CHƯƠNG I LIÊN TỤC VÀ CÂN XỨNG[5]
A. LIÊN TỤC
Viết là[6] diễn lên giấy những ý nghĩ của ta. Những ý nghĩ đó trong một trường hợp đặc biệt có thể xuất hiện một cách lạ lùng chỉ trong một vài giây.
Một người sắp chết đuối rồi được cứu sống kể lại rằng những trường hợp nguy nhất bao nhiêu cảnh vui, buồn, từ hồi nhỏ đều diễn lại như một khúc phim. Ngay trong đời sống bình thường, mỗi khi óc bị kích thích, như lúc ta diễn thuyết, ý cũng xô đẩy nhau tới thao thao bất tuyệt, ta diễn ra không kịp. Đôi khi nó xuất hiện theo một thứ tự tự nhiên, ta chỉ cần chép lại là thành một đoạn văn hay; nhưng nhiều khi nó chẳng liên lạc gì với nhau cả, hoặc chỉ có một liên lạc rất mơ hồ, phải phân tích kĩ rồi mới nhận ra được. Lúc đó cơ hồ như óc ta nhảy từ ý nọ qua ý kia, lộn xộn, không thứ tự gì cả, ta phải sắp đặt lại.
Không những vậy, nhiều khi nó cũng chưa thành hình nữa, mới chỉ có một tia sáng loé ra rồi vội tắt hoặc chỉ như một bông tiêu đánh dấu con đường suy luận của ta; mới chỉ là những mẩu ý chứ chưa thành trọn một ý, ta phải ghi vội lại những mẩu ý đó bằng một vài tiếng, rồi từ những tiếng này xây dựng nên từng câu, từng đoạn.
Diễn ý tức viết là làm hai công việc đó: sắp đặt lại ý và từ những mẫu ý tạo nên thành đoạn văn, bài văn.
Cùng một ý có thể diễn nhiều cách. Mỗi cách có một công dụng riêng, hợp với một hoàn cảnh riêng và làm cho cái ý ta muốn diễn có một sắc thái riêng. Nhờ vậy mà ngôn ngữ, văn chương mới nhiều vẻ. Chúng tôi xin lấy một ví dụ đơn giản. Khi nói:
a. Anh Xuân bị phạt vì làm biếng.
Cũng một ý đó, có thể diễn như vầy được nữa:
b. Anh Xuân làm biếng nên bị phạt.
c. Thầy giáo phạt anh Xuân vì anh ấy làm biếng.
d. Hễ làm biếng thì bị phạt như anh Xuân.
Trong mấy câu đó, đại thể vẫn là ý: anh Xuân làm biếng và bị phạt, nhưng diễn theo mỗi cách, tư tưởng của tôi có thay đổi. Trong câu đầu, tôi là giảng cái lẽ tại sao anh Xuân bị phạt, trong câu kế, tôi nêu ra cái hậu quả tật làm biếng của anh Xuân, trong câu (c) tôi giảng cái lẽ tại sao thầy giáo phạt anh Xuân. Chúng tôi đã đổi đối tượng không nhắm vào anh Xuân nữa mà nhắm vào thầy giáo, tôi muốn tìm hiểu hành động của ông giáo, trong câu (d) tôi vượt lên trên cả ông giáo và anh Xuân, không xét riêng một người nào cả, đưa ra một lệ chung, lệ đó là làm biếng thì bị phạt.
Bốn cách diễn tả đó, không có cách nào hơn kém cách nào, hễ dùng hợp chỗ thì đắc thế cả. Nhưng mỗi cách diễn phải theo một lối cấu tạo riêng không thể lẫn lộn với nhau được; và phần đầu câu theo một cách diễn nào rồi thì luôn cho tới cuối câu, phải tiếp tục theo lối diễn đó, không thể thay đổi được.
Ví dụ: câu (a) diễn cái quả trước (bị phạt), cái nhân sau (làm biếng), thì ta phải dùng tiếng vì; câu (b) diễn cái nhân trước (làm biếng), cái quả sau (bị phạt) thì ta phải dùng tiếng nên; câu (b) ta không dùng tiếng nên mà dùng tiếng vì thì là viết sai nên chẳng ai hiểu gì cả.
Hoặc như nếu ta viết:
(1) Hễ làm biếng nên bị phạt như anh Xuân.
Nghĩa là nếu đầu câu ta theo lối cấu tạo của câu (d) (Hễ làm biếng) rồi ta không tiếp tục theo lối đó nữa mà theo lối câu (b) (nên bị phạt) thì đầu câu với cuối câu không ăn khớp với nhau, mất sự liên tục trong ý và câu hoá ra hỏng, phạm một lỗi nặng trong phép cấu tạo câu văn.
