← Quay lại trang sách

Chương 24

Hugo Barrington không thể ngăn nổi nụ cười trên mặt khi ông ta đọc được trên tờ Bristol Evening Newsrằng Harry Clifton đã được an táng ngoài biển chỉ vài giờ sau khi chiến tranh bùng nổ.

Cuối cùng người Đức cũng làm được một điều gì đó có giá trị. Một tay thuyền trưởng tàu ngầm đã một mình giải quyết ổn thỏa rắc rối lớn nhất của ông ta. Hugo bắt đầu tin, dần dà theo thời gian, thậm chí ông ta còn có thể quay về Bristol và lấy lại vị trí phó chủ tịch Công ty Hàng hải Barrington. Ông ta sẽ bắt đầu tác động lên mẹ mình bằng những cuộc điện thoại đều đặn gọi về Barrington Hall, nhưng chỉ gọi sau khi bố ông ta đã rời nhà đi làm mỗi ngày. Tối hôm ấy, Hugo ra khỏi nhà ăn mừng, và trở về say mèm như một đức ông thực thụ.

Thời gian đầu khi Hugo chuyển lên sống tại London sau đám cưới bị hủy bỏ giữa chừng của con gái mình, ông ta thuê một căn hộ tầng trệt tại Cadogan Gardens với giá một bảng mỗi tuần. Điều hay ho duy nhất ở căn hộ ba phòng này là địa chỉ của nó, cho phép tạo nên ấn tượng rằng ông ta là người rủng rỉnh tiền bạc.

Cho dù Hugo vẫn còn ít tiền trong ngân hàng, số tiền đó cũng nhanh chóng cạn dần khi ông ta có quá nhiều thời gian trong tay và không có nguồn thu nhập ổn định nào. Chẳng mấy chốc, ông ta đành chia tay với chiếc Bugatti, nó giúp cho ông ta đủ chi tiêu được thêm vài tuần nhưng cũng chỉ tới khi tấm séc đầu tiên bị gửi trả lại. Ông ta không thể quay sang bố mình để tìm kiếm trợ giúp, vì Sir Walter đã cấm cửa ông ta, và thẳng thừng mà nói, hẳn ông sẽ sẵn sàng giúp đỡ Maisie Clifton một tay trước khi bận tâm nhúc nhắc một ngón tay trợ giúp con trai mình.

Sau vài tháng vô công rồi nghề ở London, Hugo thử tìm việc làm. Nhưng chuyện này cũng chẳng dễ; nếu có nhà tuyển dụng tiềm năng nào đó biết bố ông ta, ông ta sẽ chẳng bao giờ có cơ hội được phỏng vấn, và kể cả khi có được cơ hội đó, ông chủ mới của ông ta lại trông đợi ông ta làm việc vào giờ giấc ông ta chưa từng biết là có tồn tại, và với một mức lương thậm chí không đủ thanh toán hóa đơn của ông ta tại hộp đêm.

Hugo bắt đầu ném chỗ tiền ít ỏi ông ta còn lại vào thị trường chứng khoán. Ông ta để tai lắng nghe quá nhiều những tay bạn học cũ nói với ông ta về những phi vụ không thể thất bại, và thậm chí còn dính dáng vào một hai vụ làm ăn mờ ám đưa ông ta đến chỗ làm quen với những nhân vật mà báo chí vẫn mô tả là dân phe chợ đen, còn bố ông ta hẳn sẽ coi là đám lưu manh.

Trong vòng một năm, Hugo đã buộc phải quay sang vay tiền từ bạn bè của ông ta, và thậm chí từ cả bạn của bạn. Nhưng khi bạn không có bất cứ phương cách nào để trả các món nợ của mình, bạn sẽ nhanh chóng biến mất khỏi danh sách khách mời của hầu hết các buổi tiệc tùng, và cũng không còn được mời tới các nhà nghỉ đồng quê đi săn vào dịp cuối tuần.

Mỗi khi lâm vào tình thế tuyệt vọng, Hugo lại gọi điện cho mẹ mình, nhưng chỉ khi ông ta đã tin chắc bố mình đang ở văn phòng. Mẹ ông ta luôn là một nguồn đáng tin cậy để kiếm một tờ mười bảng, cũng như bà từng là chỗ đáng tin để moi mười shilling55* khi ông ta còn đi học.

