← Quay lại trang sách

NGỌN HẢI ĐĂNG 1.

Vậy thì nó có nghĩa là gì, tất cả những thứ này có nghĩa là gì? Bị bỏ lại một mình, Lily Briscoe tự hỏi cô có nên đi xuống bếp để lấy một tách cà phê khác hay cứ chờ đợi ở đây. Nó có nghĩa là gì? - đó là một khẩu hiệu bắt gặp tình cờ từ một cuốn sách nào đó, đang lỏng lẻo gắn vào ý nghĩ của cô, vì trong buổi sáng đầu tiên này với gia đình Ramsay cô không thể cô đúc lại những cảm giác của mình mà chỉ có thể làm vang lên một cụm từ để phủ kín khoảng trống trong tâm trí cô cho tới khi những tưởng tượng hảo huyền này co lại. Vì thật sự cô đã cảm thấy gì khi quay trở lại sau bấy nhiêu năm qua và bà Ramsay thì đã chết? Không gì cả, không gì cả - cô không thể diễn tả được bất cứ điều gì.

Cô đã tới muộn đêm qua khi tất cả đều bí ẩn, tối tăm. Giờ thì cô đã tỉnh thức, ngồi ở chỗ cũ của mình bên chiếc bàn điểm tâm, nhưng chỉ một mình. Trời cũng còn sớm lắm, chưa tới tám giờ. Sẽ có cuộc hành trình - họ sẽ đi ra ngọn hải đăng, ông Ramsay, Cam và James. Lẽ ra họ nên đi rồi mới phải - họ phải bắt kịp thủy triều hay thứ gì đó. Cam chưa chuẩn bị sẵn sàng James cũng chưa chuẩn bị, Nancy quên đặt mua bánh sandwitch, còn ông Ramsay thì nổi cáu lên và đã đùng đùng bỏ ra khỏi phòng.

“Đi bây giờ thì có ích gì chứ?” ông ấy đã quát lên.

Nancy đã biến mất. Ông ấy kia rồi, đang đi qua lại trước hiên nhà trong cơn thịnh nộ. Dường như người ta có thể nghe thấy tiếng những cánh cửa đóng sầm lại và những giọng nói đang kêu gọi trong khắp ngôi nhà. Ngay lúc đó Nancy lao vào, nhìn quanh với một vẻ lạ lùng pha lẫn giữa sự bàng hoàng và tuyệt vọng, “Phải gửi cái gì ra ngọn hải đăng đây?” như thể cô ta đang ép buộc mình làm một điều mà cô ta chẳng mong gì có thể thực hiện được.

Thật ra thì người ta phải gửi cái gì ra ngọn hải đăng! Vào bất kỳ lúc nào khác Lily hẳn có thể đề nghị một cách hợp lý các thứ như trà, thuốc lá và những tờ báo. Nhưng dường như sáng nay mọi thứ đều kỳ quặc khác thường đến nỗi một câu hỏi như câu hỏi của Nancy - Phải gửi cái gì ra ngọn hải đăng? - cũng mở tung những cánh cửa tâm trí đang đu đưa qua lại và khiến cho người ta cứ phải hỏi một cách ngớ ngẩn, Phải gửi cái gì đây? Phải làm cái gì đây? Nói cho cùng, vì sao người ta lại ngồi ở đây chứ?

Ngồi một mình (vì Nancy lại đã đi ra ngoài) giữa những ly tách sạch sẽ trên cái bàn dài, cô cảm thấy bị cắt lìa khỏi những người khác, và chỉ có thể tiếp tục ngắm nhìn, tự hỏi. Ngôi nhà này, nơi chốn này, buổi sáng này, tất cả dường như đều xa lạ đối với cô. Cô cảm thấy ở đây cô chẳng có mối gắn bó nào, chẳng có một mối liên quan nào với nó, bất cứ điều gì có thể xảy ra, và bất cứ điều gì đã xảy ra, một bước chân ở bên ngoài, một giọng nói cất lên (“Nó không có ở trong tủ, nó nằm ở đầu cầu thang,” ai đó đang kêu lên) đều là một câu hỏi, như thể mối liên kết thường ngày ràng buộc mọi sự vật lại với nhau đã bị cắt đứt, và chúng bị trôi giạt bềnh bồng khắp nơi này nơi khác. Thật vô mục đích, thật hỗn độn, thật phi thực tế, cô vừa nghĩ vừa nhìn vào tách cà phê đã cạn. Bà Ramsay đã chết; Andrew đã bị giết chết; Prue cũng đã chết - dù cô lặp lại mãi, những điều này cũng không gợi lên trong cô một cảm giác nào. Và tất cả chúng tôi đã tề tựu với nhau trong một ngôi nhà như thế này, vào một buổi sáng như thế này, cô nói, nhìn ra ngoài cửa sổ. Đó là một ngày đẹp trời yên tĩnh.

Đột nhiên ông Ramsay ngẩng đầu lên khi bước ngang qua và nhìn thẳng vào cô với tia mắt dại cuồng của một kẻ quẫn trí thế nhưng rất sắc sảo, như thể ông ta đã nhìn thấy bạn, trong một giây, lần đầu tiên, mãi mãi; và cô vờ như đang uống tách cà phê đã cạn của mình để trốn khỏi ánh mắt của ông ta - để thoát khỏi sự đòi hỏi của ông ta, để gạt sang bên thêm giây lát nữa cái nhu cầu khẩn thiết ấy. Ông ta lắc đầu với cô, và bước tiếp (“Đơn độc,” cô nghe ông ta nói, “bỏ mạng,” cô nghe ông ta nói) và hệt như mọi thứ khác trong buổi sáng lạ lùng này, những lời đó trở thành những biểu tượng, tự viết chúng ra trên khắp những bức tường xanh xám. Giá mà cô có thể đặt chúng lại bên nhau, cô cảm thấy, viết chúng ra thành một câu nào đó, hẳn cô sẽ có thể đi tới chân lý của mọi sự vật. Ông già Carmichael nhẹ nhàng bước vào phòng, lấy cà phê cho mình, rồi lại cầm tách cà phê đi ra ngoài để ngồi trong ánh nắng. Sự phi thực tế thật đáng sợ; nhưng nó cũng vô cùng phấn khích. Sẽ đi ra ngọn hải đăng. Nhưng người ta phải gửi cái gì ra ngọn hải đăng? Bỏ mạng. Đơn độc. Ánh đèn xanh xám trên bức tường đối diện. Những khoảng không gian trống vắng. Những thứ này là một số thứ trong các bộ phận, nhưng làm sao để gắn chúng lại với nhau? cô tự hỏi. Như thể bất cứ một sự gián đoạn nào đó cũng có thể phá vỡ cái hình dáng mong manh mà cô đang xây dựng trên chiếc bàn, cô quay lưng về phía cửa sổ để ông Ramsay không nhìn thấy mặt cô. Cô phải chạy trốn tới một nơi nào đó, được yên thân ở một nơi nào đó. Đột ngột cô sực nhớ ra. Cách đây mười năm trước, khi cô đang ngồi đó đã từng có một hình vẽ nhánh cây hay chiếc lá trên tấm khăn trải bàn, và cô đã nhìn nó trong một khoảnh khắc mang tính phát hiện. Đã từng có một rắc rối về cảnh nền phía trước của một bức tranh. Phải dời cái cây vào giữa, cô đã nói thế. Cô đã chẳng bao giờ hoàn thành bức tranh đó. Cô sẽ vẽ bức tranh đó ngay bây giờ. Nó đã khuấy động tâm trí cô suốt bao năm qua. Những bức tranh của cô ở đâu? cô tự hỏi. Phải, những bức tranh của cô. Đêm qua cô đã để chúng lại trong sảnh. Cô sẽ bắt tay vào việc ngay lập tức. Cô nhanh nhẹn đứng lên, trước khi ông Ramsay quay lại.

Cô tự lấy cho mình một cái ghế đẩu. Cô cắm cái giá vẽ lên rìa bãi cỏ, không quá gần chỗ ông Carmichael, với những cử động chính xác của một cô gái già. Phải, mười năm trước cô cũng đã đặt cái giá vẽ chính xác ở chỗ này. Kia là bức tường; hàng giậu, thân cây. Vấn đề là một mối quan hệ nào đó giữa những khối hình đó. Cô đã cưu mang nó trong tâm trí suốt bấy nhiêu năm qua. Dường như giải pháp cho cô đã xuất hiện rồi; giờ đây cô biết cô muốn làm gì.