Chắc độc giả trách chúng tôi là đã tạo ra một trường hợp không khi nào xảy ra để làm ví dụ, vì dù là học sinh tiểu học cũng không dùng sai tiếng hễ và tiếng nên như vậy. Vâng, nhưng đó là chỗ dụng ý của chúng tôi. Không ai viết như câu (1), nhưng chúng tôi đã thấy nhiều người viết như câu (2) dưới đây:
(2) Những kẻ bất tài mà tham quyền cố vị, làm cản trở việc xây dựng đất nước của nhân dân.
Mới đọc câu đó chúng tôi còn thấy thiếu một cái gì. Ý chưa hết sao mà đã chấm hết câu. Những kẻ bất tài mà tham quyền cố vị, làm cản trở công việc xây dựng đất nước của nhân dân thì làm sao? thì có tội với tổ quốc, hoặc thì lại vô tình làm tay sai cho kẻ thù. Nhưng tôi xét kĩ lại thì không phải là thiếu ý, chỉ là thiếu một tiếng thì. Tác giả muốn nói: Những kẻ bất tài mà tham quyền cố vị thì làm cản trở việc xây dụng đất nước của nhân dân.
Trong trường hợp đó, có hai cách cấu tạo. Một là không dùng tiếng mà và thì:
Những kẻ bất tài tham quyền cố vị, luôn luôn làm cản trở việc xây dụng đất nước của nhân dân.
Hai là dùng tiếng mà ở trên thì phải dùng tiếng thì ở dưới.
Phần đầu câu, tác giả dùng cách cấu tạo sau (dùng tiếng mà), rồi tới phần sau tác giả lại dùng cách cấu tạo trước (không dùng tiếng thì). Đó, lỗi ở chỗ đó. Trên dưới không ăn khớp nhau, mất sự liên tục trong ý. So sánh với câu (1) thì lỗi như nhau: không tôn trọng luật liên tục.
*
Luật liên tục đó là một luật rất tự nhiên: nói tới cấu tạo thì phải có liên tục, dựng một câu cũng như dựng một căn nhà, nếu phần nọ không dính với phần kia, phần này không đỡ phần khác để tạo nên một khối thì không thành câu, không thành căn nhà. Luật đó cũng là qui tắc căn bản của văn xuôi, vì văn sở dĩ “xuôi” là nhờ liên tục; đọc lên ta thấy lời văn đi một hơi không vướng chút nào, ý này kéo theo ý sau, tiếng này gợi tiếng khác, trên hô dưới ứng, bổ túc lẫn nhau, và ta có cảm tưởng như trôi theo một dòng sông hoặc tháo sợi trong một guồng chỉ. Ai cũng nhận văn Tô Đông Pha rất hay vì nó tự nhiên mà xuôi y như mây bay nước chảy (hành vân lưu thuỷ).
Luật đó quan trọng đến nỗi nó gần như chi phối cả ngôn ngữ, đọc những chương sau độc giả sẽ thấy rất nhiều lỗi hành văn, phân tích kĩ ra, đều do phạm vào luật đó cả. Hơn nữa nó muốn chi phối cả tinh thần ta, gây trong não ta khuynh hướng này: đọc một câu văn, thấy tác giả bắt đầu diễn theo một lối nào đó thì ta muốn rằng tác giả phải diễn tiếp tục theo lối diễn đó cho tới hết câu; nếu không vậy, nếu tác giả thay đổi cách cấu tạo mà không có lý do chính đáng thì ta thấy bực mình, mặc dù câu văn vẫn sáng sủa, không làm cho ta hiểu lầm. Vậy viết hay nói mà cốt để cho người khác hiểu ý ta thì vẫn chưa đủ, cần gây cho người đọc hay người nghe một cảm giác dễ chịu nữa, mà muốn vậy, lời phải trôi chảy trước hết.
Đọc câu dưới đây, ta thấy nhẹ nhàng, khoan khoái y như được một người rành đường dắt ta đi một hơi tới đích, không lạc lối, không vấp váp, không mệt nhọc chút nào cả:
Nỗi ức hiếp, nỗi căm hờn bị đè nén, bị vùi dập một cách tàn nhẫn bất công trong chín năm trời, một sớm được giải thoát, được cởi mở mà phản ứng chỉ có chừng ấy thì tưởng quần chúng nhân dân Việt Nam năm 1963 này cũng đã tỏ ra hiền lành nhiều lắm, và cũng đã biết tự hạn chế, tự biết kìm hãm sức giận dữ, hung hãn của mình rồi đó.
(Tượng ai đâu phải tượng Bà Trưng – Đông Hồ)
Một câu dài năm hàng như vậy, phân tích ra thì thấy chung quanh một ý chính có hàng chục chi tiết mà tác giả đã khéo sắp đặt ra sao, ta đọc tới đâu hiểu tới đấy liền, khi đáng ngừng thì ngừng, khi cần tiếp thì tiếp, trôi chảy mà sáng sủa, phải là một nhà văn già kinh nghiệm mới viết nổi.
