THỜI GIAN QUA 1.
“Chà, chúng ta phải chờ xem tương lai ra sao,” ông Bankes nói, bước vào từ ngoài hiên.
“Trời tối quá không nhìn được,” Andrew nói, đi lên từ bãi biển.
“Hầu như không thể nói đâu là biển và đâu là đất liền nữa,” Prue nói.
“Chúng ta cứ để sáng đèn ở đó hở?” Lily hỏi khi họ cởi áo khoác ra ở bên trong nhà.
“Không,” Prue bảo, “nếu mọi người đều ở trong nhà.”
“Andrew,” cô gọi với, “cứ tắt đèn trong sảnh đi nhé.”
Những ngọn đèn dầu lần lượt bị thổi tắt đi, chỉ có ông Carmichael, do muốn nằm đọc Virgil [35] thêm một lúc, vẫn còn để sáng cây nến của mình.
2.Thế là với tất cả những ngọn đèn đã tắt mặt trăng chìm xuống, một cơn mưa nhỏ gõ nhịp trên mái nhà, và bóng tối mênh mang bắt đầu buông. Dường như không có gì có thể thoát khỏi cơn lũ bóng tối tràn trề đang luồn vào những lỗ khóa và khe hở, cuộn tròn những tấm mành che cửa sổ, tiến vào những căn phòng ngủ, nuốt chửng một cái chậu và cái bình chỗ này, một lọ hoa thược dược đỏ và vàng chỗ nọ, những cạnh sắc và hình khối vững chắc của một cái tủ ngăn chỗ kia. Không chỉ những đồ đạc biến đi; mà hầu như không còn lại một thân hình hay tâm trí nào để người ta có thể bảo, “Đây là anh ấy,” hay “Đây là cô ấy.” Thỉnh thoảng một bàn tay lại giơ lên như thể vớ lấy một vật gì đó, né tránh một vật gì đó, hoặc ai đó rên lên, cười to lên như đang chia sẻ một chuyện vui với khoảng hư vô.
Không có gì khuấy động trong phòng khách, phòng ăn hay trên cầu thang. Chỉ có những luồng không khí, bị tách khỏi cơn gió (nói cho cùng ngôi nhà đã cũ nát rồi) đang luồn qua những bản lề han rỉ và những thứ đồ gỗ, lượn quanh những góc nhà và thám thính những phòng ốc trong nhà.
Hầu như người ta có thể hình dung ra chúng khi chúng lướt vào phòng khách, hỏi han nhau và hỏi đùa với những miếng giấy dán tường đang bay phần phật, rằng bọn kia lơ lửng ở đó thêm bao lâu nữa thì sẽ rơi xuống? Rồi quét nhẹ lên những bức tường, chúng đăm chiêu lướt qua như muốn hỏi những đóa hồng đỏ và vàng trên giấy dán tường rằng các bạn có sẽ phôi phai đi chăng, và thăm dò (một cách khẽ khàng, vì chúng có thể tùy nghi sử dụng thời gian) những lá thư bị xé trong sọt đựng giấy vụn, những bông hoa, những quyển sách, tất cả những thứ giờ đây phơi mở ra với chúng và đang hỏi, Chúng là đồng minh? Chúng là kẻ thù? Chúng sẽ tồn tại bao lâu?
Với vết chân nhợt nhạt của nó trên cầu thang và tấm thảm, một tia sáng ngẫu nhiên - từ một vì sao không bị che khuất, từ một con tàu lang thang nào đó, hay thậm chí từ ngọn hải đăng - dẫn đường cho chúng. Với vết chân nhợt nhạt của tia sáng trên cầu thang và tấm thảm, những luồng không khí nhỏ lượn lên cầu thang và lướt vi vu quanh những cửa phòng ngủ. Nhưng chắc chắn chúng phải dừng lại ở đây. Bất cứ thứ gì khác cũng có thể tàn lụi và biến mất, còn cái nằm ở đây thì bất biến. Ở đây, người ta có thể nói tới những ánh sáng lướt qua đó, những làn không khí quờ quạng mà bạn không thể chạm vào hay hủy hoại đang thở và lướt bên trên chiếc giường đó. Từ bên trên, một cách yếu ớt, ma quái, như thể chúng có những ngón tay bằng lông vũ-ánh sáng và thứ ánh sáng bền bỉ của những chiếc lông vũ, chúng nhìn, một lần, vào những đôi mắt nhắm, những ngón tay nắm hờ, yếu ớt cuộn y phục của họ lên rồi biến mất. Cứ thế, ồn ào, vi vút, chúng lướt lên khung cửa sổ cầu thang, những căn phòng ngủ của những người hầu, những ngăn buồng của các căn phòng áp mái; quay trở xuống, nhuộm trắng những quả táo trên bàn ăn, chạm vào những cánh hoa hồng, sờ vào bức tranh trong khung vẽ, quét qua tấm thảm và cuốn một ít cát lên sàn nhà. Cuối cùng, chúng ngưng nghỉ, gom tụ lại, cùng thốt lên một tiếng thở dài; cùng rít lên một giọng than van vô mục đích mà một cánh cửa nào đó trong nhà bếp đáp lại; chúng tỏa rộng ra; không chứa nhận gì cả; rồi thổi đóng sầm cánh cửa.
[Tới đây, Carmichael, người đang đọc Virgil, thổi tắt ngọn nến. Trời đã quá nửa đêm.]
3.Nhưng rốt cuộc một đêm là gì? Một không gian ngắn ngủi, nhất là khi bóng tối mờ đi quá sớm, những con chim cất tiếng hót quá sớm, một con gà trống gáy lên, hay một màu xanh nhợt nhạt hiện nhanh, như một chiếc lá xoay vòng trong vũng xoáy. Tuy nhiên, đêm vẫn tiếp nối đêm. Mùa đông gom cất chúng và phân phát chúng đồng đều, với những ngón tay không mệt mỏi. Chúng kéo dài; chúng tối tăm. Một số đêm treo cao những hành tinh trong trẻo, những chiếc dĩa sáng ngời. Những chiếc lá mùa thu, bị tàn phá là thế, vẫn lấp lánh ánh sáng của những lá cờ tơi tả ngời lên trong màn ảm đạm của những khung cửa nhà thờ, nơi những chữ cái bằng vàng trên những phiến đá hoa diễn tả cái chết trong chiến trận và những nắm xương ngả trắng bị đốt cháy như thế nào ở xứ Ấn Độ xa xôi. Những chiếc lá thu sáng lấp lánh dưới ánh trăng vàng, thứ ánh sáng của những đêm rằm, thứ ánh sáng làm chín mọng khả năng lao động, làm mềm đi những gốc rạ, và đưa sóng phủ xanh bờ cát.