Một người bạn học cũ, Archie Fenwick, cũng rất hữu ích với những lần thỉnh thoảng dùng bữa trưa tại câu lạc bộ của anh ta hay một lời mời tới dự một bữa tiệc cocktail thời thượng của anh ta tại Chelsea56*. Và đó là nơi Hugo gặp Olga lần đầu tiên. Không phải khuôn mặt hay thân hình cô ta thu hút sự chú ý của ông ta ngay lập tức, mà là những viên ngọc trai, ba vòng tất cả, đeo quanh cổ cô ta. Hugo quay sang Archie hỏi xem có phải chúng là đồ thật không.

“Chắc chắn là thế rồi,” ông này nói. “Nhưng hãy coi chừng, cậu không phải là người duy nhất muốn thò tay vào hũ mật ong đó đâu.”

Olga Piotrovsa là tên cô ta, Archie cho hay, vừa mới đến London để trốn khỏi Ba Lan sau cuộc xâm lược của Đức. Bố mẹ cô ta đã bị Gestapo57* bắt giữ với lý do duy nhất vì họ là người Do Thái. Hugo cau mày. Archie không thể cho Hugo biết thêm nhiều hơn về cô ta, ngoại trừ việc cô sống trong một ngôi nhà lộng lẫy tại Quảng trường Lowndes và sở hữu một bộ sưu tập mỹ thuật. Hugo chưa bao giờ quan tâm đặc biệt tới mỹ thuật, song cả ông ta cũng đã nghe nói tới Picasso58* và Matisse59*.

Hugo đi ngang qua phòng tới tự giới thiệu mình với cô Piotrovska. Khi Olga kể với ông ta lý do khiến cô phải rời khỏi Ba Lan, ông ta bày tỏ sự phẫn nộ và cam đoan với cô rằng gia đình mình đã rất tự hào được làm ăn cùng các đối tác Do Thái trong hơn một trăm năm. Nói gì thì nói, bố ông ta, Sir Walter Barrington, là một người bạn của các gia tộc Rothschild60* và Hambro61*. Rất lâu trước khi bữa tiệc kết thúc, ông ta đã mời Olga dùng bữa trưa với mình tại nhà hàng Ritz ngày hôm sau, nhưng vì ông ta không còn được phép ký hóa đơn thanh toán, Hugo đành phải xin thêm một tờ năm bảng từ Archie.

Bữa trưa diễn ra suôn sẻ, và trong vài tuần tiếp theo, Hugo quyết liệt theo đuổi tán tỉnh Olga trong phạm vi tình hình tài chính của ông ta. Hugo nói với cô rằng ông ta đã ly thân với vợ sau khi người vợ thừa nhận đã tằng tịu với người bạn thân nhất của ông ta, và ông ta đã yêu cầu luật sư thực hiện thủ tục ly hôn. Trên thực tế, Elizabeth vốn đã ly dị ông ta, và thẩm phán đã dành cho bà quyền sở hữu Manor House cũng như mọi thứ Hugo không kịp mang theo khi bỏ đi vội vã như vậy.

Olga tỏ ra rất thông cảm, và Hugo hứa với cô rằng ngay giây phút ông ta được tự do, ông ta sẽ cầu hôn cô. Ông ta không ngớt lời ca tụng vẻ đẹp của cô, cũng như hết lời khen ngợi những nỗ lực trên giường gần như ngủ gật của cô là cực kỳ tuyệt vời so với Elizabeth. Ông ta không ngừng nhắc đi nhắc lại với cô rằng khi bố ông ta qua đời, cô sẽ trở thành Phu nhân Barrington, và những khó khăn tài chính tạm thời của ông ta sẽ được giải quyết khi ông ta thừa hưởng gia sản nhà Barrington. Ông ta làm cho cô có ấn tượng rằng bố mình già và ốm yếu hơn nhiều so với trên thực tế. “Suy nhược rất nhanh” là cách mô tả ông ta sử dụng.