Trái lại câu này trúc trắc mà lại khó hiểu:
(3) Mặc dầu có những lí lẽ mà nhà in Q. nêu lên để bênh vực độc quyền như đảm bảo việc giữ bí mật bằng những nhân viên ưu tú, khả năng không bị thay đổi trong một thời gian lâu dài, thi hành nhanh chóng với công việc cấp thời như tài liệu, ngân sách…, người ta cũng vẫn thấy…
Ta thử tìm xem nguyên do tại đâu. Ta tự hỏi: nhà in Q. bênh vực độc quyền gì? Chắc là “bênh vực độc quyền in tài liệu, sách báo của nó”.
Nếu vậy thì sao không nói rõ ra là để bênh vực chính phủ?
Nhưng lỗi đó không quan trọng bằng lỗi dưới đây. Tác giả trình bày ba lí lẽ để bênh vực độc quyền đó của nhà in Q.:
* đảm bảo việc giữ bí mật.
* khả năng không bị thay đổi.
* thi hành nhanh chóng vài công việc cấp thời.
Vì lí lẽ một và ba, tác giả dùng hai động từ bảo đảm, thi hành, riêng lí lẽ giữa, tác giả dùng một danh từ: khả năng. Khi đọc tới tiếng bảo đảm ta thấy nó là một động từ, thì tự nhiên ta cũng chờ đợi một động từ nữa cho mỗi lí lẽ sau; và ta ngạc nhiên thấy tác giả bỗng đổi lối diễn đó đi, mà dùng một danh từ cho lí lẽ 2, rồi tiếp tới lí lẽ 3 lại dùng trở lại một động từ. Đọc[7] ta thấy trúc trắc, thấy vướng, thấy khó chịu ở chỗ đổi cách diễn đó. Câu văn không xuôi vì thiếu sự liên tục.
Chúng tôi rán tìm xem tại sao tác giả xen một danh từ vào giữa hai động từ như vậy, và tìm không ra; vì không hiểu nghĩa của tổ hợp “khả năng không bị thay đổi”. Nhà in Q. có cái khả năng không bị thay đổi, nghĩa là sẽ tồn tại lâu mà không bị thay đổi, cải tổ ư? Hay là cái khả năng hoạt động của nhà in Q. không bị thay đổi, nghĩa là nhà in có năng suất đều đều, không lên không xuống mạnh? Vì không hiểu tác giả muốn nói gì nên chúng tôi đành chịu không sửa lại câu đó được.
Câu dưới đây cũng mắc lỗi như câu trên, nhưng sáng sủa, nên có thể sửa được:
(4) Điều quan trọng nhất của các kĩ sư ti vệ sinh là cho nước cống chảy đi cách nào ít hại vệ sinh nhất, giảm tới mực tối thiểu sự nhơ bẩn nước sông ngòi và nhiều bảo đảm sức khoẻ cho dân chúng.
Các kĩ sư ti vệ sinh chú ý tới 3 điều:
1. Cho nước sông chảy đi…
2. Giảm sự nhơ bẩn.
3. Nhiều đảm bảo sức khoẻ cho dân chúng.
Tại sao tác giả lại phá sự liên tục đi như vậy, làm cho câu văn hoá ra kênh? Kênh nghĩa là không thăng bằng, chỗ cao chỗ thấp. Câu văn trên tựa như một cái bàn có ba chân, mỗi câu là một điểu tác giả đã dẫn. Hai điều trên đều bằng một động trừ (cho, giảm); cớ sao điều cuối tác giả lại dùng một danh từ (nhiều bảo đảm)? Ta thấy thiếu nhất trí, có sự không đều, nên các cụ hồi xưa gọi là kênh.
Muốn cho hết kênh, chúng tôi nghĩ chỉ cần bỏ tiếng nhiều đi (nó không thêm nghĩa được bao nhiêu) và như vậy bảo đảm thành ra một động từ như cho, giảm[8].
Thiếu liên tục tức là một lỗi, còn một lỗi nữa là cho người đọc tưởng lầm là có sự liên tục, cũng lại là tuyệt lộ.
*
Trong các câu (1), (2), (3) và (4) chúng ta thiếu sự liên tục mà lời văn hoá tối hoặc kênh. Lại có trường hợp câu văn dư sự liên tục mà cũng hoá hỏng.
Xin bạn đọc câu này:
(5) Tính cách khoa học của nền văn minh hiện đại đã được đánh dấu bằng sự phát triển mạnh mẽ của cơ giới chủ nghĩa, sự thành lập thêm nhiều phòng thí nghiệm, sự nâng cao trình độ và sự phức tạp của các chương trình giáo khoa.