Nhưng với ông Ramsay đang đi về phía cô, cô không thể làm gì cả. Mỗi lần ông ta tới gần - ông ta đang đi qua lại trước sân hiên - sự đổ vỡ tới gần, sự hỗn độn tới gần. Cô không thể vẽ. Cô khom người xuống, cô quay lưng đi; cô nhặt miếng giẻ này lên; cô nặn ống màu kia ra. Nhưng tất cả những gì cô làm đều nhằm mục đích né tránh ông ta trong giây lát. Ông ta khiến cô chẳng thể làm được việc gì hết. Vì nếu cô cho ông ta một cơ hội nhỏ nhất, nếu ông ta thấy cô rảnh rang trong giây lát, nhìn về phía ông trong giây lát, ông ta sẽ tới gần cô, thốt lên, như ông ta đã nói đêm qua, “Cô sẽ thấy chúng tôi đã đổi thay nhiều.” Đêm qua ông ta đã đứng lên, dừng lại trước mặt cô, và nói như thế. Tất cả bọn chúng ngồi, nhìn đăm đăm và câm lặng, sáu đứa trẻ mà họ từng gọi là những vị vua và những hoàng hậu của nước Anh - Đỏ, Xinh, Xấu tính, Tàn nhẫn - cô cảm thấy chúng giận dữ thế nào dưới lớp vỏ lặng im đó. Bà già Beckwith tốt bụng đã nói một câu gì đó hợp tình hợp cảnh. Nhưng đó là một ngôi nhà chứa đầy những niềm đam mê không có chút dây mơ rễ má gì với nhau - cô đã cảm nhận điều đó suốt buổi chiều tối. Và trên chóp đỉnh của sự hỗn độn này ông Ramsay đã đứng lên, cầm chặt tay cô và nói: “Cô sẽ thấy chúng tôi đã đổi thay nhiều” và chẳng ai trong số chúng nhúc nhích hay nói gì; mà chỉ ngồi đó như thể chúng buộc phải để cho ông ta nói thế. Chỉ có James (hẳn nhiên là Kẻ hay sưng sỉa) cau mày nhìn ngọn đèn dầu; còn Cam thì cuộn chiếc khăn tay quanh ngón tay nó. Rồi ông ta nhắc chúng rằng ngày mai họ sẽ đi ra ngọn hải đăng. Chúng phải có mặt sẵn sàng, trong sảnh, vào lúc bảy giờ ba mươi. Rồi khi đã đặt tay lên cửa ông ta dừng lại; ông ta quay sang chúng. Chúng có muốn đi không? ông ta hỏi. Nếu chúng dám bảo rằng Không (ông ta có một lý do nào đó để mong muốn điều đó) hẳn ông ta sẽ tự gieo người một cách bi thảm về phía sau, vào lòng nước đắng của nỗi niềm tuyệt vọng. Ông ta rất có tài với kiểu đóng kịch như thế. Trông ông ta giống như vị vua bị lưu đày. James nói Có một cách gan lỳ. Cam ấp úng một cách khốn khổ. Vâng, ồ, vâng, cả hai đứa chúng nó sẽ sẵn sàng, chúng nói. Và điều này khiến cô thấy khó chịu, chính đây mới là một tấn thảm kịch - chứ không phải những tấm vải liệm, cát bụi, áo tang; nhưng trẻ con bị ép buộc, tinh thần chúng yếu mềm. James mười sáu tuổi, còn Cam, mười bảy, có lẽ thế. Cô đã nhìn quanh tìm một ai đó không có mặt, có lẽ là bà Ramsay. Nhưng chỉ có bà Beckwith tốt bụng đang lật những bức phác họa của cô dưới ánh đèn. Thế rồi, mệt mỏi, tâm trí cô vẫn tiếp tục dâng lên hạ xuống cùng biển cả, những mùi vị của những nơi chốn đó sau cuộc vắng mặt dài xâm chiếm lấy cô, những cây nến lung linh trong mắt cô, cô đã đánh mất bản thân và đi xuống dưới nhà. Đó là một đêm tuyệt diệu, đầy sao sáng; tiếng sóng nổi lên khi họ đi lên thang gác; vầng trăng to lớn xanh xao làm họ ngạc nhiên khi họ đi qua cửa sổ cầu thang. Cô đã ngủ thiếp đi ngay lập tức.

Cô gắn chặt tấm vải sạch vào khung vẽ, như một tấm chắn, mong manh, nhưng cô hy vọng đủ sức mạnh vật chất để tránh khỏi ông Ramsay và sự đòi hỏi của ông ta. Cô gắng hết sức nhìn vào bức tranh của mình khi ông ta quay lại; cái đường nét đằng kia, cái hình khối đằng kia. Nhưng đó không phải là vấn đề. Cứ mặc cho ông ta ở cách đó năm mươi bộ, cứ mặc cho ông ta không nói gì với bạn, cứ mặc cho ông ta thậm chí không nhìn thấy bạn, ông ta trải lan, ông ta thắng thế, ông ta ép buộc. Ông ta thay đổi mọi thứ. Cô không thể nhìn thấy màu sắc; cô không thể nhìn thấy những đường nét; thậm chí khi ông ta quay lưng về phía cô, cô chỉ có thể nghĩ, Nhưng ông ta sẽ đi xuống chỗ mình trong khoảnh khắc, và đòi hỏi - một điều gì đó mà cô cảm thấy cô không thể cho ông ta được. Cô vứt bỏ một cây cọ, cô chọn một cây khác. Chừng nào lũ trẻ mới ra tới? Chừng nào tất cả bọn họ lên đường? cô bồn chồn. Người đàn ông đó, cô nghĩ, cơn giận bùng lên trong lòng, không bao giờ cho đi, người đàn ông đó chỉ lấy từ kẻ khác. Mặt khác, cô buộc phải cho đi. Bà Ramsay đã cho đi. Cho đi, cho đi, cho đi, bà ấy đã qua đời - và đã để lại tất cả những chuyện này. Thật sự, cô đang nổi giận với bà Ramsay. Với chiếc cọ đang run khẽ trong mấy ngón tay cô nhìn hàng giậu, bậc thềm, bức tường. Đó là tất cả những gì bà Ramsay đã tạo dựng. Bà ấy đã qua đời. Còn đây là Lily, bốn mươi tư tuổi, đang lãng phí thời gian của mình, không thể làm được một điều gì, đứng đó, chơi đùa với công việc vẽ vời, chơi đùa với một thứ mà người ta không buồn rớ tới, và tất cả đều là lỗi của bà Ramsay. Bà ấy đã chết. Bậc thềm mà bà ấy thường ngồi trống rỗng. Bà ấy đã chết.

Nhưng vì sao cứ lặp đi lặp lại điều này mãi thế? Vì sao cứ luôn phải cố gắng mang lại một cảm giác nào đó mà cô chưa từng có? Trong việc này có một cái gì đó đầy báng bổ.

Tất cả đều khô cằn: tất cả đều héo úa: tất cả đã được sử dụng. Lẽ ra họ không nên mời cô; lẽ ra cô không nên tới. Người ta không thể lãng phí thời gian ở cái tuổi bốn mươi tư, cô nghĩ. Cô ghét chơi đùa với công việc vẽ tranh. Một chiếc cọ, một vật rất phụ thuộc trong một thế giới đầy xung đột, điêu tàn, hỗn độn - là thứ mà người ta không chơi đùa với nó, thậm chí một cách cố tình: cô ghét cay ghét đắng nó. Nhưng ông ta đã ép cô. Cô sẽ không chạm tới tấm vải của mình, dường như ông ta nói thế khi đang hướng về phía cô, cho tới khi cô cho tôi điều mà tôi muốn ở cô. Ông ta đây rồi, một lần nữa tới gần sát cô, một cách tham lam, điên cuồng. Được, Lily nghĩ trong nỗi tuyệt vọng, buông thỏng bàn tay phải xuống hông, sẽ đơn giản hơn khi cứ để mặc cho nó trôi qua. Chắc chắn cô có thể mô phỏng từ ký ức cái ánh sáng rạng rỡ, sự hân hoan vô bờ bến, sự tự đầu hàng mà cô từng nhìn thấy trên gương mặt của rất nhiều người phụ nữ (chẳng hạn, trên nét mặt của bà Ramsay) khi chúng sáng bừng lên trong một trạng thái mê ly của niềm đồng cảm, của niềm vui đối với sự tưởng thưởng mà họ nhận được vào một dịp như thế này - cô có thể nhớ vẻ mặt của bà Ramsay - dù cô không thể hiểu nguyên nhân của nó, rõ ràng nó đã trao tặng cho họ niềm hạnh phúc tối cao nhất mà bản chất con người có thể dung nạp. Ông ta đây rồi, đang dừng lại bên cạnh cô. Cô sẽ cho ông ta thứ mà cô có thể.