Vài tuần sau, Hugo chuyển tới sống ở Quảng trường Lowndes, và trong mấy tháng tiếp theo, ông ta quay trở lại với lối sống mà ông ta cho rằng mình đương nhiên phải được hưởng. Vài người bạn bình luận rằng ông ta thật may mắn làm sao khi kiếm được một người phụ nữ trẻ trung duyên dáng xinh đẹp đến thế, và vài người trong họ chẳng thể đừng được bình phẩm thêm, “Và cô nàng chẳng bao giờ thiếu một hay hai shilling.”

Hugo đã gần như quên mất việc ngày ăn ba bữa, mặc quần áo mới và có lái xe riêng chở đi khắp nơi là như thế nào. Ông ta trang trải phần lớn các món nợ của mình, và không bao lâu sau những cánh cửa mới đây còn đóng sầm trước mặt ông ta lại bắt đầu mở rộng. Tuy vậy, ông ta bắt đầu tự hỏi chuyện này có thể kéo dài bao lâu, vì chắc chắn ông ta không hề có ý định cưới một cô gái Do Thái chạy nạn từ Warsawa62* đến.

Derek Mitchell lao lên đoàn tàu tốc hành từ Temple Meads63* tới Paddington64*. Tay thám tử tư đã trở lại làm việc toàn thời gian cho người chủ cũ của anh ta, khi giờ đây thù lao của anh ta một lần nữa lại được trả vào ngày đầu tiên của tháng, và mọi chi phí của anh ta đều được thanh toán khi trình ra. Hugo trông đợi Mitchell báo cáo cho ông ta mỗi tháng một lần về tình hình gia đình Barrington. Đặc biệt, Hugo quan tâm tới hoạt động đi lại của bố ông ta, người vợ cũ, Giles, Emma và thậm chí cả Grace, nhưng ông ta vẫn bị ám ảnh về Maisie Clifton, và mong muốn Mitchell báo cáo với mình về mọi thứ bà làm, và ý ông ta thực sự là mọi thứ.

Mitchell sẽ di chuyển đến London bằng tàu hỏa, và hai người sẽ gặp nhau tại phòng chờ đối diện ke số bảy tại ga Paddington. Một giờ sau đó, Mitchell sẽ đi tàu quay về Temple Meads.

Nhờ đó mà Hugo biết được Elizabeth vẫn tiếp tục sống tại Manor House, trong khi Grace hiếm khi trở về nhà kể từ khi cô dành được học bổng ở Cambridge. Emma đã sinh được một bé trai, đứa bé được cô đặt tên thánh là Sebastian Arthur. Giles đã đăng lính vào trung đoàn Wessex làm lính thường, và sau khi hoàn tất mười hai tuần huấn luyện cơ bản, chàng trai đã được cử tới Đơn vị Huấn luyện Học viên sĩ quan tại Mons.

Đây là một điều ngạc nhiên với Hugo, vì ông ta biết Giles đã bị trung đoàn Gloucester loại do không đủ điều kiện phục vụ chiến đấu tại ngũ chỉ ít lâu sau khi chiến tranh nổ ra, vì cũng như chính ông ta và bố ông ta, Giles cũng bị mù màu. Hugo đã dùng đúng cớ này để tránh bị gọi nhập ngũ vào năm 1915.

Từng tháng dần trôi, Olga bắt đầu hỏi ngày càng thường xuyên hơn khi nào việc ly hôn của Hugo sẽ được giải quyết xong. Ông ta luôn cố gắng làm cho câu trả lời có vẻ như thể chuyện này đã cận kề, nhưng mãi tận đến khi cô đề xuất có lẽ ông ta nên quay về căn hộ của mình ở Cadogan Gardens cho tới khi ông ta có thể xác nhận giấy tờ đã được đệ trình lên tòa, Hugo mới quyết định phải làm gì đó. Ông ta đợi thêm một tuần trước khi báo với cô rằng các luật sư của ông ta đã bắt đầu thủ tục.

Tiếp theo là thêm vài tháng của cuộc sống lứa đôi hòa hợp nữa. Điều Hugo không hề nói với Olga là ông ta đã nhận được từ chủ nhà thông báo cho ông ta thời hạn một tháng để dọn đi vào ngày ông ta chuyển đến ở cùng cô. Nếu cô đuổi ông ta ra đường, Hugo sẽ chẳng có chốn nào để đi.