Giờ đây, dường như xúc động với sự ăn năn và tất cả những cần lao của con người, đức thánh linh đã rẻ tấm màn che và để lộ ra phía sau đêm một con thỏ rừng đứng thẳng, đơn độc, nổi bật; sóng vỗ; con thuyền bồng bềnh; những thứ mà nếu chúng ta xứng đáng sẽ luôn là của chúng ta. Nhưng chao ôi, đức thánh linh đã giật phăng sợi dây, kéo lại bức màn; ngài không hài lòng; ngài che đi những kho báu của mình trong một cơn mưa đá, và phá tan chúng, làm lẫn lộn chúng đến nỗi dường như sự bình thản của chúng sẽ không bao giờ quay lại hoặc chúng ta sẽ không bao giờ gom những mảnh vụn của chúng lại thành một tổng thể hoàn hảo hoặc đọc trong những mảnh rải rác những dòng chữ rõ ràng của chân lý được nữa. Vì sự ăn năn của chúng ta chỉ đáng cho một thoáng nhìn; sự cần lao của chúng ta chỉ hoãn lại được phút giây.
Đêm bây giờ đầy gió và sự tàn phá; cây cối ngã nghiêng và những chiếc lá bay tơi tả khắp đó đây cho tới khi phủ đầy bãi cỏ và nằm chồng chất lên nhau trong những máng xối, những ống dẫn nước mưa bị nghẹt và những con đường mòn rải rác. Ngay biển cả cũng trở trăn và tự vỡ tung, và một kẻ đang ngủ bất kỳ nào đó sẽ tưởng tượng rằng anh ta có thể tìm thấy trên bãi biển một lời giải đáp cho những ngờ vực của mình, một sự sẻ chia cho nỗi niềm hiu quạnh của mình, vứt đi bộ quần áo ngủ của anh ta rồi một mình đi xuống để tản bộ trên mặt cát, chẳng có hình ảnh nào giống với sự phục vụ và sự sẵn sàng siêu thoát dễ dàng đến trong tay để đem trật tự lại cho đêm và làm cho thế giới phản ánh hạn độ của linh hồn. Bàn tay đó co quắp lại trong tay anh ta; giọng nói đó gầm lên trong đôi tai anh ta. Có vẻ như trong một tình trạng rối rắm như thế sẽ chẳng ích gì khi hỏi màn đêm những câu hỏi cái gì, vì sao, bởi đâu, những câu hỏi đã thôi thúc kẻ ngủ ngon rời khỏi giường để tìm kiếm một lời giải đáp.
[Ông Ramsay, bị trượt ngã trên một hành lang vào một buổi sáng u ám, đã duỗi đôi tay của ông ra, nhưng bà Ramsay đã chết khá đột ngột vào đêm hôm trước, đôi tay ông, dù đã duỗi ra, chỉ chạm vào cõi hư vô.]
4.Thế là với ngôi nhà trống rỗng, những cánh cửa khóa chặt và những tấm thảm cuộn lại, những làn gió nhẹ tản mác ấy, những cảnh vệ tiên phong của các đoàn quân lớn, ào ào thổi vào, quét qua những tấm ván trần, nhấm nhẳn và tỏa thành hình rẻ quạt, chẳng gặp thứ gì trong căn phòng ngủ hay phòng khách vốn đã hoàn toàn ghi nhận chúng ngoài những vật treo tường bay phần phật, những đồ gỗ kêu cọt kẹt, những chân bàn trần trụi, những cái chảo và đồ sứ đã đóng đầy cặn cáu, xỉn mờ, nứt vỡ. Những thứ mọi người đã bỏ rơi lại - một đôi giày, một cái mũ đi săn, vài chiếc váy và áo khoác bạc màu trong tủ quần áo - chỉ có những thứ đó mới còn lưu giữ hình dáng con người và biểu thị trong nỗi trống vắng rằng chúng đã từng được khoác mang và làm cho sống động ra sao; những bàn tay đã từng bận rộn với những cái khuy và móc áo ra sao; tấm gương đã từng ôm giữ một gương mặt ra sao; đã từng ôm giữ một thế giới bên ngoài trong đó một hình dáng xoay chuyển, một bàn tay vụt hiện, cánh cửa mở ra, lũ trẻ ùa vào nhốn nháo; và ùa ra ngoài trở lại. Bây giờ, ngày nối tiếp ngày, ánh sáng biến chuyển hình ảnh sắc nét của nó trên bức tường đối diện, như một bông hoa phản chiếu trên mặt nước. Chỉ có bóng của những hàng cây ngả nghiêng trong gió đang rạp người trên tường, và trong khoảnh khắc làm tối đi cái vũng ánh sáng phản quang; hoặc chỉ những bóng chim bay ngang, tạo thành một vệt nhòa chậm chạp lướt qua nền phòng ngủ.
Vẻ yêu kiều và sự tĩnh lặng ngự trị và cùng nhau tạo thành hình dáng của chính nó, một hình thức mà từ đó đời sống đã lìa xa; sự quạnh hiu giống như một vũng nước xa xa mờ nhạt dưới ánh chiều tà, được nhìn thấy từ cửa sổ một toa tàu, một vũng nước biến đi nhanh đến nỗi hầu như người ta không thể tước đoạt đi sự quạnh hiu của nó, dù đã nhìn thấy nó một lần. Vẻ yêu kiều và sự tĩnh lặng nắm chặt tay nhau trong phòng ngủ giữa những chiếc bình bị che khuất, những chiếc ghế trùm kín, thậm chí nỗi tò mò của ngọn gió, và tiếng ồn khe khẽ của những làn gió biển nhẹ ẩm ướt đang cọ xát, khụt khịt và lặp lại những câu hỏi của chúng - “Các bạn có phai nhòa đi không? Các bạn có tàn lụi đi không? - cũng hầu như không thể quấy nhiễu sự thanh bình, sự lãnh đạm, bầu không khí vẹn nguyên thuần khiết, như thể câu hỏi mà chúng đặt ra hầu như không cần thiết phải được đáp lại rằng: chúng tôi vẫn còn đây.