2.

Dường như cô đã khẽ nhăn mặt, ông nghĩ. Trông cô hơi èo uộc, gầy gò, nhưng không phải không hấp dẫn. Ông thích cô. Trước kia đã có đôi câu chuyện gẫu về việc kết hôn giữa cô và William Bankes, nhưng rồi chẳng có gì xảy ra cả. Vợ ông rất mến cô. Ông cũng đã hơi nổi cáu chút ít vào bữa điểm tâm. Thế rồi, thế rồi - đây là một trong những khoảnh khắc khi mà một nhu cầu vô thức lớn lao thúc giục ông tới gần bất kỳ một người phụ nữ nào, để buộc họ, ông không quan tâm bằng cách nào, nhu cầu của ông quá lớn, trao cho ông cái mà ông muốn: sự cảm thông.

Có ai đó chăm sóc cho cô không? ông nói. Cô có mọi thứ cô muốn hay không?

“Ồ, cám ơn, có mọi thứ,” Lily đáp một cách bồn chồn. Không; cô không thể làm được điều đó. Lẽ ra cô nên thoát ngay lập tức ra khỏi một làn sóng đòi hỏi sự cảm thông đang rộng mở nào đó: áp lực lên cô quá lớn. Nhưng cô đã bị mắc kẹt lại. Có một khoảnh khắc tạm dừng đáng sợ. Cả hai cùng nhìn ra biển. Vì sao cô ta lại nhìn ra biển khi mình đang ở đây, ông Ramsay nghĩ. Cô hy vọng trời sẽ lặng để họ có thể đặt chân lên ngọn hải đăng, cô nói. Ngọn hải đăng! Ngọn hải đăng! Nó thì có dính dáng gì tới điều này? ông nghĩ một cách nôn nóng. Ngay lúc đó, với sự thôi thúc của một ngọn lửa bản năng (vì thật sự ông không thể kềm chế bản thân thêm nữa), từ ông bật ra một tiếng rên khiến bất kỳ một phụ nữ nào trên khắp thế gian này đều phải làm một điều gì đó, phải nói một điều gì đó - tất cả, ngoại trừ chính bản thân tôi, Lily nghĩ, tự giễu mình một cách cay đắng, tôi không phải là một phụ nữ mà là một mụ gái già khô héo, xấu tính, cau có, cứ cho là thế.

[Ông Ramsay thở dài hết mực. Ông chờ đợi. Chẳng lẽ cô ta không nói gì sao? Chẳng lẽ cô ta không thấy cái mà ông muốn ở cô ta sao? Rồi ông nói rằng ông có một lý do đặc biệt khi muốn đi ra ngọn hải đăng. Vợ ông thường gửi cho những người ở đó những thứ đồ dùng. Có một thằng bé tội nghiệp bị mắc lao hạch ở hông, con trai của người gác hải đăng. Ông thở dài một cách thâm trầm. Ông thở dài một cách đầy ý nghĩa. Tất cả những gì Lily muốn là dòng nước lũ khổ đau này, cơn đói khát vô độ đối với sự cảm thông này, sự đòi hỏi cô phải hoàn toàn tự đầu hàng ông ta này - và thậm chí khi đó ông ta cũng có đủ những nỗi buồn để buộc cô phải cung ứng mãi - sẽ lìa bỏ cô, sẽ chệch sang hướng khác (cô vẫn tiếp tục nhìn về phía ngôi nhà, hy vọng có một sự can thiệp) trước khi nó cuốn trôi cô theo dòng chảy của nó.

“Những chuyến đi như thế,” ông Ramsay nói, đưa ngón chân cái di di lên mặt đất, “rất chi là cực nhọc.” Lily vẫn không nói gì. (Cô ta là một gốc cây, cô ta là một tảng đá, ông tự nhủ với mình.) “Chúng rất đỗi mệt mỏi,” ông nói và nhìn, với một ánh nhìn yếu ớt, vào đôi bàn tay đẹp của mình, khiến cô thấy buồn nôn (ông ta đang đóng kịch, cô cảm thấy, cái con người vĩ đại này đang diễn xuất). Thật là kinh khủng, thật là sỗ sàng. Bọn trẻ sẽ không bao giờ đến hay sao, cô tự hỏi, vì cô không thể gánh chịu nổi gánh nặng buồn thương to lớn này, không thể chống đỡ nổi những tầng tầng lớp lớp khổ đau trĩu nặng này thêm một phút giây nào nữa (ông ta đã khoác lên một bộ tịch cực kỳ bi đát; thậm chí ông ta còn hơi lảo đảo một chút khi đứng đó.)

Cô vẫn không thể nói được gì; dường như toàn bộ chân trời đã quét đi sạch trơn những đối tượng để nói; cô chỉ có thể cảm nhận, một cách kinh ngạc, khi ông Ramsay đứng đó, rằng cái nhìn chăm chú của ông ta dường như đã rơi một cách buồn thảm ra sao lên lớp cỏ ngập nắng và làm cho nó bạc màu đi, và buông trùm một lớp màn nhiễu đen lên trên hình dáng hồng hào, gà gật và hoàn toàn thỏa mãn của ông Carmichael, người đang đọc một cuốn tiểu thuyết Pháp trên một cái ghế xếp, như thể một sự tồn tại đang phô trương những phong dật của nó như thế trong một thế giới đau thương đủ để khơi gợi lên những ý nghĩ ảm đạm nhất. Cô nhìn ông ta, dường như ông đang nói, hãy nhìn tôi đây này; và thật ra, trong suốt thời gian đó ông đang cảm thấy, Hãy nghĩ tới tôi, hãy nghĩ tới tôi. Ôi chao, giá mà cái thân hình to lớn đó có thể lướt qua chỗ họ, Lily ao ước; giá mà lúc nãy cô chỉ cắm cái giá vẽ của mình cách ông ấy chừng một hai thước Anh thôi; một người đàn ông, bất kỳ người đàn ông nào, phải khống chế sự tuôn trào này, ngăn chặn những lời than van này. Là một phụ nữ, cô đã khơi gợi ra cảnh tình kinh khủng này; là một phụ nữ, lẽ ra cô phải biết cách xử lý nó. Thật là mất thể diện, về mặt giới tính, khi cứ đứng đó lặng câm. Người ta nói - người ta đã nói gì nhỉ? - Ồ, ông Ramsay! Ông Ramsay thân mến! Đó là điều mà mẫu người như vị phu nhân già Beckwith sẽ nói ngay lập tức, một cách hợp tình hợp cảnh. Nhưng, không. Họ đứng đó, tách biệt khỏi phần còn lại của thế gian. Cảm xúc thương thân trách phận mênh mông của ông ta và sự đòi hỏi được cảm thông của ông ta đổ tuôn và trải rộng ra trong những vũng nước dưới chân họ, và tất cả những gì cô đã làm, cô là một kẻ tội lỗi đáng thương, là kéo mép váy của mình sát hơn vào hai mắt cá chân để không bị ướt. Cô đứng đó trong lặng im tuyệt đối, nắm chặt cây cọ vẽ của mình.

Không thể nào có đủ lời để ca tụng đất trời! Cô nghe thấy có tiếng ồn trong nhà. Hẳn là James và Cam sắp ra tới. Nhưng, như thể biết rằng thời gian của mình đang thu ngắn lại, ông Ramsay cố trút lên hình dáng lẻ loi của cô cái áp lực lớn lao của nỗi đau đã tập trung lại của ông; tuổi tác của ông; sự mong manh yếu đuối của ông; sự cô quạnh của ông. Đột nhiên, đang lắc lắc đầu một cách nôn nóng trong cơn bực dọc - vì nói cho cùng, người phụ nữ nào có thể cưỡng lại ông? - ông nhận ra rằng dây ủng của ông chưa cột lại. Đó là một đôi ủng đáng chú ý, Lily nghĩ, nhìn xuống chúng: có những hình chạm khắc, to lớn; như mọi thứ ông Ramsay mang khoác trên người, từ chiếc cà vạt mòn xơ xác cho tới cái áo khoác chỉ còn phân nửa số nút, hiển nhiên là của chính ông ta. Cô có thể nhìn thấy chúng bước vào phòng ông ta, thể hiện sự bi ai, cáu kỉnh, xấu tính, mê hoặc, trong khi ông vắng mặt.