Khoảng chừng một tháng sau, Mitchell gọi điện cho Hugo và nói anh ta cần gặp gấp, một yêu cầu hết sức bất thường. Họ thống nhất hẹn gặp nhau lúc bốn giờ chiều hôm sau tại điểm hẹn quen thuộc.

Khi Mitchell bước vào phòng chờ của nhà ga, Hugo đã ngồi sẵn trên một băng ghế, giấu mặt sau một tờ Evening News của London. Ông ta đang đọc bài báo viết về việc Rommel công phá Tobruk, cho dù ông ta chẳng thể chỉ ra được vị trí của Tobruk trên một tấm bản đồ. Ông ta tiếp tục đọc báo khi Mitchell ngồi xuống bên cạnh. Tay thám tử tư nói thật khẽ, và không một lần đưa mắt nhìn về phía Hugo.

“Tôi nghĩ ông muốn biết rằng con gái lớn của ông đã làm nhân viên phục vụ tại khách sạn Grand dưới tên cô Dickens.”

“Chẳng phải đó là nơi Maisie Clifton đang làm việc sao?”

“Phải, bà ta là quản lý nhà hàng, và là sếp của con gái ông.”

Hugo không thể hình dung ra nổi tại sao Emma lại có thể muốn làm nhân viên phục vụ. “Mẹ con bé có biết không?”

“Hẳn bà ấy phải biết, vì Hudson thả cô nhà xuống cách khách sạn một trăm yard mỗi buổi sáng vào lúc năm giờ bốn mươi lăm phút. Nhưng đó không phải là lý do tôi muốn gặp ông.”

Hugo lật trang tờ báo của ông ta để thấy một bức ảnh chụp tướng Auchinleck65* đang đứng bên ngoài lều của ông ta trên sa mạc nói chuyện với binh lính.

“Con gái ông đã bắt một chiếc tắc xi tới cầu tàu sáng hôm qua. Cô nhà mang theo một chiếc vali khi cô ấy lên một tàu chở khách có tên Kansas Star, tại đó cô nhà được nhận làm nhân viên bàn thông tin. Con gái ông nói với mẹ cô ấy là cô nhà sẽ tới New York thăm bà cô Phyllis, người tôi tin là em gái của Lord Harvey.”

Hugo hẳn đã lấy làm tò mò muốn biết làm thế nào Mitchell thu thập được thông tin này, song ông ta vẫn phải cố ngẫm nghĩ xem tại sao Emma lại muốn tìm việc làm trên con tàu nơi Harry Clifton đã bỏ mạng. Tất cả chuyện này nghe thật vô lý. Ông ta chỉ thị cho Mitchell tìm hiểu sâu hơn và cho ông ta biết ngay lập tức nếu tay thám tử tìm hiểu được thêm thông tin gì về ý định của Emma.

Ngay trước khi Mitchell ra về để bắt tàu quay lại Temple Meats, anh ta nói với Hugo rằng máy bay ném bom Đức đã san phẳng phố Broad. Hugo không thể hiểu nổi tại sao chuyện đó lại có thể có gì đáng quan tâm với ông ta, cho tới khi Mitchell nhắc với Hugo rằng đó chính là nơi tiệm trà Tilly’s từng tọa lạc. Tay thám tử nghĩ ông Barrington cần phải biết có vài nhà thầu xây dựng đã bắt đầu ngỏ ý quan tâm tới địa điểm quán trà cũ của bà Clifton. Hugo cảm ơn Mitchell về thông tin này, tỏ vẻ không có chút quan tâm thực sự nào tới thông tin này.

Hugo gọi điện thoại cho ông Prendergast tại ngân hàng National Provincial ngay khi ông ta quay về đến Quảng trường Lowndes.

“Tôi đã trông đợi ngài sẽ gọi về việc phố Broad,” là những lời đầu tiên của ông giám đốc ngân hàng.

“Vâng, tôi nghe nói là địa điểm quán trà Tilly’s có thể được đem rao bán.”

“Cả con phố đều được rao bán sau trận ném bom,” Prendergast nói. “Phần lớn các chủ cửa hàng đều đã mất kế sinh nhai, và vì đây là một hành động chiến tranh, họ không thể làm đơn yêu cầu bảo hiểm bồi thường được.”