Có lẽ tác giả muốn liệt kê ba sự kiện:
1. Sự phát triển của cơ giới.
2. Sự thành lập thêm phòng thí nghiệm,
3. Sự sửa đổi chương trình giáo khoa cho trình độ cao hơn, gồm nhiều môn học.
Nhưng viết như trên thì ta tưởng có tới 4 sự kiện: sự phát triển…, sự thành lập…, sự nâng cao…, sự phức tạp… mà như vậy câu văn cũng hoá kênh như câu (4); vì phức tạp cùng một loại (tính từ dùng làm động từ) với phát triển, thành lập, nâng cao.
Tôi đề nghị sửa:
Tính cách khoa học của nền văn minh hiện đại đã được đánh dấu bằng sự phát triển mạnh mẽ của cơ giới chủ nghĩa, sự thành lập thêm nhiều phòng thí nghiệm, sự sửa đổi chương trình giáo khoa cho nó cao lên và phức tạp thêm lên.
Chúng tôi bỏ bớt một tiếng bằng cho lời được nhẹ hơn và bỏ bớt tiếng trình độ vì nói: “chương trình cao lên” cũng đủ hiều là trình độ của chương trình cao lên rồi. Mặc dầu sửa như vậy, câu văn vẫn còn nặng lắm vì những tiếng “được đánh dấu bằng”, nhưng trong trường hợp này chúng tôi không bàn về phép luyện văn.
Chúng tôi xin dẫn một thí dụ nữa.
(6) Bộ mặt thật sự của sự suy đồi là sự dè dặt, sự ổn định tạm bợ, sự trốn tránh trách nhiệm và sự thật khốc liệt.
Viết như vậy thì người ta có thể hiểu lầm rằng sự thật khốc liệt là bộ mặt của sự suy đồi. Thực ra, tác giả muốn nói: trốn tránh trách nhiệm và trốn tránh sự thật khốc liệt. Lỗi cũng y như câu trên.
Có thể sửa lại như sau:
Bộ mặt thật sự của sự suy đồi là sự dè dặt, sự ổn định tạm bợ, sự trốn tránh trách nhiệm và thực trạng khốc liệt.
Hoặc muốn cho rõ hơn nữa:
Bộ mặt thật sự của sự suy đồi là sự dè dặt, sự ổn định tạm bợ, sự trốn tránh trách nhiệm và sự phủ nhận thực trạng khốc liệt.
Nhưng sửa như vậy rồi, câu văn vẫn hỏng vì nhiều tiếng sự quá.
Trong hai ví dụ (5) và (6), thực ra lỗi không phải là dư sự liên tục; lỗi chỉ là gây cho người đọc một cảm tưởng lầm rằng sự liên tục vẫn còn, khi nó đã mất: mất ở sau tiếng trình độ (câu 5) và sau tiếng trách nhiệm (câu 6). Chúng tôi chỉ cách ngăn sự liên tục đó lại: bỏ một tiếng đi, tiếng sự (sự phức tạp) trong câu (5) và đổi sự thật ra thực trạng trong câu (6).
*
Có khi trái lại phải thêm một tiếng để phá một sự liên tục vô ích có hại, một sự liên tục về hình thức mà không hợp với nội dung, một sự nguỵ liên tục. Một ví dụ khác:
(7) Chịu chết chứ không chịu nhục đó.
Câu này hỏng, nghe không xuôi. Phải viết:
a. Chịu chết chứ không chịu nhục.
b. Chịu chết chứ không chịu nhục như vậy.
c. Chịu chết chứ không chịu cái nhục đó.
Hai câu a và b, chết và nhục đều là tính từ dùng làm động từ, lời văn đi xuôi một hơi.
Câu (7) chết là động từ, đọc tiếp tới nhục ta tưởng nó cũng là một động từ nữa; nhưng đọc tới tiếng đó thì ta mới hiểu rằng nó không phải là động từ mà là danh từ. Điều đó làm cho ta hơi bỡ ngỡ. Vì tác giả đã phá sự liên tục mà không báo trước cho ta biết. Thêm tiếng cái vào, như câu c, ta không bỡ ngỡ nữa.
Nếu độc giả hỏi: tại sao người ta vẫn nói: Nhục đó, tôi không chịu nổi mà chẳng phải dùng tiếng cái để báo trước rằng nhục là một danh từ thì chúng tôi sẽ xin thưa: đó là một vi tế của ngôn ngữ. Khi cần thêm thì thêm, khi không cần thêm thì đừng thêm. Trong câu (7) nhục đứng sau chết, mà chết là động từ nên ta mới có khuynh hướng coi nhục cũng là động từ. Vì vậy mà phải thêm tiếng cái; còn trong câu “Nhục đó tôi không chịu nổi”, nhục đứng ở đầu câu, sau nó có tiếng đó, ta hiểu ngay rằng nó là danh từ, không bỡ ngỡ chút nào cả, nên chẳng cần thêm tiếng cái. Nếu thêm thì cái sẽ có công dụng khác: nó nhấn vào tiếng nhục, làm cho giọng gay gắt hơn lên: “Cái nhục đó, tôi không chịu nổi”. Vi tế chính là ở đó.