“Một đôi ủng thật đẹp!” cô kêu lên cảm thán. Cô thấy xấu hổ với chính mình. Ca ngợi đôi ủng của ông ta trong khi ông ta yêu cầu cô an ủi linh hồn của mình; khi ông ta đã đưa ra cho cô thấy đôi bàn tay rướm máu, trái tim tan nát của ông ta, và van cầu cô thương hại chúng, cô lại thốt lên một cách vui vẻ, “A, nhưng ông mang một đôi ủng thật đẹp!” Xứng đáng, cô biết, và cô ngẩng lên, mong đợi sẽ nhận được một tiếng gầm đột ngột đầy cáu gắt.

Thay vì thế, ông Ramsay mỉm cười. Những lớp vải liệm áo tang, những nét yếu đuối đã rơi xuống khỏi ông. À, phải, ông ta nói, đưa chân lên cho cô nhìn, chúng là loại ủng hạng nhất. Cả nước Anh chỉ có một người làm ra những đôi ủng như thế này. Những chiếc ủng nằm trong số những lời nguyền rủa chính của nhân loại, ông ta nói. ‘Những người thợ làm ủng cho rằng công việc của họ là hành hạ và làm què quặt đôi chân của người ta,” ông cảm thán. Họ cũng là những con người ngoan cố và bảo thủ nhất. Ông ta đã mất một phần tốt đẹp nhất trong tuổi trẻ của mình để giúp cho những đôi ủng được làm ra đúng như nên được làm. Ông ta muốn cô nhận xét rằng (ông ta nhấc bàn chân phải rồi bàn chân trái của mình lên) cô chưa bao giờ nhìn thấy những đôi ủng may theo hình dạng đó. Chúng cũng được làm bằng loại da tốt nhất thế giới. Hầu hết da giày đều chỉ là giấy nâu và bìa cứng. Ông ta nhìn một cách mãn nguyện xuống một bàn chân, vẫn còn giơ lơ lửng trong không khí. Cô cảm thấy chúng đã từng tới một hòn đảo tràn ánh nắng nơi thanh bình cư ngụ, sự sáng suốt ngự trị và mặt trời chiếu sáng mãi mãi, hòn đảo hạnh phúc của những đôi ủng tốt. Tim cô ấm lên với ông ta. “Bây giờ để tôi xem cô có thể cột thắt nút hay không nhé,” ông ta nói. Ông ta phản bác cách cột yếu ớt của cô. Ông ta chỉ cho cô thấy phát kiến của chính ông ta. Khi cô đã cột dây rồi, nó không bao giờ bị sút ra. Ông thắt nút cho giày cô ba lần và tháo ra ba lần.

Vì sao chính vào khoảnh khắc hoàn toàn không thích đáng này, khi ông đang khom lưng xuống đôi giày của cô, cô bị dày vò với sự cảm thông ông ta đến nỗi cô cũng khom người xuống, máu dồn lên mặt cô, và khi nghĩ tới sự nhẫn tâm của mình (cô đã gọi ông ta là một diễn viên đang đóng kịch), cô lại thấy mắt mình rưng lệ? Dường như với cô ông ta là một con người thảm thương vô hạn. Ông ta thắt nút. Ông ta mua ủng. Ông ta chẳng nhận được sự trợ giúp nào trong cuộc hành trình sắp tới. Nhưng lúc này, khi cô muốn nói một điều gì đó, lẽ ra đã có thể nói một điều gì đó, Cam và James ra tới. Chúng xuất hiện trước sân hiên. Chúng tới, chậm rãi, sánh bước bên nhau, một đôi trẻ nghiêm trang, sầu muộn.

Nhưng vì sao chúng lại đi tới với cái vẻ như thế? Cô không thể không cảm thấy bực chúng; hẳn là chúng có thể tới một cách vui tươi hơn; chúng có thể cho ông ta cái mà bây giờ khi chúng xuất hiện cô sẽ không còn cơ hội để cho ông ta nữa. Vì cô cảm thấy một sự trống rỗng đột ngột; một tâm trạng thất vọng. Cảm nhận của cô đã đến quá muộn; nó đã sẵn sàng; nhưng ông ta không còn cần nó nữa. Ông đã trở thành một người đàn ông rất chững chạc, rất tôn quý, một người không cần gì ở cô hết. Cô cảm thấy mất mặt. Ông ta đeo một cái ba lô trên vai. Ông ta chia các gói ra - có một số gói được cột lại một cách sơ sài trong giấy nâu. Ông ta trao cho Cam một cái áo choàng. Ông ta có mọi dáng vẻ của một vị chỉ huy đang chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh. Thế rồi ông ta quay lưng dẫn đường với bước chân vững chắc đúng kiểu nhà binh, với đôi ủng tuyệt diệu đó và những cái gói bọc giấy nâu trên vai, đi xuống con đường mòn với bọn trẻ theo sau. Trông như thể định mệnh đã hiến dâng chúng cho một sự nghiệp trang nghiêm, và chúng lên đường, vẫn còn đủ trẻ để tuân theo sự dẫn dắt của cha chúng, một cách phục tùng, nhưng nét nhợt nhạt trong mắt chúng khiến cô cảm thấy rằng chúng đã im lặng gánh chịu một nỗi thống khổ nào đó vượt khỏi tuổi tác của chúng. Cứ thế họ đi qua lề bãi cỏ, và với Lily, dường như cô đang quan sát một đám diễu hành, được dẫn dắt bởi một áp lực cảm giác chung nào đó, khiến cho nó, dù chệch choạc và loạng choạng, vẫn là một nhóm người có ràng buộc với nhau và tạo cho cô một ấn tượng lạ lùng. Lịch sự, nhưng đầy khoảng cách, ông Ramsay giơ tay lên chào cô khi họ đi qua.

Một gương mặt lạ lùng, cô nghĩ, ngay lập tức nhận ra rằng niềm cảm thông mà cô không được yêu cầu cho đi đang khiến cô băn khoăn không biết nên thể hiện ra sao. Điều gì khiến nó trở thành như thế? Sự suy tư, hết đêm này sang đêm khác, cô cho là thế - về tính hiện thực của những cái bàn nhà bếp, cô bổ sung thêm, nhớ tới cái biểu tượng mà có lần Andrew đã nói với cô khi cô mơ hồ không rõ ông Ramsay suy tư về điều gì. (Cậu ấy đã bị một mảnh đạn pháo giết chết ngay tại chỗ, cô sực nhớ ra.) Cái bàn ăn đó là một thứ gì đó phi thực tế, chân phương; một thứ gì đó trần trụi, cứng, không có tính trang trí. Nó chẳng có màu sắc nào cả; nó chỉ toàn là những cạnh và góc; nó đơn giản một cách không thỏa hiệp. Nhưng ông Ramsay luôn dán mắt vào nó, không bao giờ cho phép bản thân xao lãng hay bị đánh lừa, cho tới khi gương mặt của ông ta cũng trở nên hốc hác và khắc khổ và dự phần vào cái vẻ đẹp không trang sức đã gây cho cô một ấn tượng sâu sắc này. Thế rồi cô nhớ lại rằng (cô vẫn còn đứng ở chỗ ông ta đã bỏ cô lại, với cây cọ trong tay) những nỗi lo âu đã gặm nhấm ăn mòn nó - một cách không cao quý cho lắm. Hẳn là ông ta đã có những nghi vấn về cái bàn đó, cô cho là vậy; cái bàn đó có phải là một cái bàn thật sự không; nó có xứng với thời gian ông ta bỏ ra cho nó không; rốt cuộc ông ta có thể phát hiện ra nó không. Ông ta đã có nhiều nghi vấn, cô cảm thấy thế; không thì hẳn ông ta đã ít hỏi mọi người hơn. Đó là điều mà đôi khi họ đã trao đổi muộn vào ban đêm, Lily đoán thế; và sáng hôm sau trông bà Ramsay có vẻ mệt mỏi, còn cô thì nổi giận với ông ta vì một điều nhỏ nhặt phi lý nào đó. Nhưng giờ thì ông ta chẳng còn ai để nói về cái bàn đó, về những chiếc ủng hay những nút thắt của ông ta; ông ta giống như một con sư tử đang tìm kiếm ai đó để ăn tươi nuốt sống, và gương mặt ông ta có cái nét tuyệt vọng đó, sự phóng đại đó, cái nét mặt đã khiến cho cô phải cảnh giác, đã khiến cho cô phải kéo mép váy cuộn quanh đôi chân. Và rồi, cô nhớ lại, sự hồi sinh đột ngột, ánh lửa đột ngột (khi cô ca ngợi đôi ủng của ông), sự khôi phục một cách đột ngột sinh khí và mối quan tâm tới những sự vật bình thường của con người, mọi thứ đó cũng đã trôi qua và biến đổi (vì ông ta luôn luôn thay đổi và chẳng hề che đậy điều gì hết) thành cái giai đoạn chung cuộc đó. Điều này thật mới mẻ đối với cô và đã khiến cho cô thấy xấu hổ về sự cáu kỉnh của chính mình, cô thừa nhận, như thể khi biểu lộ những âu lo và tham vọng của mình, niềm hy vọng được cảm thông và niềm mong muốn được ca ngợi của mình, ông ta đã thâm nhập vào một cõi miền nào đó khác, bị cuốn vào một cuộc chuyện trò câm lặng, như thể bởi sự hiếu kỳ, với chính ông ta hay một người khác, ở đầu cái đám diễu hành nhỏ bé đã vượt khỏi tầm mắt người ta đó. Một gương mặt thật khác thường! Cánh cổng đóng sầm lại.