“Vậy là tôi có thể mua địa điểm quán trà Tilly’s với giá phải chăng?”

“Thành thực mà nói, ông có thể mua được cả con phố với giá gần như cho không. Trên thực tế, nếu ông có bất cứ khoản tiền mặt nào rảnh rỗi, ông Barrington, tôi sẽ khuyến cáo vụ này như một vụ làm ăn khôn ngoan.”

“Đó là giả thiết rằng chúng ta sẽ thắng cuộc chiến này,” Hugo nhắc ông ta.

“Tôi thừa nhận đây quả là một canh bạc, song nó có thể đem đến một khoản thu nhập đáng kể.”

“Chúng ta đang bàn về một món tiền khoảng bao nhiêu nhỉ?”

“Về địa điểm của bà Clifton, tôi nghĩ tôi có thể đề nghị bà ấy chấp nhận giá hai trăm bảng. Thực ra, vì một nửa những người buôn bán trên con phố đó giao dịch với ngân hàng của tôi, tôi cho rằng ngài có thể mua trọn cả khu với chừng ba nghìn bảng. Nó chẳng khác gì chơi xúc xắc với một quân xúc xắc đã đổ chì.”

“Tôi sẽ cân nhắc vụ này,” Hugo nói trước khi dập máy. Điều ông ta không thể nói với Prendergast là ông ta cũng chẳng có lấy một đồng.

Hugo cố thử nghĩ ra cách nào đó để xoay được khoản tiền, khi tất cả các mối quen biết hay giao du đều không sẵn sàng cho ông ta vay cho dù chỉ năm bảng. Ông ta không thể hỏi xin Olga thêm tiền nữa, trừ khi ông ta sẵn lòng sánh bước bên cô đến ban thờ Chúa, và dứt khoát chuyện đó không thể xảy ra.

Thậm chí hẳn ông ta cũng không buồn nghĩ ngợi gì thêm về chuyện mua bán này nữa nếu không tình cờ gặp Toby Dunstable trong một bữa tiệc của Archie.

Toby và Hugo từng là bạn học ở Eton. Hugo không còn nhớ được nhiều về Dunstable, ngoại trừ chuyện anh ta thường xuyên trộm tiền của những cậu học sinh nhỏ tuổi hơn. Khi cuối cùng anh ta bị bắt quả tang đang xoáy một tờ mười shilling từ trong ngăn tủ của một cậu học sinh khác, tất cả mọi người đều cho rằng anh ta sẽ bị đuổi học, và rất có thể đã như vậy, nếu anh ta không phải là con trai thứ hai của bá tước Dunstable.

Khi Hugo hỏi Toby hiện tại anh ta đang làm gì, anh này nói khá mơ hồ rằng mình làm ăn về bất động sản. Hugo nói với anh ta về cơ hội đầu tư đang hiện hữu tại phố Broad, nhưng anh chàng kia có vẻ không mấy hào hứng. Trên thực tế, Hugo không thể không nhận thấy Toby không hề rời mắt khỏi sợi dây chuyền kim cương lấp lánh quanh cổ Olga.

Toby đưa tấm danh thiếp cho Hugo, và nói, “Nếu có lúc nào đó cậu cần tiền mặt ngay, chuyện đó sẽ không khó nếu cậu tìm đến tôi, bạn cũ thân mến.”

Hugo hiểu được ý Toby muốn nói, nhưng không thực sự coi trọng đề nghị đó, cho tới khi Olga hỏi ông ta vào một buổi sáng trong bữa ăn liệu đã có ngày chính thức cho việc xử ly hôn chưa. Hugo cam đoan với cô rằng chuyện đó đã cận kề.

Ông ta rời khỏi nhà, đi thẳng tới câu lạc bộ quen của mình, lấy danh thiếp của Toby ra xem rồi gọi điện cho anh ta. Họ nhất trí hẹn gặp tại một quán rượu ở khu Fulham, tại đó hai người ngồi riêng ở một bàn trong góc, uống suất đúp rượu gin và huyên thuyên về chuyện đám lính trẻ của nước Anh đang xoay xở ở Trung Đông. Hai người chỉ thay đổi chủ đề khi biết chắc không bị nghe lén.