Tóm lại, câu văn không nên thiếu sự liên tục; nửa trên theo một cách cấu tạo, rồi nửa dưới bỏ cách cấu tạo đó mà dùng cách cấu tạo khác như ở ví dụ 1 và 2; hoặc trong khi liệt kê, theo một lối này, dùng động từ chẳng hạn, rồi lại theo một lối khác, dùng một danh từ chẳng hạn, ví dụ 3 và 4.
Nhưng cũng không nên dư sự liên tục, nghĩa là làm cho độc giả lầm tưởng rằng sự liên tục vẫn còn khi nó đã mất. Trong trường hợp này, có khi ta phải bỏ đi một vài tiếng (ví dụ 5, 6); có khi ta phải thêm một vài tiếng (ví dụ 7) để phá sự liên tục đó mà làm cho lời văn hoá xuôi hơn, trôi chảy hơn.
Như chúng tôi đã thưa, luật liên tục chi phối cả phép viết văn, nó còn nhiều tác dụng nữa mà chúng tôi sẽ xét trong những chương sau. Muốn cho câu văn trôi chảy, sáng sủa, thì ta phải tôn trọng nó, khéo áp dụng nó. Tuy nhiên, văn mà lúc nào cũng giữ một lối phô diễn duy nhất thì đọc lên sẽ chán, cho nên đôi khi ta phải phá luật liên tục cho giọng văn thay đổi, người đọc mới ngạc nhiên, thích thú.
Nhưng đó thuộc về nghệ thuật gây ấn tượng, nghệ thuật viết văn rồi, vượt ra ngoài phạm vi cuốn sách này, nên chúng tôi không đem ra phân tích, chỉ xin dẫn ra đây hai ví dụ để độc giả tiêu khiển sau khi đọc những trang khô khan trên:
1. Về phẩm (của thơ đời Đường) thì ta thấy có đủ vẻ: có cái đẹp bi hùng, có cái đẹp thanh nhã; có khi rườm rà mà quý, có khi giản dị mà đủ, lời thì có hạn mà ý thì vô cùng; có thi nhân ca ngợi thú ẩn dật, núi xanh mây trắng, có tác giả lại than khóc loạn ly, máu đỏ xương khô; cảnh bão tuyết ở biên tái có, cảnh yến tiệc ở thâm cung có; đây là một thiếu nữ ngắm liễu mà nhớ chồng, kia là một tư mã nghe ca mà than phận; nào là tiếng trống kèn vang động ngoài biên ải, nào là tiếng tùng tiếng bách rì rào trong núi mây…; cả một xã hội thịnh cực rồi suy cực của đời Đường, cả ngàn phong cảnh huyền ảo của Trung Quốc hiện lên trên những vần thơ[9] hoặc phóng túng hoặc theo luật, hoặc trường thiên, hoặc tứ tuyệt (…)
Câu dài quá, chúng tôi đã cắt bớt sáu hàng cuối. Chúng ta thấy sự liệt kê luôn luôn thay đổi, chứ không giữ hoài một hình thức, không xuôi hoài theo một chiều: có cái…, có khi…, có thi nhân…, rồi đột ngột chuyển ra cảnh…, có, đây là…; nào là…; nhờ phép biến chuyển mà tác giả gây được cho ta cái cảm tưởng rằng thơ Đường có rất nhiều vẻ.
Trong ví dụ dưới đây, cũng có phá sự liên tục, tác giả đã theo một sự liên tục khác, xem hai đoạn trích dẫn vào giữa một câu dài, thành thử vừa có một sự biến chuyển tự nhiên mà đột ngột, vừa có một sự cân xứng:
2. Cuộc đời rất dài, non một thế kỉ của Léon Tolstoi, một cuộc đời phú quí vinh quang rất mực, có lúc hạnh phúc tràn trề đến như nghẹt thở; nhưng mâu thuẫn, bi đát cũng rất mực, có lúc đau khổ, não nùng đến nỗi ông phải thốt ra lời chua chát này: “Tôi rán khuyếch trương điền sản của tôi, rồi thì sao? rồi thì tôi chết. Tôi xuất bản “Chiến tranh và hoà bình” để cầu danh vọng, rồi thì sao? Tôi nuôi con tôi để làm gì? Để sau này nó cũng chết như tôi, và chết rồi là hết, có còn chăng là còn những con giòi lúc nhúc và một xú khí nôn ruột”; một cuộc đời kiêu hãnh và căn thù và phẫn nộ, chống với gia đình, với xã hội, nhất là với bản thân, mạt sát cả triều đình, cả giáo hội, cả nền văn minh của nhân loại, mạt sát thậm tệ cả chính mình: “Tôi đã giết người ở mặt trận…, tôi đã cờ bạc, điếm đàng…, nói dối, ăn cắp, tham lam, không có tội nào tôi không mắc phải… Ai cũng có quyền mắng tôi là thằng gian trá, trách tôi là nói mà không làm…”; cuộc đời dông tố của văn hào bậc nhất của châu Âu được khắp thế giới ngưỡng mộ như một vị á thánh đó, chúng tôi đã có dịp chép lại trong cuốn “Gương danh nhân” nên ở đây chỉ xin giới thiệu sơ sài sự nghiệp văn chương của ông thôi.
