← Quay lại trang sách

Chương 15

Emma bật đèn đầu giường lên và một lần nữa ngắm nhìn những bức ảnh chụp Harry đứng trên boong tàu Kansas Star. Trông anh thật hạnh phúc, thư thái, và rõ ràng không hề biết điều gì đang chờ anh khi anh bước chân lên bờ.

Cô cứ chập chờn ngủ rồi lại thức trong khi cố đoán xem tại sao Harry lại sẵn sàng đối diện với một phiên tòa cùng tội giết người, và thừa nhận có tội về tội đào ngũ khỏi một quân chủng hải quân mà anh chưa bao giờ nhập ngũ. Cô đi đến kết luận chỉ mình Sefton Jelks có thể cung cấp được câu trả lời. Điều đầu tiên cô cần là thu xếp một cuộc hẹn gặp ông ta.

Cô liếc mắt nhìn lại đồng hồ để bên đầu giường: 3: 21 phút. Cô rời khỏi giường, mặc lên người chiếc áo ngủ, ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ và viết đầy những dòng ghi chú lên kín mấy tờ giấy của khách sạn để chuẩn bị cho cuộc gặp với Sefton Jelks. Cô có cảm giác như đang chuẩn bị cho một kỳ thi vậy.

Đến sáu giờ, cô tắm rồi mặc đồ, sau đó xuống dưới nhà ăn sáng. Một tờ The New York Times được bỏ lại trên bàn cô, và Emma lật nhanh qua các trang báo, chỉ dừng lại để đọc đúng một bài. Người Mỹ đang trở nên bi quan về khả năng nước Anh có thể sống sót được cuộc xâm lược của quân Đức, là điều ngày càng có khả năng xảy ra. Phía trên một bức ảnh chụp Winston Churchill đứng trên những vách đá trắng ở vịnh Dover nhìn đầy thách thức qua eo biển Anh, điếu xì gà trứ danh của ông ở đúng chỗ của nó, là dòng tít, “Chúng ta sẽ đánh chúng trên các bãi biển.”

Emma cảm thấy có lỗi khi rời khỏi đất nước mình. Cô cần tìm được Harry, giúp anh được thả tự do và họ sẽ cùng nhau quay trở về Bristol.

Nhân viên lễ tân của khách sạn tìm địa chỉ công ty luật Jelks, Myers Abernathy trong cuốn danh bạ điện thoại khu vực Manhattan, ghi lại một địa chỉ trên phố Wall rồi đưa cho Emma.

Chiếc tắc xi thả cô xuống bên ngoài một tòa nhà khổng lồ khung sắt lắp kính cao vút lên tận bầu trời. Cô đẩy cửa quay bước vào và nhìn lên tấm bảng lớn nằm trên tường có danh sách tất cả các công ty nằm trên bốn mươi tám tầng nhà. Jelks, Myers Abernathy nằm trên các tầng 20, 21 và 22; mọi yêu cầu được tiếp nhận tại quầy lễ tân ở tầng hai mươi.

Emma đứng vào cùng một đám đàn ông mặc đồ vét màu xám bằng vải flannel bước vào chật kín thang máy đầu tiên mở ra. Khi cô gái bước ra ở tầng hai mươi, Emma được chào đón bằng hình ảnh ba phụ nữ ăn mặc lịch sự với áo sơ mi trắng cổ mở và mặc váy đen, ngồi sau một quầy tiếp tân, thêm một thứ nữa cô chưa từng thấy tại Bristol. Cô tự tin bước tới bên quầy. “Tôi muốn gặp ông Jelks.”

“Cô có lịch hẹn chưa?” người nhân viên lễ tân lịch sự hỏi.

“Chưa,” Emma thừa nhận, cô vốn mới chỉ làm việc với một luật sư địa phương ở quê nhà, người luôn sẵn sàng phục vụ mỗi khi một thành viên của gia đình Barrington ghé qua.