3.

Thế là họ đã đi, cô nghĩ, thở dài nhẹ nhõm và thất vọng. Niềm cảm thông của cô dường như bị ném trở lại vào cô, lao vụt như một bụi gai ngang qua mặt cô. Cô cảm thấy bị phân tách một cách lạ lùng, như thể một phần của cô đã bị hút ra ngoài kia - hôm nay là một ngày tĩnh lặng, mù sương; sáng nay trông ngọn hải đăng như nằm ở một khoảng xa tít tắp; ngọn còn lại đã tự gắn nó ở đây, trên bãi cỏ, một cách vững trải, gan lì. Cô thấy như thể bức vẽ của mình đang bềnh bồng nổi lên và nằm đó trắng toát, không thỏa hiệp, ngay trước mặt cô. Với cái nhìn lãnh đạm, dường như nó đang trách móc cô về tất cả những trạng thái vội vã và bối rối này; sự điên rồ và lãng phí cảm xúc này, nó nhắc nhở cô một cách quyết liệt và trải rộng ra trong tâm trí cô đầu tiên là một sự thanh bình, vì những cảm giác hỗn loạn của cô đã lũ lượt tràn ra khắp cánh đồng (ông ta đã đi khỏi và cô đã rất tiếc cho ông ta và đã chẳng nói gì), và rồi sự trống rỗng. Cô thẫn thờ nhìn vào bức vẽ với cái nhìn trắng toát không thỏa hiệp của nó, rồi chuyển từ bức vẽ tới khu vườn. Có một cái gì đó (cô đứng nheo nheo đôi mắt Trung Hoa nhỏ xíu trên gương mặt nhăn nheo), một cái gì đó mà cô nhớ có liên quan tới những đường nét cắt ngang trải dọc kia, và tới cái hình khối của hàng giậu với khoảng không gian trống màu xanh trời và nâu như một cái hang vốn đã từng nằm trong tâm trí của cô; đã thắt một nút dây trong tâm trí của cô khiến cô bất giác nhận ra mình đang vẽ bức tranh đó, đang đưa mắt nhìn lướt qua nó, và tháo gỡ cái nút thắt trong trí tưởng trong lúc làm những việc linh tinh như đi xuống phố Brompton, hay chải tóc. Nhưng có sự khác nhau một trời một vực giữa việc thảnh thơi hoạch định ở bên ngoài bức vẽ với việc thật sự cầm lấy cọ và quét nhát cọ đầu tiên.

Cô đã chọn sai cọ trong tâm trạng bối rối khi có sự hiện diện của ông Ramsay, và cái giá vẽ của cô, được cắm xuống đất một cách bồn chồn, đã nằm sai góc độ. Và giờ đây khi cô đã chỉnh lại nó cho đúng và do đó đã giảm đi những cảnh vật lạc đề và những thứ không thích đáng đã lôi kéo sự chú ý của cô và làm cho cô nhớ cô là một người như thế nọ thế kia, có những quan hệ thế nọ thế kia với mọi người, cô đã làm chủ lại bàn tay của mình và nhấc cọ lên. Nó run rẩy một lúc giữa không trung trong một trạng thái mê ly đau đớn nhưng phấn khích. Bắt đầu từ đâu? - vấn đề là đặt nhát cọ đầu tiên ở điểm nào Một đường nét đặt lên bức vẽ sẽ đưa cô tới vô số nguy cơ, tới những quyết định tức thời và không thể thay đổi. Tất cả những gì có vẻ giản đơn trong ý tưởng ngay lập tức trở thành phức tạp trong thực hành; vì những lượn sóng tự định hình cho chúng một cách đối xứng từ đỉnh vách núi, nhưng đối với người đang bơi chúng bị phân tách bởi những vịnh dốc và những mỏm đá ngầu bọt sóng. Tuy nhiên, cứ phải đánh liều; nhát cọ đã được thực hiện.

Với một cảm giác lạ lùng về thể chất, như thể cô bị thúc ép phải bước lên phía trước đồng thời phải lui lại phía sau, cô lia nhanh nhát cọ quyết định đầu tiên. Chiếc cọ hạ xuống. Nó lấp lánh ánh nâu trên khung vải trắng, nó để lại một vết chạy dài. Cô thực hiện nó lần thứ hai - lần thứ ba. Và cứ ngưng nghỉ, chấm phá như thế, cô thủ đắc được một chuyển động nhịp nhàng như nhảy múa, như thể những lúc ngưng nghỉ là một phần của giai điệu và những nhát cọ khác, và tất cả đều gắn kết với nhau; cứ thế, dừng cọ, đưa cọ một cách nhẹ nhàng và nhanh nhẹn, cô vạch lên bức vẽ những nét nâu bồn chồn rún rẩy nhưng cố định ngay sau khi chúng được dựng quanh một khoảng không gian (cô cảm thấy nó lù lù tiến về phía cô. Ở dưới lòng trũng của một lượn sóng cô nhìn thấy lượn sóng kế tiếp dựng lên ngày càng cao hơn bên trên cô. Bởi lẽ còn có cái gì dữ dội hơn khoảng không gian đó nữa? Cô lui lại để nhìn nó và thầm nghĩ, ở đây lại một lần nữa cô lại rút ra khỏi những chuyện tầm phào, ra khỏi cuộc sống, ra khỏi cái cộng đồng người để đối diện với tên cựu thù ghê gớm của mình - cái điều khác này, chân lý này, hiện thực này đột nhiên xâm chiếm lấy cô, nổi lên lồ lộ ở phía sau những ngoại diện và lôi cuốn sự chú ý của cô. Cô cảm thấy nửa phần bất đắc dĩ nửa phần miễn cưỡng. Tại sao cứ phải luôn bị lôi kéo chứ? Tại sao không rời bỏ trong thanh bình, để nói chuyện với ông Carmichael trên bãi cỏ? Dẫu sao đi nữa đây cũng là một hình thức giao lưu thú vị. Những đối tượng đáng tôn thờ khác đều hài lòng với sự tôn sùng; đàn ông, phụ nữ, Thượng đế, tất cả đều đáng để người ta quỵ gối phủ phục; nhưng cái hình thức này chỉ như hình dáng của một ngọn đèn trắng lờ mờ đổ bóng lên một cái bàn đan bằng cành liễu gai, khích động người ta chiến đấu không ngừng, thách thức người ta đến với một trận chiến mà trong đó người ta buộc phải là người chiến bại. Trước khi đem dòng đời đổi lấy sự tập trung vào công việc vẽ tranh, luôn luôn có những khoảnh khắc cô cảm thấy mình trần trụi (cô cũng không biết là nó nằm trong bản chất hay trong giới tính của cô) khi mà cô cũng hệt như một linh hồn chưa ra đời, một linh hồn bị tước đi thân thể, ngại ngần trên một chóp đỉnh lộng gió nào đó và phơi trần ra mà không có một sự bảo vệ nào trước mọi nỗi ngờ vực. Vậy vì sao cô lại thực hiện nó? Cô nhìn vào bức vẽ, nhẹ nhàng phác những đường nét di động. Nó sẽ được treo trong phòng ngủ của các cô hầu gái. Nó sẽ bị cuộn lại và nhét xuống dưới một cái ghế tràng kỷ. Vậy thì thực hiện nó có ích gì không, và cô nghe thấy một giọng nói nào đó đang bảo rằng cô không thể vẽ tranh, rằng cô không thể sáng tạo, như thể cô đã bị cuốn theo một trong những dòng chảy thói quen mà trong đó sau một thời gian nhất định kinh nghiệm sẽ hình thành trong tâm trí, khiến cho người ta lặp lại những ngôn từ mà không còn chút ý thức nào về người đã phát ngôn chúng đầu tiên.