B. CÂN XỨNG
Văn chương Việt Nam thời xưa rất trọng sự cân đối: chẳng những trong thơ, phú, văn biền ngẫu, ngay cả trong tản văn, các cụ cũng cố gò bó cho những vế đối nhau để ngâm lên được du dương. Lối đó bó buộc quá làm cho người viết khó diễn được hết ý, nhiều khi quá chú trọng đến hình thức, thành thử nhiều câu rất kêu mà rỗng, cứ vế trên có “gió sớm” “hoa thơm buổi sáng”, có “lai láng tình thơ”, thì chẳng đọc tiếp cũng biết ngay rằng vế dưới thế nào cũng có “mây chiều” “trăng tỏ ban đêm”, có “nỉ non tiếng dế”…
Ngày nay chúng ta ưa sự tự nhiên hơn, nhưng nhiều người lại mắc cái tật ngược lại là cẩu thả, chẳng cần sắp đặt lời và ý, mà câu văn hoá rườm, luộm thuộm hoặc khó hiểu vì thiếu sự cân xứng tối thiểu. Lỗi đó, chúng tôi thường nhận thấy ở những nhà văn lớp mới, còn những nhà văn lớp cũ, nhất là những nhà từng làm thơ luật thì rất ít khi mắc phải. Cho nên, chúng tôi nghĩ rằng ở ban văn chương, khi giảng về thơ, phú, câu đối, thầy giáo nên rút ra một ít nguyên tắc trong phép viết văn cho cân xứng để giảng cho học sinh. Như vậy, môn cổ văn nới thực sự có lợi.
Có khi vì dùng dư một vài tiếng mà văn thiếu cân xứng.
Ví dụ:
(1) Trên phương diện lí thuyết, chế độ dân chủ căn cứ trên hai quan niệm: chủ quyền thuộc về toàn dân và nguyên tắc mọi người bình đẳng.
Tiếng nguyên tắc đó dư. Nếu muốn dùng nó thì phải dùng thêm nó một lần nữa ở trước tổ hợp “chủ quyền thuộc về toàn dân” thì câu mới cân xứng, nhưng như vậy chỉ rườm chứ không ích gì vì ở trên đã có những tiếng “hai quan niệm” rồi.
Vậy muốn sửa, ta chỉ cần bỏ tiếng nguyên tắc đó đi mà viết:
Trên phương diện lí thuyết, chế độ dân chủ căn cứ trên hai quan niệm: chủ quyền thuộc về toàn dân và mọi người bình đẳng.
Có thể rằng vì vô tình hay hữu ý tác giả đã thêm tiếng nguyên tắc cho có sự cân xứng vế số chữ giữa hai tổ hợp “chủ quyền thuộc về toàn dân” và “nguyên tắc mọi người bình đẳng” (mỗi tổ hợp gồm sáu chữ). Nếu muốn vậy thì thêm những tiếng với nhau hoặc đều được: “mọi người bình đẳng với nhau”, “mọi người đều được bình đẳng”, chứ không thêm tiếng nguyên tắc mà câu văn sẽ kênh.
Nhưng chúng tôi nghĩ văn cốt đạt ý, sự cân xứng về số chữ, không phải là điều quan trọng. Có đáng ngại chăng là bỏ tiếng nguyên tắc đi thì câu văn hơi thọt, và để tránh lỗi đó, ta có thể đảo ngược lên.
“…mọi người bình đẳng và chủ quyền thuộc về toàn dân”.
Chúng tôi chưa gặp trường hợp nào vì thiếu một vài tiếng mà câu văn mất cân xứng. Trường hợp đó có thể xảy ra lắm, chừng nào kiếm được, chúng tôi sẽ bổ túc sau.
*
Không khéo lựa tiếng cũng có thể là cho văn mất cân xứng.
Ví dụ:
(2) Do đó, một vụ Cuba làm hồi hộp cả thế giới chỉ có thể xảy ra tuỳ một phần rất lớn ở thái độ của Anh, Pháp và các nước đồng minh của Mĩ hơn là do nơi thái độ của Cuba.