Cô lễ tân có vẻ ngạc nhiên. Khách hàng không thể chỉ xuất hiện trước quầy lễ tân mà hy vọng được gặp các thành viên cao cấp; hoặc họ viết thư đề nghị, hoặc thư ký của họ phải gọi điện trước để được thu xếp một cuộc hẹn trong lịch làm việc dày đặc của ông Jelks. “Nếu cô vui lòng cho biết tên, tôi sẽ trao đổi với trợ lý của ông ấy.”

“Emma Barrington.”

“Mời cô vui lòng ngồi đợi, cô Barrington. Sẽ có người đến tiếp cô ngay.”

Emma ngồi một mình trong một phòng chờ nhỏ. “Ngay” cuối cùng hóa ra là hơn nửa giờ đồng hồ, khi một người đàn ông mặc bộ vét màu xám nữa xuất hiện cầm theo một tập giấy ghi chú màu vàng.

“Tên tôi là Samuel Anscott,” anh ta nói, chìa tay ra. “Tôi hiểu là cô muốn gặp thành viên cao cấp của chúng tôi.”

“Đúng vậy.”

“Tôi là trợ lý tư pháp của ông ấy,” Anscott nói trong lúc ngồi xuống chiếc ghế đối diện với cô. “Ông Jelks yêu cầu tôi tìm hiểu xem tại sao cô lại muốn gặp ông ấy.”

“Đây là vấn đề riêng tư,” Emma nói.

“Tôi sợ rằng ông ấy sẽ không đồng ý gặp cô trừ khi tôi có thể nói cho ông ấy biết mục đích cuộc gặp.”

Emma cắn môi. “Tôi là một người bạn của Harry Clifton.”

Cô chăm chú quan sát Anscott, nhưng rõ ràng cái tên này chẳng nói lên gì với anh ta, cho dù anh ta có ghi chú lên tập giấy vàng của mình.

“Tôi có lý do để tin rằng Harry Clifton đã bị bắt vì vụ Adam Bradshaw bị giết, và ông Jelks đã bào chữa cho anh ấy.”

Lần này, cái tên có vẻ gợi lên gì đó, và ngòi bút hối hả lướt đi trên mặt giấy.

“Tôi muốn gặp ông Jelks để tìm hiểu xem làm thế nào một luật sư ở địa vị của ông ấy có thể để chồng chưa cưới của tôi thế chỗ Thomas Bradshaw.”

Một cái cau mày thật rõ xuất hiện trên khuôn mặt viên trợ lý trẻ. Anh ta rõ ràng không quen với chuyện ai đó nhắc tới ông chủ của mình theo cách này. “Tôi không hiểu cô đang nói về chuyện gì, cô Barrington,” anh ta nói, điều Emma nghĩ là anh ta nói thật. “Nhưng tôi sẽ báo lại với ông Jelks, và báo lại cô sau. Cô có thể cho tôi xin địa chỉ để liên lạc.”

“Tôi đang ở tại khách sạn Mayflower,” Emma nói, “tôi sẵn sàng gặp ông Jelks vào bất cứ lúc nào.”

Anscott viết thêm dòng một ghi chú nữa lên tập giấy của anh ta, đứng lên, gật đầu chào chiếu lệ, nhưng lần này không hề chìa tay ra. Emma cảm thấy tự tin rằng cô sẽ không phải chờ lâu trước khi vị thành viên cao cấp đồng ý gặp cô.

Cô vẫy một chiếc tắc xi để quay về khách sạn Mayflower, và có thể nghe thấy chuông điện thoại reo đang kêu trong phòng thậm chí từ trước khi cô mở cửa phòng. Cô chạy tới, nhưng khi cô nhấc ống nghe lên, đường dây đã im bặt.

Cô ngồi xuống bàn và bắt đầu viết thư cho mẹ mình, báo để bà biết cô đã tới nơi an toàn, cho dù không nhắc gì tới chuyện giờ đây cô tin chắc Harry còn sống. Emma chỉ có thể làm điều này khi cô đã tận mắt nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt. Emma đang viết sang tờ thứ ba của lá thư thì điện thoại lại đổ chuông. Cô nhấc máy.