Không thể vẽ tranh, không thể viết, cô lẩm bẩm một cách đều đều, băn khoăn cân nhắc xem kế hoạch phản công của cô sẽ là gì. Vì khối hình đang lù lù trước mặt cô; nó nhô ra; cô cảm thấy nó đang áp lên nhãn cầu mình. Thế rồi, như thể một thứ chất lỏng nào đó cần thiết cho sự bôi trơn các bộ phận cơ thể của cô đã tự động phun ra, cô bắt đầu nhúng cọ một cách ngẫu nhiên vào những sắc xanh trời và nâu, di dộng chiếc cọ từ nơi này sang nơi khác, nhưng giờ đây nó nặng hơn và lướt đi chậm hơn, như thể nó đã được hạ xuống trong một nhịp điệu nào đó đang dẫn dắt cô (cô tiếp tục nhìn hàng giậu, và bức vẽ) và đủ mạnh để cuốn cô theo dòng chảy của nó. Hẳn nhiên cô đã đánh mất ý thức về những sự vật bên ngoài, về tên của cô, tính cách của cô, ngoại hình của cô, và việc ông Carmichael có ở đó hay không, tâm trí cô tiếp tục ném lên từ những chiều sâu của nó những cảnh quan, những cái tên, những câu nói, những hồi ức và những ý tưởng, như một vòi nước phun vọt ra trên khoảng không gian trắng gay go đáng sợ đang trừng mắt đó, trong lúc cô phác họa nó với những màu xanh lá và xanh trời.

Charles Tansley thường nói, cô nhớ, rằng phụ nữ không thể vẽ, không thể viết. Anh ta đã mò đến từ phía sau cô, đứng sát cạnh bên cô, một điều mà cô rất ghét, khi cô vẽ bà ấy từ chính chỗ này. “Thuốc rê,” anh ta nói “năm xu một ao-xơ,” phô trương sự nghèo túng của anh ta, những nguyên tắc của anh ta. (Nhưng cuộc chiến tranh đã rút mất cái ngòi nữ tính của cô. Những kẻ vô phúc tội nghiệp, người ta nghĩ, những kẻ vô phúc khốn khổ của cả hai giới tính.) Anh ta luôn kẹp một cuốn sách dưới nách - một cuốn sách màu tím. Anh ta “làm việc”. Anh ta ngồi, cô nhớ, làm việc trong ánh nắng chói chang. Trong bữa ăn tối anh ta thường ngồi ngay giữa tầm mắt. Nhưng nói cho cùng, cô ngẫm nghĩ, có một cảnh tượng đẹp đẽ trên bãi biển. Người ta phải nhớ tới nó. Đó là một buổi sáng gió nhiều. Tất cả bọn họ đều đi xuống bãi biển. Bà Ramsay ngồi viết thư cạnh một tảng đá. Bà ấy viết, viết mãi. ‘Ồ,” bà ấy nói, ngẩng lên nhìn một cái gì đó đang nổi bềnh bồng trên biển, “Có phải đó là một cái giỏ bắt tôm hùm không? Có phải đó là một con thuyền bị lật úp không?” Bà ấy bị cận thị nặng đến mức không thể nhìn thấy, thế rồi Charles Tansley bỗng trở nên dễ thương như anh ta có thể tỏ ra. Anh ta bắt đầu chơi trò lia đá trên mặt nước. Họ chọn những viên đá dẹt nhỏ màu đen và lia chúng trên những lớp sóng. Thỉnh thoảng bà Ramsay ngẩng lên nhìn qua đôi kính và cười to trêu họ. Họ đã nói gì cô không còn nhớ, chỉ nhớ cô và Charles đã chơi trò lia đá và đột nhiên rất hòa hợp với nhau, còn bà Ramsay thì quan sát họ. Cô ý thức rất rõ chuyện đó. Bà Ramsay, cô nghĩ, bước lùi lại và nheo mắt. (Hẳn bức vẽ đã thay đổi cấu trúc khá nhiều so với khi bà ấy ngồi trên bậc thềm với James. Hẳn phải có một cái bóng.) Khi cô nghĩ tới việc mình và Charles Tansley chơi trò lia đá và toàn bộ cảnh vật trên bãi biển, theo cách nào đó dường như nó phụ thuộc vào cảnh bà Ramsay ngồi dưới tảng đá, với một tập giấy trên đầu gối, đang viết những lá thư. (Bà ấy viết vô số thư và đôi khi gió cuốn chúng đi và cô cùng Charles chỉ vớt được một tờ từ dưới biển.) Nhưng linh hồn con người có một quyền năng to lớn biết bao! cô nghĩ. Hình ảnh người phụ nữ đó ngồi viết thư dưới tảng đá khiến mọi chuyện trở nên đơn giản; khiến cho những cơn giận, những bực dọc rụng rơi đi như những mảnh giẻ cũ; cô gom nhặt trong ký ức chuyện này chuyện nọ, cả cảnh tượng này, và nhận ra từ sự ngốc nghếch và thù hận đáng thương (cô và Charles đã cãi cọ nhau, đấu khẩu với nhau một cách thù hằn và ngu ngốc) này một điều gì đó - chẳng hạn cảnh tượng này trên bờ biển, cái khoảng khắc này của tình bạn và sự mến ưa nhau - điều còn sót lại sau bấy nhiêu năm. Cô chìm vào đó để tái hiện lại ký ức của cô về anh ta, và nó ở lại đó trong tâm trí, tác động đến người ta gần như một tác phẩm nghệ thuật.

“Như một tác phẩm nghệ thuật,” cô lặp lại, nhìn từ bức vẽ sang những bậc thềm phòng khách rồi lại nhìn bức vẽ. Cô phải nghỉ một lát. Và, trong lúc ngồi nghỉ, lơ đãng nhìn từ vật này sang vật nọ, cái câu hỏi cũ đã không ngớt lướt ngang bầu trời linh hồn, cái câu hỏi mênh mông, phổ quát vốn có khuynh hướng tự định danh chính nó vào những khoảnh khắc như thế này, khi cô đang thả lỏng những giác quan đã quá căng thẳng, lại đứng sững nhìn xuống cô, dừng lại bên cô, che tối xầm phía trên cô. Ý nghĩa của cuộc đời là gì? Chỉ thế thôi - một câu hỏi giản đơn; một câu hỏi có khuynh hướng tiến tới gần người ta hơn theo năm tháng. Sự khải huyền vĩ đại không bao giờ đến. Thay vì thế, có những phép màu nho nhỏ hàng ngày, những điều soi sáng, những que diêm lóe lên bất chợt trong bóng tối; chuyện này là một. Chuyện này, chuyện kia, và chuyện khác; bản thân cô và Charles Tansley và những con sóng vỗ bờ; bà Ramsay đã gắn họ lại với nhau; bà Ramsay bảo, “Cuộc sống đứng lặng nơi đây”; bà Ramsay đã tạo ra từ cái giây phút đó một cái gì vĩnh viễn) - câu nói này mang bản chất của một sự khải huyền. Giữa những thứ hỗn độn vẫn có một hình thù; sự trôi qua lướt chảy miên viễn không ngừng này (cô nhìn những đám mây đang trôi và những chiếc lá đang chao động) đã gắn sâu vào sự vững bền ổn định. Cuộc sống đứng lặng nơi đây, bà Ramsay đã nói thế. “Bà Ramsay! Bà Ramsay!” cô lặp đi lặp lại. Cô mang ơn mọi thứ ở bà.

Tất cả đều thinh lặng. Dường như chưa có ai đi lại trong ngôi nhà. Cô nhìn nó đang thiếp ngủ ở đó trong ánh nắng ban mai với những cánh cửa sổ màu xanh trời và xanh lá và những chiếc lá phản chiếu ánh mặt trời lấp loáng. Ý nghĩ mơ hồ về bà Ramsay của cô dường như đang cộng hưởng với ngôi nhà lặng lẽ này; làn khói này; bầu không khí ban mai trong lành này. Cô hy vọng sẽ không có ai mở cửa sổ hoặc đi ra khỏi nhà. Nhòa nhạt mơ hồ và không có thật, nó thuần khiết và gây phấn khích một cách không ngờ. Cô hy vọng sẽ không có ai mở cửa sổ hoặc đi ra khỏi nhà, nhờ thế cô sẽ được để yên để tiếp tục suy nghĩ, tiếp tục vẽ tranh. Cô quay sang bức vẽ. Bị thôi thúc bởi một cảm giác lạ lùng nào đó, bởi nỗi khó chịu về sự cảm thông mà cô không thể trút đi, cô thả bước tới cuối bãi cỏ để xem thử cô có thể nhìn thấy cái nhóm nhỏ đó lên thuyền ra khơi ở bãi biển dưới kia hay không. Dưới đó, giữa những con thuyền nhỏ bềnh bồng, một số với những cánh buồm cuộn lại, một số chầm chậm lướt đi, vì tiết trời yên tĩnh, có một con thuyền hơi tách biệt với số kia. Thậm chí bây giờ cánh buồm mới được kéo lên. Cô nhất quyết rằng ở đó, trong con thuyền nhỏ hoàn toàn im lặng và rất xa đó, ông Ramsay đang ngồi với Cam và James. Lúc này họ đã căng buồm; lúc này, sau khi cờ hiệu phấp phới và im lặng, cô quan sát con thuyền đang khoan thai tìm lối ngang qua những con thuyền khác để ra khơi.