Dường như không gì có thể phá vỡ hình ảnh đó, làm suy đồi sự trinh trắng đó, hoặc làm náo động tấm áo choàng lung linh của sự im lặng mà, hết tuần này sang tuần khác, trong căn phòng trống rỗng, đã đan dệt vào chính nó tiếng lũ chim kêu vọng lại, tiếng còi tàu hụ, tiếng vi vu rì rào của những cánh đồng, tiếng chó sủa, tiếng người la hét, và cuộn chúng quanh phòng trong im lặng. Chỉ có một lần một tấm ván ngã xuống đầu cầu thang; một lần vào lúc nửa đêm với một tiếng ầm ầm, một sự gẫy đổ, như sau hàng bao nhiêu thế kỷ im lìm, một tảng đá tách ra khỏi ngọn núi và lao nhanh xuống lũng, một nếp gấp của tấm khăn choàng bung ra và đu đưa qua lại. Rồi sự thanh bình lại bao trùm; và cái bóng chập chờn; ánh sáng sùng kính nghiêng mình tới hình ảnh của chính nó trên tường phòng ngủ; và bà McNab, xé toạt bức màn im lặng với đôi bàn tay đã nhúng vào chậu giặt, nghiền nát nó với đôi ủng đã nghiến trên đá sỏi, tới đó theo chỉ thị để mở mọi cánh cửa sổ ra và quét dọn những căn phòng ngủ.
5.Khi đang bước chòng chành (vì bà lắc lư như một con tàu trên biển) và đảo mắt quanh (vì bà không nhìn thẳng vào một thứ nào cả mà chỉ liếc qua, một cái liếc mắt mang tính phản kháng sự khinh miệt và giận dữ của thế gian - bà biết rằng mình kém thông minh), khi bám lấy thành cầu thang đu người lên những bậc thang và khi tập tễnh bước từ phòng này sang phòng khác, bà cất tiếng hát. Trong khi đang lau chùi tấm gương dài và liếc mắt nhìn thân hình lắc lư lảo đảo của mình, một âm thanh phát ra từ đôi môi bà - một câu hát nào đó mà có lẽ hai mươi năm trước từng rất vui nhộn trên sân khấu, từng được ngân nga và nhảy múa theo, nhưng giờ đây, phát ra từ một người đàn bà giúp việc răng rụng sạch, mũ trùm đầu, nó đã bị tước đi ý nghĩa, như chính bản thân giọng nói của sự ngờ nghệch, sự hóm hỉnh và sự kiên trì, nó trầm xuống rồi lại vút lên cao, khiến trong lúc vừa lảo đảo bước vừa quét dọn, lau chùi, dường như bà muốn thốt lên rằng việc thức giấc và đi ngủ lại, việc lôi mọi thứ ra và thu cất chúng vào trở lại, là một nỗi buồn sầu và phiền muộn dài dặc biết bao. Cái thế giới mà bà đã biết suốt gần bảy mươi năm qua thật chẳng dễ dàng hay thoải mái chút nào. Bà mệt nhọc cúi đầu. Vừa quỳ gối rên rẩm bên dưới giường để quét những tấm ván bà vừa tự hỏi, nó sẽ kéo dài bao lâu nữa? Nhưng khi lại nhổm người đứng lên, lại liếc nhìn vào gương mặt của chính bà, những nỗi buồn của chính bà, đang đứng đó há mồm trong tấm gương, mỉm nụ cười ngây ngô vô mục đích, lại bắt đầu nhẹ nhàng và tập tễnh bước, dỡ những tấm thảm lên, đặt những món đồ sứ xuống, nghiêng mắt nhìn vào gương, rốt cuộc như thể bà đã tìm được niềm an ủi, như thể một niềm hy vọng bất khả tu chỉnh nào đó đã thật sự quyện quanh bài hát buồn bã của bà. Ắt hẳn đã có những viễn cảnh hân hoan khi nói chuyện với con cái của bà (thế nhưng hai đứa là thứ hèn kém và một đứa đã từ bỏ bà) ở chỗ chậu giặt, khi đang uống ở quán rượu; khi đang lật những mảnh báo cắt ra trong ngăn kéo của bà. Ắt hẳn đã có một sự phân tách nào đó của bóng tối, một dòng chảy nào đó dưới những chiều sâu tăm tối mà qua đó ánh sáng đủ sức phát lộ ra trên gương mặt đang cười trong tấm gương và khiến bà lẩm nhẩm hát một bài ca cũ trên sân khấu khi một lần nữa quay về với công việc của mình. Kẻ thần bí, kẻ nhìn xa trông rộng, khi đi trên bãi biển trong một đêm trời đẹp, khi khuấy động một vũng nước nhỏ, khi nhìn một tảng đá, khi tự hỏi mình “Tôi là ai,” “Đây là cái gì?” đã đột ngột nhận được một câu trả lời hạ cố (họ không thể nói đó là gì) khiến họ thấy ấm lòng trong màn sương giá lạnh và thấy an ủi trong cơn quạnh quẽ. Nhưng bà McNab lại tiếp tục uống và lẩm nhẩm chuyện tầm phào như trước.
6.Mùa xuân không còn chiếc lá nào để nhiễu lộng, trần trụi và rực rỡ như một trinh nữ hung dữ với sự trinh bạch của mình, ngạo mạn với sự thuần khiết của mình, nàng nằm dài trên những cánh đồng, mắt mở to cảnh giác và hoàn toàn hờ hững với những gì mà những kẻ chứng kiến đã thực hiện hay suy nghĩ.
[Prue Ramsay, tựa vào cánh tay của cha mình, đã được trao đi trong hôn lễ. Mọi người bảo, còn chi xứng lứa vừa đôi hơn thế? Và, họ nói thêm, trông nàng thật xinh đẹp biết bao!]
Khi mùa hạ tới gần, khi những buổi chiều tà dài ra, những tưởng tượng lạ lùng nhất đã xuất hiện ở những kẻ thao thức và tràn trề hy vọng đang đi trên bãi biển và quậy tung vũng nước, về việc xác thịt biến thành những nguyên tử bị cuốn đi trong gió, về những vì sao lấp lánh trong tim họ, về vách núi, biển, mây và bầu trời được mang tới một cách cố tình và tập hợp nhau lại ở bên ngoài những viễn tượng rải rác của nội tâm. Trong những tấm gương đó, những tâm trí của con người, trong những vũng nước băn khoăn đó, mà bên trong là những đám mây và hình dáng biến chuyển không ngừng, những giấc mơ vẫn kéo dài dai dẳng, và người ta không thể nào cưỡng lại dự báo lạ lùng mà mỗi con mòng biển, mỗi đóa hoa, cây cối, mỗi người đàn ông và phụ nữ, và chính bản thân trái đất dường như đang bày tỏ (nhưng sẽ rút lui lập tức nếu bị đặt câu hỏi) rằng sự tốt lành đang thắng lợi, hạnh phúc đang chiếm ưu thế, trật tự đang ngự trị; hoặc cưỡng lại sự khích động khác thường muốn đi khắp đó đây để tìm kiếm một sự tốt lành tuyệt đối, một tinh thể hoặc cảm xúc mãnh liệt nào đó, xa biệt với những lạc thú từng được biết và những thứ hấp dẫn quen thuộc, một thứ gì đó xa lạ với những quy trình của cuộc sống trong nhà, đơn độc, cứng rắn, rực rỡ, như một viên kim cương trên cát, thứ sẽ mang lại an toàn cho người sở hữu chủ. Ngoài ra, trở nên mềm mại và tuân phục, mùa xuân, với những con ong bay vo ve và những con muỗi mắt đang nhảy múa của nàng, đã khoác lên người tấm áo choàng, che mắt lại, ngoảnh đầu đi, và giữa những bóng dáng lướt qua, giữa những cơn mưa nhỏ, dường như đã thủ đắc thêm một tri kiến về những nỗi u sầu của con người.