“Xin chào cô, cô Barrington.”

“Chào ông, ông Anscott,” cô nói, không cần phải được cho biết người gọi là ai.

“Tôi đã trao đổi với ông Jelks về yêu cầu được gặp của cô, song tôi e rằng ông ấy không thể gặp cô, vì điều đó sẽ gây ra xung đột lợi ích với một thân chủ khác mà ông ấy đang đại diện. Ông ấy lấy làm tiếc không thể giúp được nhiều hơn.”

Đường dây im bặt.

Emma ngồi nguyên bên bàn, vẫn cầm chặt ống nghe trên tay, mấy từ “xung đột lợi ích” vang lên trong tai cô. Có thực là còn một khách hàng nữa không, và nếu thế, người đó có thể là ai? Hay đó chỉ là một cái cớ để tránh gặp mặt cô? Cô để ống nghe xuống giá và ngồi im một lúc lâu, tự hỏi liệu trong hoàn cảnh này ông nội cô sẽ làm gì. Cô nhớ lại một trong những câu châm ngôn ưa thích của ông: luôn có nhiều hơn một cách để lột da một con mèo.

Emma mở ngăn kéo bàn, nhẹ nhõm khi tìm thấy một tập giấy mới được cung cấp, và lập một danh sách những người có thể lấp đầy được những khoảng trống được tạo ra do xung đột về lợi ích mà ông Jelks nhắc tới. Sau đó, cô đi xuống quầy lễ tân dưới sảnh, biết rằng cô sẽ rất bận rộn trong mấy ngày tiếp theo. Cô nhân viên lễ tân cố giấu sự ngạc nhiên của mình khi một cô gái trẻ từ Anh tới với giọng nói nhẹ nhàng lại hỏi địa chỉ của một tòa án, một đồn cảnh sát và một nhà tù.

Trước khi rời Mayflower, Emma rẽ vào cửa hàng của khách sạn và mua cho mình một tập giấy ghi chú vàng. Cô bước ra vỉa hè và vẫy một chiếc tắc xi.

Chiếc xe thả cô gái xuống một khu của thành phố mà khác xa nơi luật sư Jelks sống. Trong khi bước lên các bậc thềm của tòa án, Emma nghĩ về Harry, cũng như cảm giác của anh khi bước vào chính toà nhà này, trong những hoàn cảnh rất khác. Cô hỏi người gác cửa thư viện tham khảo nằm ở đâu, với hy vọng tìm hiểu được những hoàn cảnh đó là gì.

“Nếu ý cô muốn hỏi phòng lưu trữ, thưa cô, thì nó ở dưới tầng hầm,” người gác cửa nói.

Sau khi bước xuống hai dãy cầu thang, Emma hỏi một viên lục sự đang ngồi sau quầy liệu cô có thể tham khảo hồ sơ của vụ Tiểu bang New York với Bradshaw không. Viên lục sự đưa cho cô một bản khai để điền vào, trong đó có câu hỏi, Anh/chị có phải là sinh viên không? mà cô trả lời là có. Vài phút sau, Emma được đưa cho ba hộp lớn đựng hồ sơ.

“Chúng tôi đóng cửa sau hai tiếng nữa,” cô được cảnh báo. “Khi chuông reo, cô cần mang hồ sơ trả lại đây ngay lập tức.”

