anh đã sũng mồ hôi chỉ giây lát sau khi anh đặt chân lên đất nước này. Giles nhanh chóng tập hợp người của mình thành ba nhóm trước khi họ leo lên thùng những chiếc xe tải đang đợi sẵn. Đoàn xe thong thả chuyển bánh đi theo con đường ven biển hẹp bụi mù mịt, đi nhiều giờ liền mà không dừng lại, cho tới khi cuối cùng đoàn xe đến vùng ngoại ô một thành phố bị oanh tạc tàn phá nặng nề mà Bates lớn tiếng thông báo tên, “Tobruk25*! Xin báo với các vị,” và tiền bắt đầu chuyển tay.

Sau khi họ vào bên trong thành phố, đoàn xe dừng lại thả quân ở nhiều vị trí khác nhau. Giles và các sĩ quan khác nhảy xuống xe bên ngoài khách sạn Majestic, tòa nhà đã bị trung đoàn Wessex trưng dụng làm sở chỉ huy. Giles đi qua cánh cửa quay và nhanh chóng khám phá ra chẳng có gì tráng lệ huy hoàng26* ở khách sạn này. Các phòng làm việc tạm thời đã được dựng lên ở mọi không gian có thể. Bản đồ được gắn lên các bức tường, nơi trước đây từng treo các bức tranh, và tấm thảm đỏ từng chào đón các vị khách VIP từ khắp hoàn cầu đến giờ đã mòn trơ trụi dưới những đôi ủng sĩ quan liên tục bước qua bước lại.

Khu vực tiếp đón là nơi duy nhất nhắc nhở họ nơi này từng có thời là khách sạn. Một hạ sĩ trực ban kiểm tra tên thiếu úy Barrington trên bản danh sách dài những người mới tới.

“Phòng hai - một - chín,” anh ta nói, đưa cho anh một phong bì. “Ngài sẽ tìm thấy mọi thứ cần thiết trong này, thưa ngài.”

Giles sải bước theo cầu thang rộng lên tầng hai và bước vào phòng của mình. Anh ngồi xuống giường, mở phong bì và đọc các mệnh lệnh dành cho mình. Lúc bảy giờ, anh phải đến trình diện dưới phòng tiệc, khi trung đoàn trưởng nói chuyện với tất cả sĩ quan. Giles mở vali, tắm rửa, mặc lên người một chiếc sơ mi sạch và đi xuống dưới nhà. Anh vớ lấy một chiếc xăng-uých và một cốc trà tại nhà ăn của sĩ quan và bước vào phòng tiệc ngay trước lúc bảy giờ.

Căn phòng rộng, với trần cao và đèn chùm tráng lệ, đã đông nghịt các sĩ quan chen vai nhau, gặp lại bạn cũ và giới thiệu bạn mới trong lúc đợi xem mình được điều tới ô nào trên bàn cờ. Giles thoáng nhìn thấy một viên trung úy trẻ ở phía đối diện của căn phòng mà anh thấy quen mặt, nhưng rồi lại mất dấu anh ta.

Bảy giờ kém một phút, trung tá Robertson bước lên sân khấu, tất cả những người còn lại trong phòng nhanh chóng im lặng và đứng nghiêm. Viên trung tá dừng lại giữa sân khấu và vẫy mọi người ngồi xuống. Chân hơi choãi ra, hai bàn tay chống nạnh, ông ta bắt đầu nói với họ.

“Các quý ông, hẳn các vị cũng thấy thật lạ lùng khi phải đi từ khắp mọi miền thuộc đế quốc để tới chiến đấu cùng quân Đức tại Bắc Phi. Tuy nhiên, tướng Rommel27* và Quân đoàn Châu Phi của hắn cũng đang ở đây, với mục đích duy trì nguồn cung cấp dầu cho quân đội của chúng ở châu Âu. Nhiệm vụ của chúng ta là gửi hắn trở về Berlin với một cái mũi be bét máu, thật lâu trước khi chiếc tăng cuối cùng của chúng hết sạch nhiên liệu.”

Tiếng hoan hô vang lên khắp căn phòng, đệm theo là tiếng dậm chân.

“Tướng Wavell28* đã giao cho trung đoàn Wessex vinh dự phòng thủ Tobruk, và tôi đã nói với tướng quân rằng chúng ta sẽ hy sinh đến người cuối cùng trước khi Rommel có thể đặt phòng tại khách sạn Majestic.29*”

Tuyên bố này được chào đón bằng một tràng hoan hô thậm chí còn vang dội hơn và nhiều tiếng dậm chân hơn.