Trên đã nói tuỳ một phần rất lớn thì ở dưới phải nói tuỳ một phần rất nhỏ thì như vậy phải bỏ tiếng hơn đi. Hoặc muốn dùng tiếng hơn và do nơi, ở dưới, thì ở trên cũng phải dùng do nơi.
Vậy muốn cho cân xứng phải viết:
Do đó, một vụ Cuba làm hồi hộp cả thế giới sở dĩ xảy ra, một phần lớn là do thái độ đồng minh của Mĩ, đặc biệt là của Anh, Pháp, một phần rất nhỏ là do thái độ của Cuba.
Hoặc giản dị hơn:
Do đó, Cuba làm hồi hộp cả thế giới có thể xảy ra là do thái độ đồng minh của Mĩ hơn là do thái độ của Cuba.
Đại ý cũng vậy mà câu rút ngắn đi được một phần ba.
*
Lời chỉ là diễn tư tưởng. Nếu tư tưởng sai thì nhiều khi câu văn cũng hoá hỏng.
Câu dưới đây:
(3) Người ta thấy rằng nhiều thư viện công cộng không giúp ích vào sự thịnh vượng của nghề xuất bản bằng việc mở mang giáo dục.
Lời tuy trôi chảy, nhưng chưa làm cho ta thoả mãn, phân tích ra thì chỉ tại tác giả đã tư duy sai.
Viết như trên thì chúng ta có thể hiểu rằng một số nhiều thư viện công cộng không giúp ích cho sự thịnh vượng của nghề xuất bản, nhưng với một số ít đã giúp vào sự thịnh vượng đó. Thực ra tác giả chỉ muốn nói:
Người ta thấy rằng sự thành lập nhiều thư viện công cộng không giúp ích vào sự thịnh vượng của nghề xuất bản bằng việc mở mang giáo dục.
Nghĩa là:
Muốn cho nghề xuất bản thịnh vượng thì xây dựng nhiều thư viện không bằng mở mang nhiều trường học.
Vậy nếu tác giả chịu suy nghĩ cho đúng thì câu văn chẳng những sáng sủa hơn mà còn cân xứng nữa.
*
Nhưng nguyên do chính của lỗi thiếu cân xứng là chúng ta thường viết sau quên trước, trên dùng một lối phô diễn rồi dưới dùng một lối khác.
- Lỗi nhỏ thì như câu này:
(4) Văn học được hình dung bằng một thân cây: lá là những tập bút ký và những tập kỉ yếu; các bản hiệu đính, các tập chuyên luận là những cành.
Trên đã viết lá là thì dưới sao không viết cành là…? Tác giả muốn tránh những lỗi đơn điệu ư? Không phải lúc.
- Mà lỗi nặng thì như:
(5) Nhưng chính vì chủ trương vô chính phủ giả định toàn người quân tử bị ép mình vào kỉ luật và sự thừa thải sản vật, nó thành không tưởng.
Không rõ độc giả phải suy nghĩ bao lâu mới hiểu được câu đó, tôi xin thú thật đã phải đọc lại hai lần, mất trên một phút đấy. Cứ mỗi trang mà gặp ba câu như vậy thì đọc sách hết là một cái thú rồi!
Tác giả muốn nói: chủ trương vô chính phủ chỉ là một không tưởng vì chính nó dựa trên hai giả thuyết này:
1. Trong xã hội chỉ có toàn những người quân tử biết tự ép mình vào kỉ luật.
2. Trong xã hội (hay trong thiên nhiên) lúc nào cũng thừa thãi sản vật.
Tìm hiểu như vậy rồi, chúng tôi thấy câu trên tối nghĩa vì thiếu cân xứng: giả định thứ nhất được trình bày theo một lối (toàn người quân tử: có toàn người quân tử: động từ (verbe) với bổ từ (complément)), giả định thứ nhì lại trình bày theo một lối khác (sự thừa thãi sản vật: danh từ (nom)).
Nếu trước sau, trình bày theo một lối chẳng hạn:
Nhưng chính vì chủ trương vô chính phủ giả định rằng trong xã hội có toàn người quân tử tự ép mình vào kỉ luật mà sản vật thì lúc nào cũng thừa thải cho nên nó thành một không tưởng.
thì câu sẽ cân xứng mà dễ hiểu hơn.
Trong hai ví dụ (4) và (5) ở trên lỗi cũng tựa như lỗi trong ví dụ ở phần liên tục: thiếu cân xứng và thiếu nhất trí mà thiếu nhất trí thì cũng là thiếu liên tục.