Sau khi Emma đã đọc được vài trang tài liệu, cô không hiểu nổi tại sao tiểu bang lại không tiếp tục truy tố Tom Bradshaw tội giết người, trong khi dường như họ đang có một cáo trạng rất thuyết phục chống lại anh ta. Hai anh em họ đã cùng ở chung phòng khách sạn; bình rượu uýt ki dính đầy dấu tay thấm máu của Tom trên đó, và không có manh mối nào cho thấy có ai khác vào phòng trước khi thi thể Adam được tìm thấy nằm trên một vũng máu. Nhưng, còn tệ hơn thế, tại sao Tom lại chạy khỏi hiện trường vụ án, và tại sao công tố viên tiểu bang lại muốn thu xếp để bị cáo tự nhận có tội với tội trạng đào ngũ ít nghiêm trọng hơn? Còn khó hiểu hơn nữa là việc làm thế nào mà ngay từ đầu Harry lại dính dáng vào chuyện này. Có lẽ lá thư trên bệ lò sưởi ở nhà cô Maisie chứa đựng câu trả lời cho tất cả những câu hỏi này, hay chỉ đơn giản là Jelks biết điều gì đó mà ông ta không muốn cô tìm ra?

Dòng suy nghĩ của cô bị gián đoạn bởi tiếng chuông reo, yêu cầu cô trả tập hồ sơ về quầy. Một số câu hỏi đã được trả lời, song còn nhiều câu hỏi hơn thế vẫn chưa có lời giải đáp. Emma ghi lại hai cái tên cô hy vọng sẽ có thể cung cấp phần lớn những câu trả lời đó, song liệu những người này cũng tuyên bố một xung đột lợi ích hay không đây?

Cô ra khỏi tòa án sau lúc năm giờ một chút, cầm theo thêm mấy tờ giấy nữa phủ kín nét chữ viết tay nắn nót của mình. Cô mua vội một thứ có tên là Hershey’s Bar và một lon Coca từ người bán hàng trên phố, trước khi vẫy một chiếc tắc xi nữa để đưa cô tới đồn cảnh sát phân khu 24. Cô ăn uống ngay trên xe, một điều hẳn mẹ cô sẽ không bao giờ chấp nhận.

Đến đồn cảnh sát, Emma yêu cầu được gặp thám tử Kolowski hoặc thám tử Ryan.

“Cả hai người họ đều trực đêm tuần này,” viên thượng sĩ ngồi ở bàn tiếp đón trả lời, “vì thế họ chỉ trở lại làm việc sau mười giờ tối.”

Emma cảm ơn anh ta và quyết định quay về khách sạn ăn tối rồi sẽ quay lại đồn phân khu 24 lúc mười giờ.

Sau một suất xa lát Caesar và lần đầu nếm thử món kem trộn hoa quả tráng miệng, Emma quay lên phòng mình trên lầu bốn. Cô nằm xuống giường và nghĩ về những gì cô cần hỏi Kolowski hoặc Ryan, nếu giả sử có ai trong hai người đồng ý gặp cô. Liệu trung úy Bradshaw có khẩu âm Mỹ không…?

Emma thiếp đi vào một giấc ngủ sâu, để rồi giật mình tỉnh dậy khi nghe thấy âm thanh lạ lẫm của tiếng còi xe cảnh sát rú vang trên con phố phía dưới. Giờ thì cô hiểu tại sao các phòng trên các tầng trên lại có giá đắt hơn. Cô xem đồng hồ đeo tay. Đã một giờ mười lăm phút.

“Chết tiệt,” cô chửi thề thành tiếng trong lúc bật dậy khỏi giường, chạy vào phòng tắm, đưa một chiếc khăn mặt vào dưới vòi nước lạnh và ấp lên mặt. Cô vội vàng rời khỏi phòng, đi thang máy xuống tầng trệt. Khi cô bước ra khỏi khách sạn, Emma ngạc nhiên khi thấy đường phố vẫn nhộn nhịp, vỉa hè vẫn đông đúc, không khác gì giữa ban ngày ban mặt.

Cô lại vẫy một chiếc tắc xi khác, yêu cầu người lái xe đưa cô trở lại đồn cảnh sát phân khu 24. Liệu có phải các anh chàng lái tắc xi ở New York đang bắt đầu hiểu cô, hay cô đang bắt đầu hiểu họ?

