← Quay lại trang sách

Chương 33

Tang lễ của Sir Walter được tổ chức tại nhà thờ St Mary’s Redcliffe, và vị chủ tịch quá cố của Công ty Hàng hải Barrington hẳn sẽ rất tự hào được thấy đông người đến dự buổi lễ đến vậy và được nghe những lời ngợi khen chân thành từ ngài Giám mục Bristol.

Sau tang lễ, những người tham dự lần lượt tới chia buồn cùng Sir Hugo trong khi ông này đứng ở cửa bắc nhà thờ cạnh mẹ mình. Ông ta có thể giải thích với những ai hỏi rằng con gái Emma của ông ta đang bị kẹt lại ở New York, cho dù không thể nói với họ vì sao cô lại tới đó, và cậu con trai Giles, đứa con đột nhiên làm ông ta tự hào một cách bất thường, đang bị giam giữ trong một trại tù binh Đức ở Weinsberg; thông tin mẹ ông ta vừa cho ông ta biết tối hôm trước.

Trong lễ tang, Lord Harvey và phu nhân, vợ cũ Elizabeth của Hugo cùng cô con gái Grace của họ đều ngồi trên hàng ghế đầu của nhà thờ, ở bên phía đối diện với bên Hugo ngồi. Tất cả họ đều nói lời phân ưu với bà quả phụ đang đau khổ, sau đó ra về mà không hề thừa nhận sự hiện diện của ông ta.

Maisie Clifton ngồi ở phía cuối nhà thờ, đầu cúi xuống trong suốt buổi lễ, và ra về không lâu sau khi ngài giám mục nói lời ban phước cuối cùng.

Khi Bill Lockwood, giám đốc điều hành của công ty Barrington bước tới bắt tay chủ tịch mới của ông và ngỏ lời chia buồn, tất cả những gì Hugo nói là, “Tôi muốn gặp ông tại phòng làm việc của tôi lúc chín giờ sáng mai.”

Ông Lockwood hơi cúi đầu.

Một bữa ăn nhẹ được tổ chức tại Barrington Hall sau tang lễ, và Hugo đi lại chào hỏi những người tới chia buồn, vài người trong số họ sắp được biết rằng họ sắp sửa mất việc tại công ty Barrington. Khi vị khách cuối cùng ra về, Hugo đi lên phòng ngủ của ông ta rồi thay đồ chuẩn bị ăn tối.

Ông ta bước vào phòng ăn, một cánh tay đỡ lấy bà mẹ. Sau khi bà đã ngồi xuống, ông ta ngồi vào chỗ của bố mình ở đầu bàn. Trong bữa ăn, những khi không có người làm nào đứng quanh đó, ông ta nói với mẹ mình rằng bất chấp những hiểu lầm của người bố, giờ đây ông ta đã thay đổi rất nhiều.

Ông ta tiếp tục trấn an bà mẹ rằng công việc của công ty sẽ luôn được đảm bảo, và ông ta có những kế hoạch thú vị cho tương lai của nó.

Vào lúc 9 giờ 23 phút sáng hôm sau, Hugo lái chiếc Bugatti của ông ta qua cánh cổng của bến tàu công ty Barrington lần đầu tiên sau hơn hai năm. Ông ta đậu xe vào chỗ đỗ xe của chủ tịch trước khi đi lên phòng làm việc của bố mình trước đây.

Khi ông ta bước ra khỏi thang máy ở lầu bốn, Hugo nhìn thấy Bill Lockwood đang đi đi lại lại dọc theo hành lang bên ngoài phòng làm việc của ông ta, một tập tài liệu đỏ đang kẹp trong tay. Nhưng Hugo vốn luôn định sẽ bắt ông này phải chờ đợi.

“Chúc một buổi sáng tốt lành, Hugo,” Lockwood vừa nói vừa bước tới.

Hugo bước qua ông này không buồn trả lời. “Chào cô, cô Potts,” ông ta nói với người thư ký cũ của mình như thể chưa từng vắng mặt. “Tôi sẽ cho cô biết khi nào tôi sẵn sàng để gặp ông Lockwood,” ông ta nói thêm trước khi bước vào phòng làm việc mới của mình.