- Chúng tôi xin dẫn thêm một thí dụ đặc biệt nữa:
Đầu phần này, chúng tôi đã nói ngày nay chúng ta không còn ưa lối văn biền ngẫu, đối nhau từng vế, từng chữ nhưng vì nhu cầu chính trị, chúng ta phải dùng biểu ngữ, khẩu hiệu. Biểu ngữ và khẩu hiệu phải gọn, phải cô, phải đập vào óc độc giả, hoặc thính giả; muốn vậy nhiều khi người ta vô tình hay cố ý, dùng phép đối của cổ nhân, mà dùng dở.
Tỉ dụ như hàng này, trình bày như hai vế của một câu đối:
(6) Lợi dụng công nghiệp của những người yêu nước, bọn phản động phản bội tổ quốc.
Tham gia cách mạng dân tộc để hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nước nhà mau giàu mạnh.
Hai câu trên có vẻ như đối vì nửa trên mở đầu bằng “lợi dụng”, nửa dưới mở đầu bằng “tham gia”: động từ đối với động từ, trắc với bằng. Nhưng thật ra đây không phải câu đối: câu trên 16 chữ, câu dưới 18 chữ. Vậy thì ta phải coi như một câu thường.
Câu trên, chủ ngữ là “bọn phản động”. Đọc tới câu dưới, do khuynh hướng liên tục mà chúng tôi trình bày ở trên, có người cũng tưởng chủ ngữ là “bọn phản động” nữa. Sự thực thì khác hẳn: chúng ta phải tham gia. Vì vậy, suy nghĩ một chút rồi mới hiểu ý nghĩa của câu khẩu hiệu.
Độc giả sẽ bảo: “Nhưng sao trong các câu đối thường thấy vế trên nói về một người, vế dưới lại nói về một người khác?”
Vâng, nếu là câu đối thì được. Ta thử xét cặp luận này trong bài Kiều đi thanh minh của Chu Mạnh Trinh:
Dưới hoa nép mặt gương lồng bóng,
Ngàn liễu rung cương sóng gợn tình.
Hai câu đều không trỏ đích danh ai cả, nhưng câu trên rõ là nói về Kiều, câu dưới nói về Kim Trọng.
Lại như hai câu này:
Khéo khôn ai cũng tranh phần được,
Trong sạch ta thời giữ mực thường.
của Nguyễn Công Trứ trong bài Khuyên người đời, thì câu dưới trỏ rõ tác giả, câu trên trỏ rõ mọi người khác.
Phép đối như vậy: hoặc trỏ rõ thì trỏ rõ hết, hoặc không trỏ rõ thì không trỏ rõ một ai.
Còn hai câu biểu ngữ dẫn ở trên, câu trên trỏ rõ “bọn phản động”, câu dưới không trỏ rõ ai: cho nên không thể xét cách cấu tạo của nó theo phép đối được.
Vậy thì nên sửa biểu ngữ đó ra sao? Chúng tôi nghĩ cứ đặt ngay chủ ngữ ở đầu mỗi câu, mà lại sáng nghĩa hơn cả:
- Bọn phản động phản bội tổ quốc, lợi dụng công nghiệp của những người yêu nước.
- Toàn dân tham gia cách mạng dân tộc để hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nước nhà mau giàu mạnh.
Sau cùng chúng tôi muốn xét qua một trường hợp nữa:
(7) Câu: Lớp đầy trẻ em
nghe nó làm sao ấy, có vẻ không thuận tai.
Nói: Lớp học đầy trẻ em.
hoặc: Trong lớp đầy trẻ em.
hoặc: Lớp đầy trẻ…
thì lại “nghe được”.
Hình như đó là vấn đề cân xứng về số tiếng. Ta không muốn trước tiếng đầy (mà ta coi như cái trụ của câu) có một tiếng lớp, mà sau nó lại có hai tiếng trẻ em. Ta muốn trước và sau nó đều có hai tiếng (Lớp học đầy trẻ em, Trong lớp đầy trẻ em) hoặc đều có một tiếng (Lớp đầy trẻ).
Ý riêng của chúng tôi như vậy, không rõ ý độc giả ra sao?
[5] Trong bản Văn Nghệ, nhan đề của chương I là: Luật cân xứng và nhan đề của chương II là: Cân xứng cũng có khi là liên tục. (Goldfish).
[6] Là: sách in là “và”. Về sau, khi gặp những chỗ sai, tôi cũng sửa lại nhưng sẽ không chú thích nếu như thấy không cần thiết. (Goldfish).
[7] Sách in là “Đó”, tôi tạm sửa lại thành “Đọc”. (Goldfish).
[8] Trong câu đó vẫn còn một lỗi nữa: không ai nói: “điều quan trọng của các kĩ sư” để diễn cái ý này: điểm mà các kĩ sư chú trọng tới nhất. Có thể viết: Điểm quan trọng nhất theo các kĩ sư…
[9] Trong bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, sau “những vần thơ” còn có 4 chữ sau đây: “muôn hình vạn trạng” (Goldfish).