[Prue Ramsay qua đời vào mùa hè năm đó vì một cơn bạo bệnh liên quan tới việc sinh nở, một tấn thảm kịch, mọi người bảo, vì mọi thứ đều đầy hứa hẹn lạc quan.]
Và giờ đây trong mùa hè oi bức, ngọn gió lại cử những tên lính dọ thám của mình dạo quanh ngôi nhà lần nữa. Những con ruồi dệt thành một tấm lưới trong những căn phòng tràn ánh nắng; những ngọn cỏ, đã nhú lên sát bên cửa sổ trong đêm, khe khẽ vỗ lên lớp kính cửa. Khi màn đêm buông xuống, luồng ánh sáng của ngọn hải đăng, đã từng đáp xuống tấm thảm một cách uy quyền trong bóng tối, lại thực hiện theo khuôn mẫu cũ, giờ đây nó xuất hiện trong một thứ ánh sáng mùa xuân mềm dịu hơn hòa lẫn với ánh trăng lóng lánh, như thể nó tỏ bày sự quan tâm, lén lút nấn ná lần khân, nhìn ngó và lại hiện ra một cách thương yêu. Nhưng chính trong cơn lắng đọng của sự chăm sóc thương yêu này, khi luồng ánh sáng dài đổ bóng lên giường, tảng đá bị xé toạt ra; một nếp khác của tấm khăn choàng chùng lỏng; nó treo lơ lửng đong đưa ở đó. Suốt những đêm hè ngắn ngủi và ngày hè dài dằng dặc, khi những căn phòng dường như thầm thì với tiếng vọng của những cánh đồng và tiếng vo ve của lũ ruồi, lá cờ đuôi nheo dài nhẹ nhàng ve vẩy đong đưa một cách vô mục đích. Trong khi đó mặt trời tỏa nắng chắn cửa những căn phòng và phủ đầy chúng với những lớp bụi mù vàng đến nỗi khi bà McNab bước vào và loạng choạng rảo quanh, lau chùi, quét dọn, trông bà như một con cá miền nhiệt đới đang bơi qua lòng nước bị những ngọn giáo mặt trời xuyên thủng.
Nhưng dù mùa hè có vẻ như triền miên trong giấc ngủ, muộn hơn sau đó cũng xuất hiện những âm thanh đáng ngại giống như những tiếng búa gõ nhịp nhàng lên lớp nỉ, mà với sự chấn động lặp đi lặp lại của chúng tấm khăn choàng càng trở nên lỏng lẻo hơn và những cái tách uống trà rạn vỡ. Thỉnh thoảng một cái ly kêu leng keng trong tủ chạn như thể một gã khổng lồ nào đó vừa hét to lên giận dữ đến nỗi những cái cốc vại nằm bên trong một cái tủ cũng rung lên. Rồi sự im lặng lại buông xuống; và rồi, đêm nối tiếp đêm, và đôi khi vào đúng giữa trưa khi những đóa hoa hồng đẹp rạng rỡ và ánh sáng rọi lên bức tường hình dáng rõ ràng của nó, dường như có tiếng của một vật gì đó rơi đánh sầm xuống sự im lặng này, sự lãnh đạm này, sự vẹn nguyên này.
[Một quả đạn đại bác nổ. Hai mươi hoặc ba mươi chàng trai tan xác ở Pháp, Adrew Ramsay nằm trong số đó. Trời đất thương tình, anh chết ngay lập tức.]
Mùa hè năm đó, những ai đã từng đi xuống thả bộ trên bãi biển và hỏi trời biển rằng chúng đã thuật lại thông điệp gì hay chúng đã khẳng nhận viễn cảnh nào phải cân nhắc xét suy giữa những dấu hiệu thông thường của tặng vật thiêng liêng - ánh hoàng hôn trên biển, ánh bình minh xanh nhạt, trăng lên, những con thuyền nổi lên trên vầng trăng, và lũ trẻ làm những cái bánh bằng bùn hoặc chơi ném chọi nhau bằng những túm cỏ - có một cái gì đó đã vượt khỏi sự hài hòa với cảnh thanh bình vui vẻ này. Chẳng hạn, sự xuất hiện lặng lẽ của một con tàu màu xám tro, đến, rồi đi; có một vết nhơ màu đỏ tía trên mặt biển êm đềm như thể có gì đó đã sưng phồng lên và chảy máu một cách vô hình bên dưới. Cứ như thể các chỉ báo này khuấy động những suy ngẫm siêu phàm nhất và dẫn tới những kết luận thuận lợi nhất trong cuộc tản bộ của họ. Khó mà bỏ qua chúng; khó mà phủ nhận ý nghĩa quan trọng của chúng trong cảnh vật, khó mà tiếp tục kinh ngạc thấy rằng vẻ đẹp bên ngoài đã phản chiếu lại vẻ đẹp nội tâm như thế nào khi người ta thả bước trên bờ biển.
Thiên nhiên có bổ sung thêm cho những gì con người đã đề ra? Nó có hoàn thành cái mà anh ta đã bắt đầu không? Với sự tự mãn tương đương, nó nhìn thấy sự bất hạnh của anh ta, sự hèn hạ của anh ta và sự đau đớn kinh khủng của anh ta. Nhưng rồi có phải giấc mơ đó - về việc sẻ chia, về việc hoàn thành, về việc tìm ra trong sự cô quạnh trên bãi biển một lời giải đáp - chỉ là một phản ảnh trong một tấm gương, còn bản thân tấm gương chỉ là một bề mặt thủy tinh hình thành trong sự thụ động khi những sức mạnh cao cả hơn nằm thiếp ngủ bên dưới? Nôn nóng, thất vọng nhưng miễn cưỡng phải đi (vì vẻ đẹp đang chào mời quyến dụ và có những lời an ủi của nó), không thể tản bộ trên bãi biển; không thể chịu đựng nổi sự an ủi; tấm gương đã vỡ tan.