Ông ta ngồi xuống bàn làm việc của bố mình - ông ta vẫn nghĩ về nó như thế, và thầm tự hỏi cảm giác ấy sẽ còn kéo dài bao lâu - rồi bắt đầu đọc tờ The Times. Từ khi người Mỹ và người Nga tham chiến, có thêm rất nhiều người bắt đầu tin vào chiến thắng của Đồng Minh. Ông ta đặt tờ báo xuống.

“Tôi sẽ gặp ông Lockwood bây giờ, cô Potts.”

Tay giám đốc điều hành bước vào phòng làm việc của chủ tịch với nụ cười trên mặt. “Chào mừng trở lại, Hugo,” ông này nói.

Hugo trừng mắt nhìn ông ta và nói, “Chủ tịch.”

“Xin lỗi ông, thưa chủ tịch,” người đàn ông đã làm việc trong hội đồng quản trị của công ty Barrington từ khi Hugo còn mặc quần đùi áo cộc vội nói.

“Tôi muốn ông cập nhật cho tôi về tình hình tài chính của công ty.”

“Dạ được, thưa chủ tịch.” Lockwood mở cặp tài liệu đỏ ông vẫn kẹp dưới nách ra.

Vì vị chủ tịch vẫn chưa mời ông ngồi nên ông vẫn tiếp tục đứng. “Bố ngài,” ông bắt đầu báo cáo, “đã cố gắng điều hành công ty một cách thận trọng qua những thời điểm sóng gió, và bất chấp một số bất lợi, trong đó không thể không kể đến việc bọn Đức đã liên tục tấn công bến tàu trong những trận oanh tạc hàng đêm của chúng vào giai đoạn đầu cuộc chiến, nhờ vào các hợp đồng ký với chính phủ, chúng ta đã vượt qua được cơn bão, nhờ vậy chúng ta sẽ ở một vị thế tương đối ổn khi cuộc chiến này kết thúc.”

“Không cần dông dài nữa,” Hugo nói, “hãy đi thẳng tới dòng cuối đi.”

“Năm vừa qua,” ông giám đốc điều hành nói tiếp, đồng thời lật một trang, “công ty tạo ra lợi nhuận ba mươi bảy nghìn bốn trăm bảng và mười shilling.”

“Chúng ta không thể quên mười shilling được, phải không nào?” Hugo hỏi.

“Đó luôn là quan điểm của bố ngài,” Lockwood nói, không hề nhận ra hàm ý mỉa mai của Hugo.

“Còn năm nay?”

“Kết quả nửa năm đầu cho thấy chúng ta đang ở vào vị thế thuận lợi để đạt bằng, thậm chí là còn vượt, kết quả năm ngoái.” Lockwood lật sang một trang nữa.

“Lúc này còn bao nhiêu chỗ còn trống trong hội đồng quản trị?” Hugo hỏi.

Việc thay đổi chủ đề làm Lockwood ngạc nhiên, ông buộc phải lật thêm vài trang nữa trước khi có thể trả lời. ”Còn ba chỗ trống, vì thật không may cả Lord Harvey, Sir Derek Sinclair và đại úy Havens đều từ chức kể từ sau cái chết của bố ngài.”

“Tôi rất mừng được biết như vậy,” Hugo nói. “Như thế tôi sẽ đỡ mất công phải sa thải họ.”

“Thưa ngài chủ tịch, tôi đoán ngài không muốn tôi ghi lại những cảm xúc đó trong bản ghi về cuộc gặp này chứ?”

“Tôi không quan tâm liệu ông có ghi hay không,” Hugo nói.

Người giám đốc điều hành cúi đầu.

“Và khi nào thì ông định nghỉ hưu nhỉ?” là câu hỏi tiếp theo của Hugo.

“Tôi sẽ bước sang tuổi sáu mươi sau vài tháng nữa, nhưng thưa chủ tịch, nếu ngài cảm thấy trong hoàn cảnh…”

“Hoàn cảnh nào?”

“Vì có thể nói ngài vừa ngồi chưa ấm chỗ vào vị trí này, tôi có thể sẵn lòng ở lại thêm một vài năm nữa.”