4.

Những cánh buồm vỗ nhẹ trên đầu họ. Nước reo róc rách và vỗ vào hai mạn thuyền bất động đang ngủ lơ mơ trong ánh nắng. Thỉnh thoảng những cánh buồm lại gợn lên khi có một làn gió nhẹ, nhưng nếp gợn lăn tăn chỉ lướt qua chúng rồi ngưng bặt. Con thuyền chẳng chuyển động chút nào. Ông Ramsay ngồi ở giữa thuyền. Ông sẽ nôn nóng trong một lúc, James nghĩ, Cam nghĩ, nhìn cha chúng, người ngồi giữa chúng ngay giữa con thuyền (James lái thuyền, Cam ngồi một mình dưới mái vòm cuối thuyền) với đôi chân gập sát lại. Ông ghét sự lề mề. Đúng vậy, sau một hai giây bồn chồn, ông nói một câu gay gắt gì đó với con trai của Macalister, người vừa lôi cặp mái chèo ra và bắt đầu chèo. Nhưng cha chúng, chúng biết, sẽ chẳng bao giờ hài lòng cho tới khi họ lướt đi như bay. Ông sẽ tiếp tục ngóng tìm một cơn gió, bồn chồn, lẩm bẩm những câu gì đó mà Macalister và con trai ông ta sẽ nghe hóng được, và cả hai cảm thấy khó chịu kinh khủng. Ông đã bắt chúng đi. Ông đã ép buộc chúng đi. Trong cơn giận dữ, chúng hy vọng rằng gió sẽ không bao giờ nổi lên, rằng ông sẽ bị cản trở với mọi lý do có thể xảy ra, vì đã buộc chúng đi trái với ý nguyện của chúng.

Suốt quãng đường xuống bãi biển chúng đã cùng nhau nấn ná ở phía sau, dù ông cứ như ra lệnh cho chúng, “bước vội lên, bước vội lên,” mà không cần phải nói ra. Đầu chúng cúi gằm, đầu chúng như bị ấn xuống bởi một cơn bão không biết xót thương. Chúng không thể nói với ông. Chúng phải đi; chúng phải theo ông. Chúng phải đi sau lưng ông, vác theo những cái gói giấy nâu. Nhưng chúng đã thề nguyền, trong im lặng, khi đang dấn bước, sẽ đứng sát bên nhau và thực hiện một thỏa ước lớn lao - chống lại sự chuyên chế cho tới chết. Thế rồi chúng ngồi ở đó, mỗi người ở một đầu thuyền, trong im lặng. Chúng không nói gì cả, chỉ thỉnh thoảng nhìn ông đang ngồi đó với đôi chân gập sát lại, nhăn nhó bồn chồn, xuýt xoa ta thán, lẩm bẩm với chính mình, và nôn nóng đợi một cơn gió thổi. Và chúng hy vọng trời sẽ lặng. Chúng hy vọng ông sẽ bị cản trở. Chúng hy vọng toàn bộ chuyến đi sẽ thất bại, và chúng được đưa trở lại bãi biển, với những cái gói của chúng.

Nhưng lúc này, khi con trai của Macalister đã chèo được một quãng, những cánh buồm bắt đầu phồng lên, con thuyền tăng tốc, duỗi ra và lao tới. Ngay lập tức, như thể một sự căng thẳng nào đó đã được cởi bỏ đi, ông Ramsay duỗi thẳng hai chân, lôi cái bao nhỏ đựng thuốc lá ra, trao nó cho Macalister với một tiếng lầm bầm, và cảm thấy hoàn toàn mãn nguyện, chúng biết, vì chúng đã gánh chịu mọi thứ. Giờ đây chúng sẽ lướt đi suốt nhiều giờ như thế này, và ông Ramsay sẽ hỏi già Macalister một câu - có lẽ về cơn bão lớn vào mùa đông trước - và già Macalister sẽ trả lời, và họ sẽ cùng phì phèo cái ống điếu của mình, già Macalister sẽ cầm lấy một sợi chão nhúng hắc ín, thắt lại hoặc tháo ra một nút, người con trai sẽ câu cá và chẳng bao giờ nói với ai lời nào. James sẽ buộc phải để mắt theo dõi cánh buồm. Vì nếu nó quên, cánh buồm sẽ dúm dó và run rẩy, con thuyền sẽ chậm lại, và ông Ramsay sẽ nói một cách cáu kỉnh “Coi chừng! Coi chừng!” và già Macalister sẽ chậm chạp xoay người trên chỗ ngồi của mình. Thế rồi chúng nghe thấy ông Ramsay hỏi gì đó về cơn bão lớn hồi dịp lễ Giáng sinh. “Nó thổi đến, cuốn quanh chỗ đó,” già Macalister nói, mô tả cơn bão lớn hồi Giáng sinh năm trước, khi mười con tàu đã phải dạt vào vịnh để trú ẩn, và ông ta đã nhìn thấy “một ở đó, một ở đó, một ở đó” (ông ta chậm rãi chỉ vòng quanh cái vịnh. Ông Ramsay quay đầu nhìn theo.) Ông ta đã nhìn thấy bốn người đàn ông đeo trên cột buồm. Thế rồi nó biến đi. “Và cuối cùng chúng tôi đã tống cổ nó đi,” ông ta tiếp tục (nhưng trong cơn giận và sự im lặng của mình chúng chỉ thoáng nghe thấy một từ ở đoạn này đoạn khác trong lúc ngồi ở hai đầu của con thuyền, hợp nhất lại bởi thỏa ước chiến đấu với sự chuyên chế cho tới chết của chúng). Cuối cùng họ đã tống cơn bão đi, họ đã thả chiếc thuyền cứu hộ, và họ đã tống cổ nó qua chỗ đó - Macalister kể lại câu chuyện; và dù chúng chỉ nghe thấy một từ vào lúc này lúc khác, chúng ý thức được trong suốt thời gian đó về cha chúng - ông nghiêng người tới trước ra sao, ông hòa giọng với già Macalister ra sao; vừa phì phèo ống điếu vừa nhìn chỗ này chỗ nọ mà Macalister chỉ, ông đã thưởng thức ý nghĩ về cơn bão và cái đêm tăm tối đó và những người ngư dân đang chống chọi ở đó ra sao. Ông muốn rằng những người đàn ông phải lao khổ và đổ mồ hôi trên bãi biển lộng gió ban đêm; căng bắp thịt và khối óc ra để chống lại những lượn sóng và cơn gió; ông thích những người đàn ông lao động như thế, còn những người phụ nữ thì trông nom nhà cửa, và ngồi trong nhà bên cạnh những đứa bé đang say ngủ, trong khi những người đàn ông chết đắm ngoài kia trong một cơn bão. James có thể nói như thế, Cam có thể nói như thế (chúng nhìn ông, chúng nhìn nhau), từ cái hất đầu, cái vẻ cảnh giác của ông, từ tiếng rung trong giọng nói của ông và cách ông pha trộn một chút giọng Tô cách Lan vào giọng của mình, như tự xem mình là một nông dân khi ông hỏi Macalister về mười một con tàu đã phải dạt vào vịnh trong một cơn bão. Ba chiếc đã bị chìm.

Ông kiêu hãnh nhìn về phía những nơi Macalister chỉ; và Cam nghĩ, cảm thấy tự hào về ông mà hoàn toàn không biết vì sao, giá mà ông có ở đó hẳn ông sẽ hạ thủy chiếc thuyền cứu hộ, hẳn ông sẽ đi tới chỗ tàu bị đắm, Cam nghĩ. Nhưng nó sực nhớ ra. Còn có thỏa ước; để chống lại sự chuyên chế cho tới chết. Nỗi đau khổ của chúng đè nặng lên chúng. Chúng đã bị ép buộc; chúng đã bị áp chế. Ông đã hạ gục chúng một lần nữa với vẻ u sầu và thẩm quyền của mình, buộc chúng phải thực hiện theo lệnh của ông, lên đường ra ngọn hải đăng, trong buổi sáng đẹp trời này, mang theo những cái gói này, bởi vì ông muốn thế; phải tham dự vào những nghi lễ tưởng niệm những người đã chết mà ông tiến hành chỉ vì niềm vui thú của riêng mình, điều mà chúng ghét, do đó chúng đã dùng dằng nán lại sau ông, mọi niềm vui thú của ngày hôm nay đã bị phá hỏng.