[Mùa xuân ấy ông Carmichael tung ra một tập thơ với một thành công ngoài mong đợi. Cuộc chiến tranh, mọi người bảo, đã làm sống lại mối quan tâm của họ đối với thi ca.]
7.Đêm nối tiếp đêm, hè qua đông đến, sự hoành hành của những cơn bão, sự tĩnh lặng như tờ của ngày trời đẹp (đã từng có ai đó lắng nghe không), từ những căn phòng bên trên của ngôi nhà trống chỉ có thể nghe thấy tiếng giằng giật của những tia chớp lóe khổng lồ, khi những cơn gió và những lượn sóng nô đùa và cưỡi lên nhau như những bầy thủy quái phi lý trí luôn thay hình đổi dạng, và lao sầm vào bóng đêm hay ánh sáng ban ngày (vì đêm và ngày, tháng và năm cùng lướt bên nhau một cách phi hình thể) trong những trò chơi ngốc nghếch cho tới khi dường như vũ trụ cũng vật vã đổ nhào trong sự hỗn mang bạo tàn và khát vọng vô mục đích của chính nó.
Vào mùa xuân những bồn hoa trong vườn, vốn mọc đầy những loài cây dại do gió mang tới, lại vui tươi rực rỡ như xưa. Hoa violet và hoa thủy tiên nở rộ. Nhưng sự tĩnh lặng và rạng rỡ của ngày cũng lạ lùng không kém sự hỗn loạn và náo động của đêm, với những hàng cây đứng đó, những loài hoa cỏ đứng đó, nhìn về phía trước chúng, nhìn lên, thế nhưng không thấy gì cả, không có mắt, và quá kinh hoàng.
8.Cho rằng chẳng có tổn hại gì, vì gia đình ấy sẽ không tới, không bao giờ tới nữa, có người nói thế, và có lẽ ngôi nhà sẽ bị phát mãi vào ngày lễ thánh Mi-sen, bà McNab khom người xuống nhổ một bó hoa để mang vào nhà cắm. Bà đặt chúng lên bàn trong lúc quét dọn. Bà rất yêu thích các loài hoa. Bỏ phí chúng thật là một điều đáng tiếc. Giả dụ ngôi nhà bị bán đi (bà đứng chống nạnh trước tấm gương) nó sẽ muốn trông ra vẻ - nó sẽ muốn thế. Nó đã ở đó suốt bao năm qua chẳng có một bóng người nào lai vãng. Những cuốn sách và vật dụng đã cũ kỹ mốc meo, do cuộc chiến và và do khó tìm ra sự giúp đỡ, bà không thể giữ cho nó sạch sẽ như mong muốn được. Việc giữ cho nó được gọn gàng ngăn nắp lúc này nằm ngoài khả năng của một cá nhân. Bà đã quá già. Đôi chân bà luôn đau nhức. Mấy cuốn sách đó cần được đem ra phơi nắng trên thảm cỏ; vữa trát tường tróc rơi đầy trong sảnh; ống máng xối đã bị nghẹt ở phía trên cửa sổ phòng đọc sách khiến nước chảy vào phòng; thảm lót sàn đã hoàn toàn hư hỏng. Nhưng những người đó phải tự mình đến; họ nên cử ai đó tới đây xem xét. Vì áo quần vẫn còn nằm trong những cái tủ; họ đã để lại quần áo trong tất cả các phòng ngủ. Bà phải làm gì với chúng đây? Những đồ đạc quần áo của bà Ramsay đầy lũ nhậy. Vị phu nhân tội nghiệp! Bà ấy sẽ chẳng bao giờ muốn có chúng nữa. Bà ấy đã chết, họ bảo thế; cách đây nhiều năm, ở London. Có một chiếc áo choàng cũ màu xám mà bà ấy hay mặc để làm vườn (bà McNab sờ nhẹ nó bằng mấy ngón tay). Bà có thể nhìn thấy bà ấy đi lên con đường dẫn vào nhà với mớ đồ giặt, nghiêng người xuống những luống hoa (quang cảnh khu vườn giờ đây thật đáng thương, mọi thứ đã trở nên hỗn độn, và những con thỏ lao thẳng vào bạn từ những luống hoa) - bà có thể nhìn thấy bà ấy với một đứa trong số lũ trẻ bên cạnh trong chiếc áo choàng xám đó. Có những đôi giày và ủng; một cái bàn chải và một cây lược còn nằm lại trên bàn trang điểm, như thể bà ấy từng mong đợi sẽ trở về ngay trong ngày mai. (Bà ấy đã chết rất đột ngột, họ bảo thế.) Có lần lẽ ra họ đã tới nhưng phải hoãn lại, do chiến tranh, và việc đi lại thời buổi này rất khó khăn; suốt bao năm qua họ đã không tới; chỉ gửi tiền cho bà; nhưng không bao giờ viết thư, không bao giờ tới, và mong đợi sẽ thấy rằng mọi thứ vẫn như lúc họ rời bỏ chúng, ôi chao! Vì sao cái bàn trang điểm lại đầy những đồ đạc vậy chứ (bà kéo chúng ra), những chiếc khăn tay, những dải ruy băng. Phải, bà có thể nhìn thấy bà Ramsay đi lên con đường dẫn vào nhà với mớ đồ giặt trong tay.
“Chào bà McNab,” bà ấy nói.
Bà ấy có một phong thái vui vẻ. Tất cả mọi cô gái đều thích bà ấy. Nhưng, than ôi, đã có nhiều thay đổi kể từ dạo ấy (bà đóng ngăn kéo lại); nhiều gia đình đã mất đi người thân yêu nhất của mình. Thế là bà ấy đã chết; và cậu Andrew bị giết; và cả cô Prue cũng đã chết, họ bảo thế, với đứa con đầu lòng của cô ấy; nhưng mọi người đều mất mát một ai đó trong những tháng năm này. Giá cả tăng vọt một cách đáng xấu hổ, và cũng chưa hề hạ xuống. Bà có thể nhớ bà ấy trong chiếc áo choàng xám rất rõ ràng.