“Ông thật tận tâm,” Hugo nói, và ông giám đốc điều hành mỉm cười lần thứ hai trong buổi sáng hôm đó. “Nhưng làm ơn đừng gắng sức quá vì tôi. Với tôi hai tháng cũng là tốt rồi. Vậy thách thức lớn nhất chúng ta phải đương đầu hiện nay là gì?”

“Mới đây, chúng ta vừa tham gia dự thầu hợp đồng với chính phủ về việc cho hải quân thuê đội tàu thương mại của chúng ta,” Lockwood nói sau khi ông đã trấn tĩnh lại. “Chúng ta không phải là ứng viên sáng giá nhất, nhưng tôi nghĩ bố ngài đã tạo ra được một ấn tượng tốt về bản thân khi các thanh tra tới thăm công ty vào đầu năm nay, vì thế chúng ta sẽ được xem xét đến một cách nghiêm túc.”

“Khi nào chúng ta biết được kết quả?”

“Tôi sợ còn phải đợi một thời gian nữa. Các công chức dân sự không được tạo ra để có tốc độ cao,” ông nói thêm, tự cười với câu đùa của mình. “Tôi cũng đã chuẩn bị một số tài liệu thảo luận để ngài xem xét, như thế ngài sẽ được chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi trước khi ngài chủ trì cuộc họp hội đồng quản trị đầu tiên.”

“Tôi không định sẽ tổ chức nhiều cuộc họp hội đồng quản trị trong tương lai,” Hugo nói. “Tôi tin vào việc chỉ đạo từ tuyến đầu, đưa ra các quyết định và bảo vệ chúng. Nhưng ông có thể để lại các tài liệu thảo luận ở chỗ thư ký của tôi và tôi sẽ xem qua chúng khi có thời gian.”

“Sẽ như ý ngài, thưa chủ tịch.”

Chỉ giây lát sau khi Lockwood ra khỏi phòng làm việc của ông ta, Hugo đã bắt đầu hành động. “Tôi sẽ tới chỗ ngân hàng,” ông ta nói khi đi qua bàn làm việc của cô Potts.

“Tôi có cần gọi trước cho ông Prendergast để báo cho ông ấy biết ngài muốn gặp ông ấy không?” Cô Potts hỏi trong lúc hối hả chạy theo ông ta.

“Tất nhiên là không,” Hugo nói. “Tôi muốn làm cho ông ta bất ngờ.”

“Ngài còn muốn tôi làm gì nữa trước khi ngài quay lại không, Sir Hugo?” Cô Potts hỏi khi ông ta bước vào thang máy.

“Có đấy, hãy đảm bảo bảng tên trên cửa phòng tôi được thay trước khi tôi quay lại.”

Cô Potts quay lại nhìn lên cửa phòng làm việc. Dòng chữ Sir Walter Barrington, Chủ tịch được dát vàng.

Cửa thang máy đóng lại.

Trong khi Hugo lái xe vào trung tâm Bristol, ông ta cảm thấy vài giờ đầu trên cương vị chủ tịch của mình đã không thể nào diễn ra tốt hơn được. Cuối cùng thì mọi thứ quay về đúng quỹ đạo của nó. Ông ta đậu chiếc Bugatti của mình ở bên ngoài ngân hàng National Provincial trên phố Corn, cúi người xuống lấy ra một gói nhỏ mà ông ta đã để bên ghế hành khách.

Hugo thong thả bước vào ngân hàng, đi qua quầy lễ tân và hướng thẳng tới phòng làm việc của giám đốc điều hành, gõ nhẹ một lần lên cửa trước khi bước vào. Một ông Prendergast sững sờ kinh ngạc vội đứng bật dậy khi Hugo đặt một chiếc hộp đựng giày lên bàn làm việc của ông ta và ngồi xuống chiếc ghế đối diện.

“Tôi hy vọng mình không làm gián đoạn việc gì quan trọng,” Hugo nói.

“Tất nhiên là không rồi, Sir Hugo,” Prendergast nói, mắt nhìn chăm chăm vào hộp đựng giày. “Tôi luôn sẵn sàng phục vụ ngài bất cứ lúc nào.”