“Tất cả những gì tôi cần là chìa khóa căn hộ,” Toby nói, “và vị trí chính xác cô ta cất đồ trang sức.”

“Chuyện đó chắc không khó đâu,” Hugo cam đoan với người bạn học cũ.

“Điều duy nhất cậu sẽ phải làm, ông bạn, là đảm bảo cả hai người đều không có nhà đủ lâu để tôi thực hiện công việc.”

Khi Olga đề xuất trong bữa sáng rằng cô muốn đi xem một buổi diễn vở Rigoletto tại Sadler’s Wells66*, Hugo đồng ý đặt hai vé. Thường thì ông ta sẽ kiếm cớ thoái thác, nhưng lần này lại lập tức đồng ý, thậm chí còn gợi ý hai người sẽ cùng ăn tối tại khách sạn Savoy67*sau buổi diễn để ăn mừng.

“Ăn mừng gì cơ?” cô hỏi.

“Đề nghị ly hôn của anh đã được chấp nhận,” ông ta thủng thẳng nói. Cô dang tay ra ôm chầm lấy Hugo. “Chỉ sáu tháng nữa thôi, em yêu, và em sẽ là phu nhân Barrington.”

Hugo lấy một chiếc hộp nhỏ bọc da từ trong túi áo ra và cho cô xem một chiếc nhẫn đính hôn ông ta đã mua tại Burlington Arcade hôm trước với điều khoản cho phép trả lại hàng. Cô rất thích chiếc nhẫn. Hugo dự kiến sẽ trả lại nó trong sáu tháng nữa.

Vở nhạc kịch dường như kéo dài đến ba tháng thay vì ba giờ như công bố trong tờ chương trình. Tuy thế, Hugo vẫn không phàn nàn, vì ông ta biết Toby sẽ tận dụng tốt thời gian.

Trong bữa tối tại River Room68*, Hugo và Olga bàn nhau xem họ sẽ tận hưởng tuần trăng mật tại đâu, vì họ không thể ra nước ngoài. Olga thích Bath, một địa điểm hơi quá gần Bristol cho khẩu vị của Hugo, nhưng vì chuyến đi sẽ chẳng bao giờ diễn ra, ông ta hân hoan tán thưởng đề xuất của cô.

Trên tắc xi quay trở về Quảng trường Lowndes, Hugo tự hỏi sẽ mất bao nhiêu thời gian để Olga phát hiện ra những món trang sức kim cương của cô đã biến mất. Thực tế là sớm hơn ước tính của ông ta, vì ngay khi hai người mở cửa trước, họ trông thấy cả căn hộ đã bị khoắng sạch. Tất cả những gì còn lại trên các bức tường nơi trước kia các bức tranh từng được treo là những đường rìa nổi rõ cho biết kích thước của chúng.

Trong khi Olga gần như phát cuồng, Hugo nhấc điện thoại lên quay số 999. Cảnh sát phải mất vài giờ để thống kê hết những gì bị đánh cắp, vì Olga không thể giữ được đủ bình tĩnh để trả lời các câu hỏi của họ liên tục lâu hơn vài giây. Người chánh thanh tra phụ trách cuộc điều tra cam đoan với hai người là chi tiết về những đồ vật bị đánh cắp sẽ được thông báo tới tất cả các nhà chế tác và kinh doanh kim cương hàng đầu London trong vòng bốn mươi tám giờ tới.

Hugo nổi xung khi ông ta gặp lại Toby Dunstable tại Fulham chiều hôm sau. Tay bạn học cũ của ông ta bình thản đón nhận tất cả như một võ sĩ quyền Anh hạng nặng. Sau khi Hugo đã mệt phờ, Toby đẩy một hộp đựng giày qua mặt bàn.

“Tôi không cần một đôi giày mới,” Hugo hằn học.

“Có thể là không, nhưng cậu sẽ có thể mua hết cả một hiệu giày với những gì có trong đó,” anh ta vừa nói vừa gõ lên hộp.

Hugo nhấc nắp hộp lên và nhìn chằm chằm vào bên trong, vốn không có đôi giày nào hết, mà xếp đầy những tờ năm bảng Anh.

“Cậu không cần phải đếm làm gì,” Toby nói. “Cậu sẽ tìm thấy ở đây mười nghìn bảng.”