“Chào bà McNab,” bà ấy nói, và bảo người đầu bếp để dành một dĩa xúp sữa cho bà - cứ đinh ninh rằng bà cần tới nó, để mang cái giỏ nặng đó suốt con đường trở ra thị trấn. Giờ đây bà có thể nhìn thấy bà ấy, đang khom người bên những luống hoa; nhạt nhòa và lung linh, như một tia sáng màu vàng hay vòng tròn ở đầu một cái kính viễn vọng, một quý bà trong chiếc áo choàng màu xám, đang cúi người trên những luống hoa, đi vẩn vơ trên tường phòng ngủ, đứng trên bàn trang điểm, băng qua giá rửa mặt, trong khi bà tập tễnh lê bước, quét dọn, vươn thẳng người. Tên của người đầu bếp là gì nhỉ? Mildred? Marian? - một cái tên gì đó đại loại thế. Ôi chao, bà đã quên rồi - bà đã quên đi mọi thứ. Tính tình nồng nhiệt, như mọi phụ nữ tóc đỏ. Họ đã cười ngặt nghẽo với nhau biết bao lần. Bà luôn được tiếp đón ân cần trong nhà bếp. Bà đã làm cho họ cười vui, quả vậy. Mọi chuyện hồi ấy đều tốt đẹp hơn bây giờ.
Bà thở dài; có quá nhiều công việc cho một người phụ nữ. Bà lắc đầu qua bên này rồi bên khác. Phòng này từng là phòng của lũ trẻ. Sao vậy, ở đây mọi thứ đều ẩm thấp; vữa trát tường đã tróc rơi. Họ muốn gì mà treo một cái sọ lợn lòi ở đó không biết? cả nó cũng đã mốc meo. Và chuột đầy nhóc trong các căn phòng áp mái. Mưa dột vào nhà. Nhưng họ chẳng bao giờ cử người tới; chẳng bao giờ tới. Một số ổ khóa đã hư, thế nên những cánh cửa cứ mở ra đóng lại đánh sầm. Bà cũng chẳng thích lên đây vào buổi xế chiều chút nào. Bà thở than, rên rỉ. Bà đóng sập cánh cửa lại. Bà xoay chiếc chìa khóa trong ổ khóa, và bỏ lại ngôi nhà cô độc, cửa khóa then cài im ỉm.
9.Ngôi nhà đã bị bỏ lại; ngôi nhà đã trở nên hoang vắng không người. Nó bị bỏ lại như chiếc vỏ sò trên một đồi cát và bị những hạt cát khô vùi lấp khi giờ đây cuộc sống đã từ bỏ nó. Dường như đêm dài đã chập chùng chặn nẻo; Dường như những làn gió lẻ vi vu, những hơi thở lần mò, lạnh và ẩm ướt, đã chiến thắng. Những cái chảo han rỉ, và những tấm thảm mục nát. Lũ cóc mò mẫm vào nhà. Tấm khăn choàng đong đưa phấp phới lại qua một cách lười nhát vô mục đích. Một cây kế đâm rễ vào những ô ngăn trong tủ chạn. Lũ chim én làm tổ trong phòng khách; nền nhà vương vải những cọng rơm; vữa trát tường rơi từng mảng lớn; những chiếc rui nhà nằm trần trụi; lũ chuột tha dần món này món nọ để gặm nhấm phía sau những tấm ván ốp tường. Những con nhộng nở thành bướm đốm nâu và bò lổm ngổm phía ngoài kính cửa sổ. Cây anh túc nẩy mầm giữa những lùm hoa thược dược; bãi cỏ nhấp nhô gợn sóng với những lớp cỏ cao; những cây atisô to lớn nhô cao giữa những bụi hoa hồng; một cây thược dược nở hoa giữa luống cải bắp; vào những đêm đông, tiếng gõ khe khẽ vào cửa sổ của một loài cỏ dại trở thành một tiếng lộp độp đều đều từ những thân cây cứng cáp và những cụm thạch nam gai vốn đã từng biến toàn bộ căn phòng thành một màu xanh vào mùa hạ.
Giờ đây sức mạnh nào có thể ngăn cản được sự sinh sôi nảy nở, sự vô tình của tự nhiên? Giấc mơ của bà McNab về một vị phu nhân, một đứa trẻ, một dĩa xúp sữa chăng? Nó đã lướt trên những bức tường như một đốm nắng và biến mất. Bà đã khóa cửa lại; bà đã ra đi. Việc này nằm ngoài khả năng của một người phụ nữ, bà bảo. Họ chẳng hề cử người tới. Họ chẳng hề viết thư. Những thứ đồ đạc đang mục nát dần trong những ngăn kéo trên kia - thật đáng tiếc khi bỏ lại chúng như thế, bà bảo. Nơi chốn đó đã tan hoang hủy hoại. Chỉ có tia sáng của ngọn hải đăng thâm nhập vào những căn phòng trong giây lát, gửi cái nhìn đột ngột của nó lên những chiếc giường và bức vách trong bóng tối mùa đông, bình thản nhìn cây kế và lũ chim én, lũ chuột và những cọng rơm. Giờ đây không gì có thể chống lại chúng; giờ đây không có gì nói với chúng là không. Mặc cho gió thổi; mặc cho cây anh túc tự nảy mầm và cây thược dược kết bạn với những lùm cải bắp. Mặc cho lũ chim én làm tổ trong phòng khách, cây kế đâm rễ vào những ngăn tủ, và lũ bươm bướm sưởi nắng trên lớp vải bọc phai màu của những chiếc ghế bành. Mặc cho những cái ly vỡ và những thứ đồ sứ nằm lăn lóc trên bãi cỏ và bị cỏ dại che khuất mất.
Vì giờ đây cái giờ khắc ấy, sự ngập ngừng ấy đã đến rồi, khi ánh bình minh run rẩy và bóng đêm dừng lại, khi nếu một chiếc lông chim đáp xuống mặt cân thì nó sẽ chìm xuống. Chỉ một chiếc lông chim, và ngôi nhà, đang chìm, đang rơi, hẳn sẽ xoay mình lao xuống những chiều sâu bóng tối. Trong những căn phòng đổ nát, những kẻ đi cắm trại sẽ đốt lửa đun những chiếc ấm của mình; những cặp tình nhân sẽ tìm nơi trú ẩn ở đó, nằm trên những tấm ván trần; và người chăn cừu cất bữa trưa của anh ta trên những chồng gạch, và gã lang thang nằm ngủ với chiếc áo khoác cuộn quanh người để xua đi cái lạnh. Rồi mái nhà hẳn cũng sẽ sụp đổ xuống; những bụi thạch nam và độc cần sẽ phủ kín những lối đi, bậc thềm và cửa sổ; sẽ đâm chồi nảy lộc, không đồng đều nhưng mạnh mẽ trên ụ đất, cho tới khi một kẻ xâm phạm nào đó, bị lạc đường, chỉ có thể được kể cho nghe câu chuyện bởi một cây loa kèn đuốc nằm giữa những bụi tầm ma, hoặc một mảnh đồ sứ trong bụi độc cần, rằng nơi đây trước kia đã có người từng sống; nơi đây từng có một ngôi nhà.