“Bây giờ, tôi muốn tất cả các vị tới trình diện chỉ huy đại đội của mình. Họ sẽ thông báo cho các vị kế hoạch tổng thể của chúng ta để phòng thủ thành phố, cũng như trách nhiệm mà mỗi người trong các vị sẽ phải gánh vác. Các quý ông, chúng ta không có một giây nào để lãng phí nữa. Chúc may mắn, và chúc các vị đi săn vui vẻ.”

Tất cả các sĩ quan bật dậy đứng nghiêm lần nữa khi viên trung tá rời khỏi sân khấu. Giles xem lại lệnh của mình lần nữa. Anh được điều về trung đội 7, đại đội C, các sĩ quan thuộc đơn vị này sẽ tập trung tại thư viện của khách sạn sau cuộc gặp trung đoàn trưởng để nghe thiếu tá Richards phổ biến nhiệm vụ.

“Anh hẳn là Barrington,” viên thiếu tá nói khi Giles bước vào thư viện sau đó ít phút. Giles đứng nghiêm chào. “Thật tốt khi anh tới gia nhập chúng tôi sớm vậy sau khi được phong sĩ quan. Tôi điều anh về trung đội bảy dưới quyền người bạn cũ của anh. Hai anh sẽ chỉ huy ba tiểu đội gồm mười hai người, và trách nhiệm của các anh là tuần tra ngoại vi phía tây của thành phố. Hai người sẽ có một thượng sĩ và ba trung sĩ trợ giúp cho mình. Trung úy sẽ phổ biến với anh nhiệm vụ chi tiết hơn. Vì hai người từng ở trường cùng nhau, hai anh sẽ không mất nhiều thời gian để làm quen nữa.”

Giles tự hỏi người bạn kia có thể là ai. Rồi anh chợt nhớ lại khuôn mặt quen thuộc đã thoáng thấy ở phía đối diện phòng tiệc.

Thiếu úy Giles Barrington hẳn đã muốn gạt bỏ sự định kiến dành cho trung uý Fisher, cho dù bản thân anh hẳn sẽ không bao giờ xóa nổi khỏi ký ức về anh ta trên cương vị giám thị trực ban ở St Bede, khi anh ta hành hạ Harry hàng đêm trong suốt tuần đầu tiên của cậu chẳng vì lý do nào khác ngoài chuyện người học sinh mới là con trai của một công nhân bến tàu.

“Thật tốt lại gặp cậu, Barrington, đã quá lâu rồi,” Fisher nói. “Tôi không thấy có bất kỳ lý do nào để chúng ta không phối hợp tốt với nhau, cậu có thấy thế không?” Anh ta rõ ràng cũng đang nhớ lại cách mình từng cư xử với Harry Clifton. Giles cố mỉm cười gượng gạo.

“Chúng ta có hơn ba mươi người dưới quyền chỉ huy của mình, cùng ba trung sĩ và một thượng sĩ. Một số người trong họ cậu sẽ nhớ ra từng gặp ở trại huấn luyện. Trên thực tế, tôi đã cử trung sĩ Bates chỉ huy tiểu đội một.”

“Terry Bates?”

“Trung sĩ Bates,” Fisher nhắc lại. “Đừng bao giờ gọi bằng tên riêng khi cậu nhắc tới các cấp thấp hơn. Tại nhà ăn sĩ quan, và những khi chỉ có chúng ta với nhau, Giles, cậu có thể gọi tôi là Alex, nhưng không bao giờ trước mặt cấp dưới. Tôi chắc là cậu hiểu.”

Mày vẫn là một gã rỗng tuếch ngạo mạn, và rõ ràng là chẳng có gì khác cả, Giles thầm nghĩ. Lần này anh không hề cười.

“Bây giờ, trách nhiệm của chúng ta là tuần tiễu ngoại vi phía tây thành phố theo từng ca bốn giờ. Đừng đánh giá thấp tầm quan trọng nhiệm vụ của chúng ta, vì nếu Rommel tấn công Tobruk, quân báo cho rằng hắn sẽ cố thử đột kích vào thành phố từ phía tây. Vì vậy chúng ta cần luôn luôn cảnh giác. Tôi sẽ để cậu lên lịch các ca tuần tiễu. Tôi sẽ cố tham gia một, hai ca mỗi ngày, nhưng tôi không thể làm nhiều hơn vì còn các trách nhiệm khác nữa.”

Như cái gì kia, Giles những muốn hỏi anh ta.