Cô bước lên các bậc thềm của đồn cảnh sát vài phút trước hai giờ sáng. Một viên thượng sĩ khác ngồi trực ngoài bàn mời cô ngồi đợi, đồng thời hứa sẽ báo cho Kolowski hay Ryan biết cô đang đợi ngoài phòng tiếp khách.

Emma chuẩn bị tinh thần phải ngồi đợi lâu, nhưng cô ngạc nhiên khi chỉ vài phút sau nghe thấy viên thượng sĩ ngồi ở bàn trực nói, “Này, Karl, có một quý cô đang ngồi đợi ở kia nói muốn gặp anh đấy.” Anh ta chỉ về phía Emma.

Thám tử Kolowski, một tay cầm cốc cà phê, điếu thuốc lá trên tay kia, bước tới và dành cho Emma một nụ cười nửa miệng. Cô thầm tự hỏi nụ cười kia sẽ biến mất nhanh tới mức nào khi anh ta biết lý do cô muốn gặp anh ta.

“Tôi có thể giúp gì được cô, thưa cô?” anh ta hỏi.

“Tên tôi là Emma Barrington,” cô nói, cố phóng đại khẩu âm Anh của mình lên, “và tôi cần lời khuyên của anh về một vấn đề cá nhân.”

“Vậy hãy vào phòng tôi nào, cô Barrington,” Kolowski nói, và bắt đầu bước xuống hành lang cho tới khi tới bên một cánh cửa mà anh ta dùng gót giày đá mở ra. “Mời cô ngồi,” anh ta nói, chỉ tay vào cái ghế duy nhất trong phòng. “Tôi lấy cà phê cho cô nhé?” Viên thám tử hỏi trong khi Emma ngồi xuống.

“Không, cảm ơn anh.”

“Một quyết định khôn ngoan đấy, thưa cô,” viên thám tử nói trong lúc để cốc của mình lên bàn, châm thuốc và ngồi xuống. “Nào, tôi có thể giúp gì cô đây?”

“Theo tôi biết, anh là một trong các thám tử đã bắt giữ chồng chưa cưới của tôi.”

“Tên anh ta là gì vậy?” “Thomas Bradshaw.”

Cô đã đúng. Vẻ mặt, giọng nói, thái độ, mọi thứ ở anh ta đều thay đổi. “Phải, đúng là tôi. Và tôi có thể nói với cô, thưa cô, đây là một vụ quá rõ ràng cho tới khi Sefton Jelks nhúng mũi vào.”

“Nhưng vụ này chưa bao giờ được tuyên án trước tòa,” Emma nhắc anh ta.

“Chỉ vì Bradshaw có Jelks làm luật sư cho anh ta. Nếu tay này biện hộ cho Pontius Pilate23*, ông ta có thể thuyết phục được bồi thẩm đoàn rằng tay tổng trấn chỉ giúp đỡ một người thợ mộc trẻ muốn mua mấy cái đinh cho cây thập tự mà anh ta đang đóng dở.”

“Có phải anh muốn nói là Jelks…”

“Không,” Kolowski nói đầy mỉa mai trước khi Emma kịp hết câu. “Tôi vẫn luôn nghĩ đó chỉ là chuyện tình cờ ngẫu nhiên khi ông công tố viên chuẩn bị được bầu lại vào năm đó, và một số thân chủ của Jelks lại nằm trong danh sách những người đóng góp hào phóng nhất cho chiến dịch vận động của ông ta. Dù sao thì,” viên thám tử nói tiếp sau khi phả ra một đám khói dài, “cuối cùng Bradshaw cũng bị kết án sáu năm vì tội đào ngũ trong khi đám dự cá cược tại đồn phân khu cho rằng anh ta sẽ chỉ bị mười tám tháng – kịch sàn là hai năm.”

“Ý anh là sao cơ?” Emma hỏi.

“Có nghĩa là thẩm phán thừa nhận Bradshaw có tội” - Kolowski dừng lại và phả ra một đám khói nữa trước khi nói thêm - “tội giết người.”