Nếu chiếc lông chim đã rơi, nếu nó đã đẩy nhẹ mặt cân xuống, toàn bộ ngôi nhà hẳn sẽ lao xuống những chiều sâu để nằm trên lớp cát lãng quên. Nhưng có một lực lượng nào đó đang hoạt động; một cái gì đó không có ý thức cao cho lắm; một cái gì đó đã đảo mắt liếc qua, một cái gì đó đã tập tễnh lắc lư lui tới; một cái gì đó không được thôi thúc bởi một nghi thức trang trọng hay một bài hát nghiêm trang để thực hiện công việc của nó. Bà McNab rên rỉ; bà Bast thở than. Họ đã già; người họ đã cứng đơ; chân họ thì đau nhức. Cuối cùng họ đã tới với những chổi và xô; họ phải làm việc. Đột nhiên, một trong những tiểu thư đã viết: bà Mcnab có thấy rằng ngôi nhà đã sẵn sàng chưa, bà có thực hiện xong việc đó chưa; thực hiện xong chưa; quá là vội vã. Có thể họ sẽ tới đó để nghỉ hè; đã từ bỏ mọi thứ để tới đó lần sau chót; mong rằng sẽ thấy mọi thứ y như lúc họ để lại chúng. Chậm chạp và đau đớn, với chổi và xô, lau chùi, cọ rửa, bà McNab và bà Bast ở lại với sự mục nát điêu tàn; cứu vớt từ cái vũng Thời gian lúc này đang nhanh chóng khép lại bên trên họ khi thì một cái chậu, khi thì một cái tủ chạn; thu hồi lại từ sự lãng quên một sáng nọ tất cả những cuốn tiểu thuyết Waverley và một bộ ấm tách uống trà; và vào buổi chiều phục hồi lại cho mặt trời và không khí một tấm chắn lò sưởi bằng đồng và một đồ lò bằng thép. George, con trai của bà Bast, tìm bắt những con chuột và cắt cỏ. Họ gọi thợ sửa nhà tới. Vào cuộc với tiếng cót két của những chiếc bản lề và tiếng kêu rít của những cái chốt cửa, tiếng gõ đập inh tai vào những đồ gỗ đã trương phồng vì ẩm mục, dường như một cuộc sinh nở khó nhọc nào đó đã diễn ra, khi hai người phụ nữ, khom xuống, đứng lên, rên rỉ, hát hò, gõ đập ồn ào, lúc thì trên thang gác, khi thì dưới tầng hầm. Ôi chao, họ bảo, rõ là một công việc ra trò!
Thỉnh thoảng họ uống trà trong phòng ngủ hay trong phòng đọc sách; ngưng tay vào giữa trưa với bộ mặt lem luốc, và đôi bàn tay già nua của họ co rúm lại, tê rần vì những cái cán chổi. Thả người xuống ghế, họ ngắm nghía khi thì sự huy hoàng đang ngự trị trên những cái vòi nước; khi thì sự chiến thắng có tính chất gay go hơn, từng phần hơn trên những dãy sách dài, trước kia đen bóng như lông quạ, nhưng giờ đây đã bạc phếch, sinh sôi đầy những nấm mốc xanh và những con nhện lén lút đầy bí mật. Một lần nữa, khi cảm nhận hơi ấm của trà trong người mình, chiếc viễn vọng kính lại tự lắp vào mắt của bà McNab, và giữa một vòng ánh sáng, bà nhìn thấy quý ông lớn tuổi đó, gầy như một chiếc que, đang lắc khẽ đầu khi bà ấy đi lên với mớ quần áo giặt, đang trò chuyện với chính mình trên bãi cỏ, bà cho là vậy. Ông ấy chưa bao giờ để ý tới bà. Người thì nói ông ấy đã chết; người thì lại nói bà ấy đã chết. Vậy ai nói đúng đây? Cả bà Bast cũng không biết chắc. Cậu trai trẻ đã chết. Điều đó thì bà chắc chắn. Bà đã đọc tên cậu ta trong báo.
Đã có một người đầu bếp, Mildred, Marian, một cái tên đại loại thế - một người đàn bà tóc đỏ, tính tình nhanh nhẩu hệt như bà, nhưng cũng tốt bụng nữa, nếu bạn biết cách xử sự với bà ta. Họ đã cười to với nhau biết bao lần. Bà ta đã để dành một dĩa xúp cho Maggie; đôi khi là một mẩu đùi lợn muối; dù là chuyện gì thì cũng đã qua rồi. Họ đã sống ổn trong những ngày tháng đó. Họ đã có mọi thứ họ muốn (một cách lém lỉnh, vui vẻ, với tách trà nóng trong bụng, bà lần gỡ cuộn len ký ức của mình trong lúc ngồi trong cái ghế bành đan bằng cành liễu gai cạnh tấm chắn lò của căn phòng dành cho lũ trẻ). Luôn có khá nhiều việc, những người trong cái nhà này, đôi khi có tới hai mươi người ở, và họ rửa ráy tắm giặt cho tới quá nửa đêm.
Bà Bast (bà chưa hề biết họ; vào thời gian đó bà sống ở Glasgow) vừa đặt tách trà của mình xuống vừa tự hỏi, họ treo cái xương sọ lợn lòi trên đó để làm gì nhỉ? Chắc chắn là nó đã bị bắn ở một vùng ngoại quốc nào đó.
Có thể là thế, bà Mcnab nói, tiếp tục rong ruổi với những ký ức của mình; họ có bạn hữu ở những nước phía đông; những quý ông sống ở đó, những vị phu nhân mặc đồ dạ hội; bà đã có lần nhìn thấy họ qua cửa phòng khách, tất cả đang ngồi ăn tiệc tối. Bà dám bảo rằng cả thảy có tới hai mươi người bọn họ với những vàng vòng trang sức, và bà đã đề nghị ở lại để giúp dọn rửa, có thể cho tới sau nửa đêm.