Giles thích được cùng người của anh tuần tiễu khu phía tây thành phố, và nhanh chóng biết rõ cả ba mươi sáu người, không chỉ vì trung sĩ Bates đã giúp anh được thông tin rất tốt. Và cho dù anh luôn cố gắng giữ họ trong tình trạng cảnh giác thường trực theo cảnh báo của Fisher, vì nhiều tuần cứ lần lượt trôi qua mà không có biến cố gì, anh bắt đầu tự hỏi liệu rồi họ có cơ hội đối mặt với kẻ thù hay không.

Vào một buổi chiều đầu tháng Tư mù sương, khi cả ba tiểu đội thuộc trung đội tuần tra của Giles đang cùng thực hiện huấn luyện, thì một loạt đạn không biết từ đâu bay tới. Những người lính lập tức nằm rạp xuống đất, rồi nhanh chóng bò tới tòa nhà gần nhất để tìm bất cứ chỗ ẩn nấp nào có thể tìm thấy.

Giles đang đi cùng tiểu đội dẫn đầu khi quân Đức trình danh thiếp của chúng, sau đó bắn tiếp một loạt đạn thứ hai. Những viên đạn đều cách xa mục tiêu chúng nhắm tới, song anh biết không mấy chốc nữa kẻ thù sẽ xác định được vị trí đơn vị của anh.

“Không được bắn cho tới khi tôi ra lệnh,” anh ra lệnh trong khi từ tốn dùng ống nhòm quan sát đường chân trời. Anh quyết định báo cáo Fisher trước đi đưa ra quyết định. Giles nhấc máy điện thoại dã chiến lên và ngay lập tức được trả lời.

“Cậu nghĩ chúng có bao nhiêu tên ngoài đó?” Fisher hỏi.

“Tôi đoán là không quá bảy mươi, nhiều nhất là tám mươi. Nếu ngài đưa tiểu đội hai và ba vận động lên, chừng đó là quá đủ để kìm chân chúng cho tới khi tăng viện tới.”

Loạt đạn thứ ba nổ rền, nhưng sau khi Giles quan sát đường chân trời, anh lại một lần nữa ra lệnh, “Không được bắn.”

“Tôi sẽ cử tiểu đội hai do thượng sĩ Harris chỉ huy lên hỗ trợ cho cậu,” Fisher nói, “và nếu cậu liên tục cập nhật tình hình, tôi sẽ quyết định xem có cùng tiểu đội ba lên chỗ cậu hay không.” Đường dây im bặt.

Loạt đạn thứ tư nhanh chóng vang lên sau loạt thứ ba, và lần này, khi Giles tập trung chú ý vào ống nhòm của mình, anh có thể thấy một tá người đang bò qua khoảng trống về phía họ.

“Ngắm bắn, nhưng đừng nổ súng cho tới khi mục tiêu vào tầm bắn, và hãy đảm bảo mọi viên đạn đều trúng đích.”

Bates là người đầu tiên siết cò. “Mày chết,” anh ta nói trong khi một tên Đức gục xuống mặt cát sa mạc. Vừa lên đạn, anh ta vừa nói thêm, “Điều đó sẽ dạy cho chúng mày biết kết quả khi ném bom phố Broad.”

“Im đi, Bates, và tập trung vào,” Giles nói. “Xin lỗi, thưa ngài.”

Giles tiếp tục quan sát đường chân trời. Anh có thể nhìn thấy hai, có thể là ba tên địch trúng đạn nằm gục mặt xuống cát chỉ cách các hố cá nhân của họ vài yard. Anh ra lệnh bắn thêm một loạt đạn nữa, và Giles quan sát thấy vài tên lính Đức nữa đang cuống cuồng bò lui về nơi an toàn, hệt như một bầy kiến chui xuống hố.

“Ngừng bắn!” Giles hô lớn, ý thức được họ không được phép lãng phí đạn dược. Anh nhìn sang trái và có thể thấy tiểu đội hai dưới sự chỉ huy của thượng sĩ Harris đã vào vị trí, sẵn sàng đợi lệnh.

Anh nhấc điện thoại dã chiến lên, và Fisher trở lại đường dây. “Tôi không còn nhiều đạn dự trữ nữa, thưa ngài. Sườn trái của tôi lúc này đã được thượng sĩ Harris che chắn, nhưng sườn phải vẫn bị hở. Nếu ngài có thể vận động lên, chúng ta sẽ có cơ hội tốt hơn để kìm chân chúng.”