“Tôi đồng ý với anh và thẩm phán,” Emma nói. “Tom Bradshaw rất có thể đã phạm tội giết người.” Kolowski trông có vẻ ngạc nhiên. “Nhưng người bị ông bắt có từng bao giờ nói với ông là ông đã phạm một sai lầm, và anh ấy không phải Tom Bradshaw mà là Harry Clifton hay không?”

Viên thám tử nhìn Emma chăm chú hơn, và ngẫm nghĩ một lát. “Lúc đầu đúng là anh ta có nói điều gì đó giống thế, nhưng Jelks hẳn đã nói với anh ta rằng làm vậy không ăn thua, vì anh ta không bao giờ đả động đến nó nữa.”

“Ông có quan tâm không, thưa ông Kolowski, nếu tôi có thể chứng minh điều đó là có căn cứ?”

“Không, thưa cô.” Kolowski cương quyết nói. “Vụ án đó đã khép lại lâu rồi. Chồng chưa cưới của cô đang thụ án sáu năm cho một tội danh anh ta thừa nhận có tội, và tôi đang có quá nhiều việc phải làm trên bàn mình…” ông ta đặt một bàn tay lên một chồng các tập hồ sơ - “để đi mở ra những vết thương cũ. Giờ thì, trừ khi cô còn điều gì khác tôi có thể giúp được…”

“Người ta sẽ cho phép tôi tới thăm Tom ở Lavenham chứ?”

“Tôi không thể thấy tại sao lại không,” Kolowski nói. “Hãy viết cho ông quản giáo. Ông ta sẽ gửi cho cô một bản yêu cầu thăm nom. Sau khi cô đã điền vào và gửi lại, họ sẽ hẹn cô ngày vào thăm. Sẽ không mất quá sáu hay tám tuần đâu.”

“Nhưng tôi không có đến sáu tuần,” Emma phản đối. “Tôi cần quay về Anh trong vòng hai tuần. Liệu còn gì tôi có thể làm để đẩy nhanh cái quy trình này không?”

“Điều đó chỉ có thể trên lý do tình thân,” viên thám tử nói, “và chỉ giới hạn cho vợ và bố mẹ thôi.”

“Thế còn với người mẹ của đứa con của tù nhân thì sao?” Emma hỏi lại.

“Ở New York, thưa cô, điều đó cho cô quyền tương đương với một người vợ, nếu cô có thể chứng minh được.”

Emma lấy ra khỏi xắc tay của cô hai bức ảnh, một của Sebastian, một của Harry đứng trên boong tàu Kansas Star.

“Với tôi thế là đủ,” Kolowski nói, đưa trả lại bức ảnh Harry và không bình phẩm gì thêm. “Nếu cô hứa không quấy rầy tôi thêm nữa, tôi sẽ nói chuyện với ông quản giáo và tìm hiểu xem có thể làm được gì không.”

“Cảm ơn ông,” Emma nói.

“Làm thế nào tôi liên lạc được với cô?”

“Tôi ở tại khách sạn Mayflower.”

“Tôi sẽ liên lạc,” Kolowski vừa nói vừa ghi lại địa chỉ. “Nhưng tôi không muốn cô nghi ngờ, thưa cô, về chuyện Tom Bradshaw đã giết anh trai anh ta. Tôi chắc chắn về điều đó.”

“Và tôi cũng không muốn ông nghi ngờ, thưa thám tử, về việc người đang bị giam tại Lavenham không phải là Tom Bradshaw. Tôi chắc chắn về điều đó.” Emma cất hai bức ảnh vào trong xắc tay và đứng dậy ra về.

Viên thám tử cau mày trong khi cô gái bước ra khỏi căn phòng. Emma quay về khách sạn, cởi đồ ra và leo thẳng lên giường.

Cô nằm thao thức, tự hỏi liệu Kolowski có nghĩ lại về việc liệu ông ta đã bắt đúng người hay không. Cô vẫn không lý giải nổi tại sao Jelks lại cho phép Harry bị kết án đến sáu năm, trong khi ông ta có thể dễ dàng chứng minh Harry không phải là Tom Bradshaw.