Ái chà, họ sẽ thấy rằng nó đã thay đổi, bà Bast nói. Bà nghiêng người ra ngoài cửa sổ. Bà quan sát George con trai bà đang cắt cỏ. Cũng có thể họ sẽ hỏi, người ta đã làm gì với nó? cứ xem ông già Kennedy được cho là từng đảm nhiệm nó ra sao, và rồi cái chân ông ta đã trở nên rất tệ sau khi ông ta bị té từ trên xe ngựa xuống; và có lẽ đã không có ai suốt một năm hay hơn; rồi tới Davie Macdonald, và có thể hạt giống đã được gửi tới, nhưng ai có thể nói đã bao giờ chúng được gieo xuống hay chưa? Họ sẽ thấy rằng nó đã đổi thay.
Bà quan sát con trai bà cắt cỏ bằng chiếc liềm. Anh là một kẻ rất tuyệt cho công việc - một trong những con người lặng lẽ. Chà, bà cho là họ phải tiếp tục với mấy cái tủ. Họ đứng lên.
Cuối cùng, sau những ngày lao khổ trong nhà, cắt cỏ và đào xới bên ngoài, họ tháo những tấm khăn lau khỏi mấy cánh cửa sổ, khép chúng lại, tra chìa khóa vào khắp cả nhà; cửa trước cũng được đóng sầm lại; mọi việc đã xong xuôi.
Và giờ đây, như thể việc lau chùi quét dọn và cắt xén cỏ đã nhấn chìm nó đi, giai điệu mơ hồ ấy lại cất lên, cái thứ âm nhạc liên miên không dứt mà lỗ tai thoáng nắm bắt được nhưng rồi lại để nó rụng rơi đi ấy; một tiếng chó sủa, một tiếng cừu be be; rải rác không đều, miên man chẳng dứt, thế nhưng theo cách nào đó lại có quan hệ với nhau; tiếng vo ve của một côn trùng, tiếng lao xao của cỏ đã cắt, không tách rời nhưng theo cách nào đó lại phụ thuộc vào nhau; tiếng bay o o của một con bọ hung, tiếng cót két của một cái bánh xe, lớn, nhỏ, nhưng lại liên quan với nhau một cách bí ẩn; những âm thanh mà lỗ tai gắng sức gắn lại chúng lại với nhau và luôn luôn mấp mé với sự hài hòa, nhưng chúng không bao giờ được hoàn toàn nghe thấy, không bao giờ hài hòa trọn vẹn, và rốt cuộc, vào chiều tối, những âm thanh đó lần lượt nối tiếp nhau lịm tắt, sự hài hòa chựng lại, và thinh lặng buông xuống. Với ánh hoàng hôn những đường nét rõ rệt mất đi, và như sương mù đang dâng lên, lặng lẽ giăng giăng, lặng lẽ lan trải, cơn gió hiện ra; thế giới nhẹ nhàng thả lỏng thân hình và nằm xuống ngủ, tối tăm không chút ánh sáng nào, ngoại trừ màu xanh thấm đẫm qua màn lá, hay ánh nhợt nhạt trên những bông hoa trắng trong luống hoa bên cửa sổ.
[Một xế chiều tháng 9, Lily Briscoe nhờ người mang hành lý của mình tới ngôi nhà. Ông Carmichael cũng tới trên cùng một chuyến tàu.]
10.Thế rồi thanh bình thật sự đã đến. Những thông điệp bình an loang như hơi thở từ biển vào bờ cát. Đừng bao giờ phá vỡ giấc ngủ của nó nữa, ru nó sâu hơn vào sự nghỉ ngơi, và khẳng nhận bất cứ những gì mà những kẻ mộng mơ mơ thấy một cách thiêng liêng, mơ thấy một cách thông thái - nó còn thầm thì điều gì khác nữa - Lily Briscoe đặt đầu mình lên chiếc gối trong căn phòng yên tĩnh sạch sẽ và nghe thấy biển. Qua cánh cửa sổ mở, giọng nói về vẻ đẹp của thế gian vọng đến thì thầm, quá khẽ khàng để có thể nghe thấy đích xác những gì nó nói - nhưng có gì là quan trọng nếu như ý nghĩa chỉ giản đơn? Nó đang van nài những người đang ngủ (ngôi nhà đã đầy người trở lại; bà Beckwick đang ở đó, cả ông Carmichael nữa) rằng nếu thật sự họ sẽ không đi xuống bãi biển thì ít nhất cũng nên vén bức màn lên và nhìn ra. Khi ấy họ sẽ thấy đêm tím đang buông xuống; đầu đội vương miện; vương trượng nạm ngọc; và một đứa trẻ con có thể nhìn vào mắt nó như thế nào. Và nếu họ vẫn ngần ngừ (Lily mệt nhoài vì chuyến hành trình và gần như ngủ ngay lập tức; nhưng ông Carmichael vẫn còn đọc sách dưới ánh nến), nếu họ vẫn nói không, rằng vẻ kỳ diệu của nó chỉ là hơi nước, rằng sương còn có nhiều quyền năng hơn nó, và họ thích ngủ hơn; khi đó giọng nói không hề than phiền hay tranh luận mà chỉ khẽ khàng cất lên bài ca của nó. Những lượn sóng vỗ khẽ khàng (Lily nghe thấy chúng trong giấc ngủ); ánh sáng cũng rơi xuống khẽ khàng (dường như chúng đi qua mắt của cô). Và tất cả trông rất giống với những cảnh tượng trước đây, ông Carmichael nghĩ, khép cuốn sách lại.
Thật sự giọng nói lại tiếp tục cất lên, khi những bức màn bóng tối đã trùm lên ngôi nhà, lên bà Beckwith, lên ông Carmichael và Lily Briscoe, khiến họ nằm với nhiều lớp bóng tối trong mắt họ, vì sao không chấp nhận điều này, hài lòng với điều này, bằng lòng và ưng chịu? Tiếng thở dài của biển nhịp nhàng vỡ ra quanh những hòn đảo vỗ về họ; bóng đêm bao trùm họ; không có gì phá vỡ giấc ngủ của họ, cho tới khi những con chim bắt đầu hót và ánh bình minh dệt những giọng hót mong manh của chúng vào sắc trắng của nó, một cỗ xe ngựa nghiến bánh trên đường, một con chó đang sủa đâu đó, mặt trời nhấc những tấm màn cửa lên, phá vỡ tấm mạng trên mắt họ, và Lily Briscoe cựa quậy trong giấc ngủ. Cô nắm chặt lấy tấm chăn như một kẻ đang rơi nắm chặt vào túm cỏ trên bờ vực. Mắt cô mở to. Cô đã lại ở đây rồi, cô nghĩ, ngồi thẳng người lên trên cái giường. Tỉnh thức.