Hugo mỉm cười, đột nhiên bình thản trở lại. “Cậu là một tay bạn tốt,” ông ta nói trong khi đậy nắp hộp lại và gọi thêm hai suất đúp gin và sô đa nữa.

Mỗi tuần trôi qua, và cảnh sát không thể tìm ra bất cứ kẻ tình nghi nào, viên chánh thanh tra tỏ thái độ rõ ràng với Hugo rằng ông ta nghi ngờ đây là một vụ trộm có tay trong, một cách diễn đạt ông ta không ngừng lặp đi lặp lại mỗi khi hai người gặp nhau. Tuy vậy, Toby lại trấn an ông ta rằng người ta sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện bắt giữ con trai Sir Walter Barrington, trừ khi họ có bằng chứng rõ ràng đủ để thuyết phục bồi thẩm đoàn về tội trạng của ông ta mà không còn chút nghi ngờ nào.

Olga vặn hỏi Hugo những bộ vét mới của ông ta có từ đâu và làm cách nào ông ta có thể cho phép mình sở hữu một chiếc Bugatti. Ông ta đưa cho cô xem sổ đăng ký chiếc xe, cho thấy nó được mua từ rất lâu trước khi họ gặp nhau. Điều Hugo không nói với cô là ông ta đã gặp may khi người buôn bán chiếc xe mà ông ta đã phải miễn cưỡng bán chiếc xe cho vẫn còn chưa bán nó cho ai khác.

Khi quãng thời gian sau đó quyết định ly hôn chính thức sẽ được cấp trôi dần đến kết thúc, Hugo bắt đầu chuẩn bị cái mà trong giới quân sự người ta vẫn gọi là chiến lược rút lui. Chính lúc đó Olga thông báo cô có một tin tuyệt vời muốn chia sẻ với ông ta.

Wellington từng có lần nói với một sĩ quan cấp dưới rằng lựa chọn thời điểm là sống còn, và Hugo là ai để có thể dám không tán thành người chiến thắng trận Waterloo, nhất là khi lời tiên tri của con người vĩ đại đó sắp được áp dụng với chính ông ta?

Ông ta đang đọc tờ The Times trong lúc ăn sáng, và nhìn thấy một bức ảnh của bố mình khi đọc tới phần đăng cáo phó. Ông ta cố tìm cách đọc hết những gì viết trên báo mà không để Olga phát hiện ra cuộc đời của cả hai người họ sắp sửa thay đổi.

Theo quan điểm của Hugo, tờ Thunderer đã dành cho bố ông ta một bài tiễn biệt khá hay, nhưng đoạn cuối cùng của bài cáo phó mới là đoạn làm ông ta quan tâm hơn cả. Sir Walter Barrington được thừa kế bởi người con trai duy nhất còn sống của ông, Hugo, người sẽ thừa kế tước vị.

Tuy nhiên, The Times lại không viết thêm vào, cùng tất cả tài sản đi kèm.

CHÚ THÍCH

55*1 shilling = 1/20 bảng Anh

56*Một khu thượng lưu giàu có ở trung tâm London.

57*Viết tắt của Geheime Staatspolizei, cảnh sát mật của Đức Quốc xã.

58*Pablo Picasso (1881 - 1973): họa sĩ nổi tiếng người Tây Ban Nha.

59*Henri Matisse (1869 - 1954): họa sĩ nổi tiếng người Pháp.

60*Gia tộc Do Thái, thiết lập một đế quốc ngân hàng trải rộng khắp châu Âu từ thế kỷ 18.

61*Dòng họ sở hữu ngân hàng Hambros Bank nổi tiếng có trụ sở tại London, do Carl Joachim Hambro thành lập tại London năm 1839. Ngân hàng này đã bị bán năm 1998.

62*Thủ đô Ba Lan.

63*Ga tàu hỏa tại Bristol.

64*Ga tàu hỏa tại London.

65*Sir Claude Auchinleck (1884 - 1981), thống chế lục quân Anh (từ 1946), người giải vây cho Tobruk tháng 11/1941.

66*Tên một nhà hát nằm trên Đại lộ Rosebery, London.

67*Tên một khách sạn sang trọng tại London.

68*Nhà hàng trong khuôn viên khách sạn Savoy.