Phải, gió lại nổi lên. Con thuyền nghiêng mình, mặt nước bị chẻ mạnh và rơi xuống thành những thác màu xanh, những bong bóng nước, những màn bụi nước. Cam nhìn xuống lớp bọt sóng, nhìn xuống biển với mọi kho báu của nó, tốc độ của nó khiến Cam như bị thôi miên, và mối ràng buộc giữa Cam và James hơi chùng xuống đôi chút. Nó đã lỏng ra đôi chút. Cam bắt đầu suy nghĩ, Nó đi thật nhanh. Chúng ta đang đi đâu đây? Và sự chuyển động đã thôi miên Cam, trong khi James, mắt dán chặt vào cánh buồm và chân trời, lái thuyền một cách dứt khoát. Nhưng trong lúc lái thuyền nó bắt đầu nghĩ rằng nó có thể bỏ trốn; nó có thể từ bỏ tất cả những chuyện này. Họ sẽ đổ bộ lên đâu đó; và khi đó sẽ được tự do. Cả hai đứa nhìn nhau trong giây lát, cùng có một cảm nhận về việc bỏ trốn, và tâm trạng hớn hở đến cùng với tốc độ và sự đổi thay. Nhưng làn gió cũng làm nảy sinh trong ông Ramsay một tâm trạng phấn khích tương tự, khi già Macalister quay người để ném sợi dây qua mạn thuyền, ông la lớn,

“ Chúng ta bỏ mạng ,” và lại la lên lần nữa, “ đơn độc từng người . [36] ” Thế rồi với cơn bộc phát của sự ăn năn hay e thẹn thường lệ của mình, ông đứng bật dậy, vẫy tay về hướng bờ biển.

“Nhìn ngôi nhà nhỏ kia,” ông nói, chỉ tay, muốn Cam nhìn theo. Nó nhổm lên một cách miễn cưỡng và nhìn. Nhưng đó là gì? Nó không còn có thể nhận ra rằng trên sườn đồi kia là ngôi nhà của họ. Tất cả trông rất xa xôi, thanh bình và kỳ lạ. Bờ biển dường như được tinh lọc, xa xăm, không có thật. Khoảng cách nhỏ mà họ đi được đã đưa họ ra xa nó và tạo cho nó cái vẻ thay đổi đó, cái vẻ tĩnh mịch đó, của một điều gì đó đã lùi xa mà trong đó người ta không còn bất kỳ vai trò nào nữa cả. Có phải đó là nhà của họ không? Nó không thể nhìn thấy được.

“Nhưng tôi còn bị nhấn chìm hơn anh ấy [37] ,” ông Ramsay lẩm bẩm. Ông đã phát hiện ra ngôi nhà, và trong khi nhìn nó, ông cũng nhìn thấy chính mình ở đó; ông nhìn thấy chính mình đang đi trước sân hiên, đơn độc. Ông đi qua đi lại giữa những bồn hoa; và với chính ông, dường như ông quá già nua lụm cụm. Ngồi trên thuyền, ông cũng còng lưng xuống, thu người lại, ngay lập tức đóng vai diễn của mình - vai diễn của một người đàn ông đơn lẻ, góa vợ, bị tước đoạt; và do đó tập hợp lại trước mặt ông những đám người đồng cảm với ông; trình diễn cho chính ông, trong khi ngồi trong thuyền, một màn bi kịch nhỏ; một màn bi kịch đòi hỏi ông sự hom hem lụ khụ, sự kiệt sức và nỗi u sầu (ông giơ hai bàn tay lên và nhìn vào sự gầy guộc của chúng, để khẳng định giấc mơ của mình), và rồi ông đã nhận được thật nhiều mối cảm thông của những người phụ nữ, ông tưởng tượng họ sẽ vỗ về ông và cảm thông ông ra sao, và trong khi cảm nhận trong giấc mơ của ông một phản ảnh nào đó của niềm hoan lạc tuyệt vời từ sự cảm thông của những người phụ nữ, ông thở dài, khe khẽ thốt lên với giọng não nùng:

Nhưng tôi còn bị nhấn chìm hơn anh ấy

trong những vực thẳm sâu dưới một biển thậm hung tàn,

khiến cho tất cả bọn họ nghe thấy những lời than van đó. Cam hơi giật mình ở chỗ ngồi của nó. Câu thơ làm Cam bị sốc - nó làm Cam nổi giận. Cử động đó đánh thức cha nó; và ông rùng mình, bừng tỉnh, kêu lên: “Nhìn kia! Nhìn kia” một cách khẩn thiết đến nỗi cả James cũng quay đầu lại nhìn về phía hòn đảo. Tất cả bọn họ đều nhìn. Họ nhìn về phía hòn đảo.

Nhưng Cam không thể nhìn thấy gì cả. Nó nghĩ tất cả những con đường và bãi cỏ, dày và gắn chặt vào cuộc sống mà họ từng trải qua ở đó, đã mất đi: đã bị xóa nhòa; đã là dĩ vãng; không có thật, và bây giờ điều này mới là có thật; con thuyền và cánh buồm đầy những mảnh vá; Macalister với đôi khuyên tai của ông ta; tiếng ồn của những lượn sóng - tất cả những thứ này mới có thật. Nghĩ tới đây, nó lẩm bẩm với chính mình, “Chúng ta bỏ mạng, đơn độc từng người,” vì những lời của cha nó cứ bùng nổ, bùng nổ mãi trong tâm trí nó. Khi thấy ánh nhìn khá mơ hồ của nó, cha nó bắt đầu trêu nó. Nó không biết những phương hướng trên chiếc la bàn hay sao? ông hỏi. Nó không biết phân biệt hướng bắc với hướng nam hay sao? Nó có thật sự nghĩ rằng họ sống ngay ở đó hay không? Rồi ông lại giơ tay chỉ cho nó chỗ có ngôi nhà của họ, bên cạnh những cây kia. Ông muốn nó cố trở nên chính xác hơn, ông nói: “Nói cho cha biết - hướng đông ở đâu, hướng tây ở đâu?” ông nói, một cách vừa chế giễu vừa phiền trách nó, vì ông không thể hiểu nổi trạng thái tinh thần của bất kỳ một ai, không hoàn toàn đần độn, lại không biết những hướng của la bàn. Thế nhưng nó không biết. Và nhìn ánh mắt đăm đăm đầy vẻ mơ hồ của nó, giờ đây có vẻ hơi hoảng sợ, đang dán vào một nơi chẳng có ngôi nhà nào, ông Ramsay quên đi giấc mơ của mình; việc ông đã đi qua đi lại giữa những bồn hoa trên sân hiên ra sao; việc đôi cánh tay đó đã duỗi về phía ông ra sao. Ông nghĩ, phụ nữ luôn là thế đó; sự mơ hồ trong tâm trí họ thật vô phương cứu chữa; đó là một điều mà ông không bao giờ có thể hiểu nổi; nhưng nó là thế đó. Nó đã từng là thế với bà ấy - vợ ông. Họ không thể xác định một cách rõ ràng bất kỳ điều gì trong tâm trí họ. Nhưng ông đã sai khi nổi giận với nó; ngoài ra, không phải là ông cũng khá thích sự mơ hồ ấy ở những người phụ nữ hay sao? Nó là một phần của vẻ đáng yêu lạ lùng của họ. Mình sẽ làm cho nó mỉm cười với mình, ông nghĩ. Trông nó có vẻ hoảng sợ. Nó rất lặng lẽ. Ông nắm chặt những ngón tay, và quyết định rằng giọng nói, vẻ mặt và tất cả những cử chỉ biểu hiện nhanh của ông, cái đã từng thuộc vào quyền tùy nghi sử dụng của ông trong việc làm cho mọi người thương hại ông và ca ngợi ông suốt những năm qua phải được tiết giảm đi. Ông sẽ làm cho nó mỉm cười với ông. Ông sẽ tìm một điều gì đó giản đơn để nói với nó. Nhưng là điều gì? Bởi lẽ, bị cuốn chặt vào công việc của mình như ông đã từng trước đó, ông đã q