“Bây giờ cậu đã có tiểu đội hai để củng cố cho vị trí của cậu, Barrington, tốt hơn tôi nên ở lại sau để hỗ trợ cho cậu trong trường hợp quân địch chọc thủng trận địa.”

Thêm một loạt đạn nữa bay về phía họ. Rõ ràng là quân Đức đã phát hiện được chính xác vị trí của họ, nhưng Giles vẫn lệnh cho hai tiểu đội của anh chưa bắn. Anh rủa thầm, dập điện thoại xuống và chạy qua khoảng trống tới chỗ thượng sĩ Harris. Một loạt đạn đuổi theo anh sát gót.

“Anh nghĩ sao, thượng sĩ?”

“Chừng nửa đại đội, thưa ngài, khoảng tám mươi tên. Nhưng tôi nghĩ chúng chỉ là một toán trinh sát, vì vậy tất cả những gì chúng ta cần làm là nằm im và kiên nhẫn.”

“Tôi đồng ý,” Giles nói. “Anh nghĩ chúng sẽ làm gì?”

“Bọn Đức sẽ biết chúng đông hơn chúng ta, vì thế chúng sẽ muốn tổ chức tấn công trước khi tăng viện tới. Nếu trung úy Fisher đưa tiểu đội ba lên bảo vệ sườn phải, vị trí của chúng ta sẽ được củng cố chắc chắn hơn.”

“Tôi đồng ý,” Giles lặp lại trong lúc một loạt đạn nữa chào đón họ. “Tôi sẽ quay lại và nói với Fisher. Đợi lệnh của tôi.”

Giles chạy vòng vèo qua khoảng đất trống theo hình chữ chi. Lần này, những viên đạn bay sát gần tới mức quá mạo hiểm để thử vận may với trò này thêm lần nữa. Anh vừa định gọi cho Fisher thì điện thoại dã chiến đổ chuông. Anh chộp lấy ống nghe.

“Barrington,” Fisher nói. “Tôi tin đã tới lúc chúng ta cần giành lấy quyền chủ động.”

Giles cần phải lặp lại từng lời Fisher vừa nói để chắc rằng anh đã nghe chính xác. “Ngài muốn tôi chỉ huy một đợt tấn công vào vị trí bọn Đức trong khi ngài dẫn tiểu đội 3 lên hỗ trợ chúng tôi.”

“Nếu làm như thế,” Bates nói, “chúng ta sẽ trở thành bia đỡ đạn đấy.”

“Im ngay, Bates.”

“Rõ, thưa ngài.”

“Thượng sĩ Harris nghĩ, và tôi đồng ý với anh ấy,” Giles nói tiếp, “nếu ngài đưa tiểu đội ba lên bảo vệ sườn phải của chúng tôi, quân Đức sẽ buộc phải tấn công, và khi đó chúng ta có thể…”

“Tôi không quan tâm đến chuyện thượng sĩ Harris nghĩ gì,” Fisher nói. “Tôi ra lệnh và anh sẽ thi hành chúng. Rõ chưa?”

“Rõ, thưa ngài,” Giles nói và dập máy xuống.

“Tôi luôn có thể giết hắn, thưa ngài,” Bates nói.

Giles tảng lờ anh ta trong khi anh nạp đạn vào súng ngắn của mình và cài sáu quả lựu đạn vào thắt lưng. Anh đứng dậy để cả hai tiểu đội nhìn thấy mình, và lớn tiếng hô, “Lắp lưỡi lê và chuẩn bị xung phong.” Sau đó, anh bước lên khỏi công sự và hô lớn, “Xung phong.”

Trong lúc Giles bắt đầu chạy trên mặt cát lún nóng bỏng với thượng sĩ Harris và trung sĩ Bates chỉ cách một bước phía sau, anh được thêm một loạt đạn nữa chào đón và thầm tự hỏi anh có thể sống sót bao lâu trong hoàn cảnh bất lợi này. Khi còn tới bốn mươi yard nữa phải vượt qua, anh đã có thể thấy chính xác vị trí ba công sự của địch. Giles lấy một quả lựu đạn khỏi thắt lưng, giật chốt an toàn và ném nó về phía công sự ở giữa, như thể anh đang ném một quả bong cricket từ đường biên xa về phía đôi găng tay của người chụp bong. Quả lựu đạn rơi vừa trúng đích. Giles thấy hai thân người bay lên không trung, trong khi một tên nữa ngã vật ra sau.