Cuối cùng cô gái ngủ thiếp đi, thầm biết ơn vì không bị vị khách tới thăm ban đêm nào quấy rầy.

Điện thoại reo lên khi cô đang ở trong phòng tắm, nhưng khi cô nhấc máy, chỉ còn tiếng quay số.

Cuộc gọi thứ hai đến khi cô đang định đóng cửa phòng xuống dưới nhà ăn sáng. Cô vội chạy trở vào trong và vồ lấy ống điện thoại, và nghe thấy một giọng cô nhận ra ngay vang lên ở đầu dây bên kia.

“Xin chào anh, thám tử Kolowski,” cô trả lời.

“Tin không được tốt,” viên thám tử nói, người này không mất thời gian chào hỏi xã giao. Cô gái ngồi phịch xuống giường, thầm sợ điều tồi tệ nhất. “Tôi đã nói chuyện với quản giáo của Lavenham ngay sau khi hết ca trực, và ông ấy cho tôi biết Bradshaw đã nói rất rõ ràng là anh ta không muốn bất cứ ai tới thăm, không ngoại lệ. Có vẻ ông Jelks đã yêu cầu thậm chí anh ta cũng không được thông báo khi ai đó đề nghị gặp anh ta.”

“Ông có thể tìm cách nhắn tin cho anh ấy bằng cách nào đó được không?” Emma nài nỉ. “Tôi tin chắc nếu anh ấy biết là tôi…”

“Không có hy vọng đâu, thưa cô,” Kolowski nói. “Cô không hiểu được ảnh hưởng của Jelks lan xa đến đâu đâu.”

“Ông ta có thể kiểm soát cả quản giáo nhà tù sao?”

“Một quản giáo nhà tù chỉ là con tốt nhỏ. Công tố viên và một nửa số thẩm phán ở New York nằm dưới tay ông ta. Chỉ là đừng kể với ai rằng tôi nói thế.”

Đường dây im bặt.

Emma không rõ bao nhiêu thời gian đã trôi qua cho tới khi cô nghe thấy tiếng gõ cửa. Có thể là ai nhỉ? Cánh cửa hé mở, một khuôn mặt thân thiện ngó vào.

“Tôi có thể dọn phòng chứ, thưa cô?” một người phụ nữ đẩy xe lao công hỏi.

“Tôi chỉ cần thêm vài phút nữa thôi,” Emma nói. Cô xem đồng hồ đeo tay và ngạc nhiên khi nhận ra đã mười giờ mười phút. Cô cần bình tâm lại trước khi cân nhắc bước đi tiếp theo, và quyết định đi bộ một cữ dài trong Công viên Trung tâm.

Cô bước đi vòng quanh công viên trước khi đi tới một quyết định. Đã đến lúc phải tới gặp bà cô của cô và tìm kiếm lời khuyên của bà về những gì cô nên làm tiếp theo.

Emma hướng tới góc đường 64 và Công viên, và quá bận tâm suy nghĩ xem cô sẽ giải thích thế nào với bà cô Phyllis tại sao không tới thăm bà sớm hơn, đến mức những gì lọt vào mắt không hoàn toàn được cô để tâm hết. Cô dừng bước, quay lại và lần bước ngược lại, để ý từng ô cửa sổ cho tới khi tới cửa hàng Doubleday’s24*. Một chồng sách xếp thành hình kim tự tháp chiếm vị trí nổi bật ở ô cửa kính giữa, bên cạnh bức ảnh chụp một người đàn ông với mái tóc đen chải ngược ra sau và hàng ria bút chì. Người trong ảnh đang mỉm cười nhìn cô.

CHÚ THÍCH

23*Tổng trấn Jerusalem đã ra lệnh đóng đinh Jesus lên thập tự, ý Kolowski muốn nói một kẻ tội trạng đã quá rõ ràng.

24*Một công ty xuất bản Mỹ.