“Thật tốt được biết vậy, Prendergast. Sao ông không bắt đầu bằng việc cập nhật tình hình ở phố Broad cho tôi biết nhỉ?”

Ông giám đốc điều hành ngân hàng vội đi sang phía bên kia phòng làm việc, mở ngăn kéo một tủ đựng tài liệu và lấy ra một tập tài liệu dày, cầm nó đặt lên bàn. Ông ta lấy ra một số giấy tờ trước khi lên tiếng trở lại.

“À đây rồi,” cuối cùng ông ta nói. “Đây là thứ tôi đang tìm.”

Hugo đang sốt ruột gõ lên tay vịn ghế của ông ta.

“Trong số hai mươi hai hộ kinh doanh đã ngừng hoạt động ở phố Broad từ khi những trận ném bom bắt đầu, có mười bảy hộ đã đồng ý chấp nhận đề nghị của ngài ở mức hai trăm bảng hoặc ít hơn để chuyển nhượng quyền sở hữu, cụ thể có hàng hoa nhà Roland, hàng thịt nhà Bates, nhà Makepeace...”

“Còn bà Clifton thì sao? Bà ta đã chấp nhận lời đề nghị của tôi chưa?”

“Tôi e là chưa, Sir Hugo. Bà Clifton nói rằng bà ta sẽ không xem xét mức giá thấp hơn bốn trăm bảng, và chỉ cho ngài thời gian đến thứ Sáu tuần tới để chấp nhận đề nghị của bà ta.”

“Bà ta dám thế sao, chết tiệt. Được rồi, ông có thể nói với bà ta rằng hai trăm bảng là đề nghị cuối cùng của tôi. Người đàn bà đó chẳng bao giờ có lấy một xu dính túi, vì thế tôi không nghĩ chúng ta phải đợi thêm quá lâu trước khi bà ta trở nên biết điều.” Prendergast bật ra tiếng ho khẽ mà Hugo nhớ quá rõ.

“Nếu ngài thành công trong việc mua lại tất cả những bất động sản khác trên con phố trừ miếng đất của bà Clifton, bốn trăm bảng rất có thể rốt cuộc lại là một mức giá phải chăng.”

“Bà ta đang bày trò thôi. Tất cả những gì chúng ta phải làm là kiên nhẫn chờ đợi.”

“Nếu ngài nói vậy.”

“Tôi nói vậy đấy. Và dù thế nào đi nữa, tôi biết chính xác người thích hợp để thuyết phục mụ đàn bà Clifton này rằng sẽ là khôn ngoan nếu bà ta chịu ưng thuận cái giá hai trăm bảng.”

Prendergast không có vẻ thực sự bị thuyết phục, nhưng tự hài lòng với câu hỏi, “Còn việc gì khác tôi có thể giúp ngài được không?”

“Có đấy,” Hugo nói, mở nắp hộp đựng giày lên. “Ông có thể chuyển số tiền này vào tài khoản cá nhân của tôi và lập cho tôi một quyển séc mới.”

“Tất nhiên rồi, Sir Hugo,” Prendergast nói, đưa mắt nhìn vào bên trong hộp. “Tôi sẽ kiểm số tiền và lập hóa đơn cho ngài cùng một quyển séc.”

“Nhưng tôi sẽ cần lập tức rút ra một khoản, vì tôi đã để mắt tới một chiếc Lagonda V12.”

“Chiếc xe thắng cuộc ở Le Mans88*,” Prendergast nói, “nhưng vậy đấy, ngài luôn là một người tiên phong trong lĩnh vực đặc thù này.”

Hugo mỉm cười trong lúc ông ta đứng dậy.

“Hãy gọi cho tôi ngay khi bà Clifton hiểu ra hai trăm bảng là tất cả những gì bà ta sẽ có được.”

“Chúng ta vẫn còn đang tuyển dụng Stan Tancock chứ, cô Potts?” Hugo hỏi khi ông ta quay trở lại phòng làm việc.

“Vâng, Sir Hugo,” thư ký của ông ta trả lời, đi theo ông chủ tịch vào trong phòng. “Ông ta làm công nhân bốc xếp ở kho bến tàu.”

“Tôi muốn gặp anh ta ngay,” ông chủ tịch nói trong khi ngồi xuống sau bàn làm việc.