Anh quay lại, ném một quả lựu đạn nữa vào công sự bên trái, một pha ghi điểm ngoạn mục, vì hỏa lực địch đột ngột im bặt. Quả lựu đạn thứ ba tiêu diệt một khẩu súng máy. Khi Giles xông lên, anh có thể thấy mình đang nằm trong tầm ngắm của địch. Anh rút súng ngắn khỏi bao và bắt đầu bắn như thể đang ở trường bắn, những lần này tâm bia lại là những thân người. Một, hai, ba tên ngã gục, và sau đó Giles trông thấy một sĩ quan Đức giơ súng ngắm bắn mình. Tên Đức bóp cò hơi muộn một tích tắc, và đổ gục xuống cát trước mặt anh. Giles cảm thấy buồn nôn.

Khi anh chỉ còn cách công sự một yard, một lính Đức trẻ măng ném súng trường của hắn xuống đất, trong khi một tên nữa giơ cao hai tay lên trời. Giles nhìn chằm chằm vào đôi mắt tuyệt vọng của những kẻ thất bại. Anh không cần phải biết tiếng Đức để biết chúng không muốn chết.

“Ngừng bắn!” hô lớn, vì lực lượng của tiểu đội 1 và 2 nhanh chóng chiếm lĩnh được vị trí địch. “Tập trung chúng lại và tước vũ khí, thượng sĩ Harris,” anh nói thêm, rồi quay lại và thấy Harris gục đầu xuống cát, máu rỉ ra từ miệng, chỉ cách công sự vài yard.

Giles quay lại nhìn khoảng đất trống họ đã vượt qua, cố không đếm số lượng những người lính đã hy sinh tính mạng vì quyết định kém cỏi của một con người. Những người khiêng cáng đã bắt đầu thu dọn các thi thể khỏi chiến trường.

“Trung sĩ Bates, tập hợp tù binh thành hàng ba và giải chúng về trại.”

“Rõ, thưa ngài,” Bates nói, nghe có vẻ thực sự phục tùng.

Vài phút sau, Giles và đội quân đã tổn thất nặng của anh quay về qua trảng cát trống. Họ đã vượt qua được chừng năm mươi yard khi Giles trông thấy Fisher chạy tới phía anh, tiểu đội 3 chạy theo sau anh ta.

“Được rồi, Barrington, tôi sẽ nắm quyền chỉ huy,” anh ta hô lớn. “Anh phụ trách cảnh giới phía sau. Theo tôi,” anh ta ra lệnh trong khi đắc thắng dẫn các tù binh Đức quay về thành phố.

Khi họ tới khách sạn Majestic, một đám người nhỏ đã tập trung lại để chào mừng họ. Fisher đáp lại màn chào mừng của các sĩ quan đồng đội.

“Barrington, đảm bảo đám tù binh bị giam giữ cẩn thận, sau đó dẫn các chàng trai tới căng tin uống một chầu; họ xứng đáng được thế. Trong lúc đó, tôi sẽ báo cáo lại với thiếu tá Richards.”

“Tôi có thể giết hắn chứ, thưa ngài?” Bates hỏi.

CHÚ THÍCH

25*Thành phố ở ven biển Libya, bị quân Đồng Minh và Đức – Italia giành đi giật lại nhiều lần trong các năm 1941 – 1942.

26*Nguyên văn: majestic (giống tên khách sạn, tác giả chơi chữ)

27*Erwin Rommel (1891 - 1944), thống chế Đức Quốc xã (được phong thống chế tháng 6/1942), tư lệnh Quân đoàn châu Phi (Afrikan Korps), được quân Đồng Minh đặt biệt danh là Cáo Sa Mạc (Desert Fox) vì tài chỉ huy của ông ta.

28*Sir Archibald Wavell (1883 - 1950), thống chế Anh (từ tháng 1/1943), tư lệnh quân Anh tại Bắc Phi và Trung Đông giai đoạn đầu Thế chiến thứ Hai, từng giành nhiều thắng lợi trước quân Italia tại Bắc Phi và Đông Phi trong giai đoạn 1940 - 1941, bị cách chức chỉ huy tại Bắc Phi và điều sang Ấn Độ sau thất bại trong việc giải vây cho Tobruk tháng 6/1941 và bị Rommel đánh lui.

29*Cuộc bao vây Tobruk kéo dài từ 10/4 đến 27/11/1941, đánh dấu thất bại đầu tiên tại Bắc Phi của Rommel, quân Đức phải triệt thoái cuộc bao vây khi tập đoàn quân 8 Anh của tướng Auchinleck giải vây cho thành phố ngày 27/11/1941, nhưng trên thực tế phòng thủ Tobruk là sư đoàn 9 Australia.