Cô Potts nhanh chóng ra khỏi phòng.

Hugo nhìn chằm chằm vào những tập tài liệu chồng cao trên mặt bàn làm việc mà ông ta cần phải đọc trước cuộc họp sắp tới của hội đồng quản trị. Ông ta hất mở bìa tập tài liệu trên cùng: một danh sách yêu cầu của công đoàn sau cuộc họp gần đây nhất của họ với quản lý công ty. Ông ta đang đọc tới yêu cầu thứ tư trong danh sách, hai tuần nghỉ phép được trả lương hàng năm, thì có tiếng gõ cửa.

“Tancock tới gặp ngài, thưa chủ tịch.”

“Cảm ơn cô, cô Potts. Cho anh ta vào.”

Stan Tancock bước vào phòng, bỏ chiếc mũ vải của ông ta ra và đứng trước bàn làm việc của chủ tịch.

“Ông muốn gặp tôi, ông chủ?” ông ta hỏi, trông có vẻ lo lắng. Hugo ngước mắt nhìn lên người công nhân bến tàu to bè, râu ria lởm chởm không cạo, với cái bụng bia khiến người ta không còn phải thắc mắc nhiều về việc phần lớn tiền lương của ông ta chui đi đâu vào một buổi tối thứ Sáu.

“Tôi có một việc cho ông, Tancock.”

“Vâng, ông chủ,” Stan nói, mặt trông có vẻ khấp khởi hy vọng.

“Việc này liên quan tới em gái ông, Maisie Clifton, và miếng đất cô ta sở hữu trên phố Broad, ở địa điểm trước đây của tiệm trà Tilly’s. Ông có biết gì về nó không?”

“Có, ông chủ, có người trả nó hai trăm bảng để mua miếng đất ấy.”

“Thật thế sao?” Hugo nói, lấy ví từ túi áo trong ra. Ông ta lấy một tờ năm bảng nhàu nhĩ để lên mặt bàn. Hugo nhớ lại cũng cái liếm môi và ánh mắt thèm thuồng đó lần gần đây nhất ông ta mua chuộc con người này. “Tancock, tôi muốn ông đảm bảo em gái ông chấp nhận đề nghị đó, mà không được nhắc đến việc tôi có can dự vào.”

Ông ta đẩy tờ bạc năm bảng tới phía trước.

“Không vấn đề gì,” Stan nói, không còn nhìn ông chủ tịch mà chỉ chăm chăm vào tờ năm bảng.

“Sẽ có một tờ nữa như thế,” Hugo nói, vỗ lên ví của ông ta, “vào ngày em ông ký hợp đồng.”

“Coi như việc đã xong, ông chủ.”

Hugo dửng dưng nói thêm, “Tôi rất lấy làm tiếc được biết chuyện xảy ra với cháu ông.”

“Tôi cũng chẳng thấy lạ mấy,” Stan nói. “Theo ý tôi, nó đã cố đi quá xa so với sức của nó.”

“Tôi nghe nói cậu ta được an táng ngoài biển.”

“Phải, hơn hai năm trước rồi.”

“Làm thế nào ông biết được?”

“Chẳng phải ông bác sĩ trên con tàu đến thăm em gái tôi là gì.”

“Và ông ta đã có thể xác nhận cậu Clifton đã được an táng ngoài biển?”

“Chắc chắn rồi. Thậm chí ông ta còn mang tới một lá thư từ một người bạn nào đó cùng ở trên tàu khi Harry chết.”

“Một lá thư?” Hugo nhô người ra trước. “Trong thư viết gì?”

“Tôi không biết, ông chủ. Maisie chưa bao giờ mở nó.”

“Vậy em ông làm gì với lá thư?”

“Nó vẫn ở trên bệ lò sưởi thôi.”

Hugo lấy ra thêm một tờ năm bảng nữa.

“Tôi muốn xem qua lá thư đó.”

CHÚ THÍCH

88*Cuộc đua”24 giờ Le Mans“là cuộc đua xe thể thao bắt đầu tổ chức từ năm 1923, đòi hỏi các xe tham dự phải hoạt động được liên tục 24 giờ trên đường đua mà không bị trục trặc.