← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V THIẾU - DƯ VÀ Ý TƯỞNG LỘN XỘN[46]

A. THIẾU - DƯ

Đọc một câu văn thiếu hoặc dư ít nhiều phần tử về ngữ pháp, chúng ta luôn có cảm giác khó chịu, đôi khi bực mình. Vậy mà ta thấy người ta thường mắc lỗi đó: trong khoảng hai trăm câu chúng tôi đã thu thập được, có tới hai mươi bảy câu hoặc thiếu, hoặc dư một vài tiếng. Chúng tôi nghĩ rằng công việc phân tích câu rất có lợi cho học sinh, sinh viên, họ tập chú ý cho tác dụng của mỗi từ trong câu, mà nhận được từ nào cần thiết, từ nào vô dụng. Nhưng tiếc thay, những sách ngữ pháp của ta đa số phỏng theo Pháp, không giữ đúng tinh thần tiếng Việt, phân tích câu một cách vô lí, nhiều giáo sư thấy vậy chỉ dạy qua loa cho đủ chương trình, rồi mỗi ngày một thêm chểnh mảng, rút cuộc là ngay trong các kì thi trung học, đại học, người ta cũng đồng tình không nhắc tới việc phân tích đó nữa.

Chúng tôi phân tích được năm trường hợp thiếu hoặc dư.

1. Trường hợp về chủ ngữ:

Chúng tôi nhận thấy các nhà Nho như Phan Kế Bính, Tản Đà, Nguyễn Đỗ Mục… thường bỏ bớt chủ ngữ, chỉ khi cần thiết mới dùng, thành thử văn của họ có vẻ gọn. Tôi xin dẫn một câu của Tản Đà:

Này ai ơi! Thử trèo bức tường đồ, trông quãng đường xa, mồ con mã lớn, chỗ năm chỗ ba, chẳng quan thời dân, chẳng trẻ thời già, trước cũng người cả, bây giờ đã ma! Nào tiền nào của, nào cửa nào nhà, nào con nào vợ, nào lợn nào gà, nào câu đối đỏ, nào mành mành hoa, nào đâu nào cả? Mà chỉ thấy sương mù nắng dãi với mưa sa!

Những động từ trèo, trông, thấy đều không dùng chủ ngữ. Lại thêm những vế “chẳng quan thời dân, chẳng trẻ thời già, trước cũng người cả, bây giờ đã ma!” không dùng cả động từ nữa, do đó cũng không có chủ ngữ.

Hình như sự ít dùng chủ ngữ là một xu khuynh, một tính cách của Việt ngữ, Hoa ngữ. Từ khi chịu ảnh hưởng của Pháp, chúng ta mới dùng chủ ngữ nhiều hơn. Viết như chúng tôi ở mười hàng trên: “Tôi xin dẫn một câu của Tản Đà”, có lẽ cũng là do ảnh hưởng của Pháp; các cụ hồi xưa chắc bỏ tiếng “tôi” mà chỉ viết: “Xin dẫn một câu của Tản Đà”.

Trong câu đó giữ chủ ngữ cũng được mà bỏ đi cũng được, giọng có khác một chút mà ý vẫn đủ, lời vẫn sáng. Nhưng nhiều trường hợp thiếu chủ ngữ thì câu văn không xuôi hoặc thiếu nghĩa.

Ví dụ:

(1) Khoa học thường được hình dung bằng một cây mà đến nay vẫn còn đúng.

Cái gì đến nay vẫn còn đúng? Khoa học chăng? Nhưng khoa học vẫn còn đúng là nghĩa làm sao? Chắc tác giả muốn nói:

Từ lâu người ta đã dùng một thân cây để hình dung khoa học, sự hình dung đó bây giờ vẫn còn đúng.

(2) Người biết Yoga nghe thầy giảng cũng khác không biết Yoga.

Câu này mới đọc, chúng tôi không hiểu gì cả, suy nghĩ một chút rồi mới thấy rằng chỉ thiếu từ người trước những tiếng không biết Yoga.

(3) Sau khi mãn khoá họ vẫn giữ liên lạc với nhà trường để hướng dẫn họ trong các vấn đề quá chuyên môn.

Viết như vậy (hướng dẫn không có chủ ngữ) thì ta phải hiểu rằng chính họ hướng dẫn họ: vô lí. Tác giả muốn nói: “…để nhà trường hướng dẫn họ” nhưng có lẽ ngại lặp lại tiếng nhà trường nên bỏ phắt nó đi mà câu văn hoá vô nghĩa. Chỉ cần thêm một tiếng được và bớt tiếng họ hoá ổn:

Sau khi mãn khoá họ vẫn giữ liên lạc với nhà trường để được hướng dẫn trong các vấn đề quá chuyên môn.

(4) Thực dân không thực sự muốn khai hoá và không còn ai tin vào lời nói hay đẹp của họ chỉ là giả dối.

Không ai nói: Tôi tin vào anh là rất tốt. Vì như vậy là cả tổ hợp “tôi tin vào anh” là chủ ngữ của động từ “là rất tốt” (tính từ dùng làm động từ) câu văn hoá vô nghĩa. Cho nên phải nói: “Tôi tin vào anh, anh rất tốt, hoặc: Tôi tin rằng anh rất tốt.

Vậy câu trên cũng nên sửa lại:

Thực dân không thực sự muốn khai hoá và không còn ai tin vào lời nói hay đẹp của họ, những lời đó chỉ là giả dối.

Hoặc: “…ai cũng cho rằng lời nói hay đẹp của họ chỉ là giả dối”.

Còn nhiều câu thiếu chủ ngữ nữa, nhưng chúng tôi nghĩ đưa ra mấy ví dụ trên cũng đủ. Trường hợp dư chủ ngữ ít xảy ra hơn, đều do tác giả muốn dùng một câu khá dài, viết đến đoạn sau mà quên mất đoạn trước.

Ví dụ:

(5) Để hưởng ứng lời kêu gọi thiết tha ấy, ai là người đang hưởng an ninh nhờ thành kiên cố là tinh thần chiến đấu và thân xác chiến sĩ, ai nấy có phận sự phải tỏ lòng tri ân thực tế bằng sự giúp đỡ gia đình tử tiết là đại ân nhân của mỗi người được hưởng phước sống dưới trời Việt Nam bây giờ.

Câu trên rất lúng túng (nhờ thành kiên cố là tinh thần chiến đấu… giúp đỡ gia đình tử tiết là đại ân nhân… hai tiếng “là” đó dùng rất vụng, rồi “đã hưởng an ninh” lại “hưởng phước sống” rườm lời, cần phải viết lại hết), ở đây chỉ nêu cái lỗi dư chủ ngữ: đã ai là người rồi lại ai nấy. Nên bỏ hai tiếng ai nấy di mà thay đều vào.

(6) Giai thoại làng Nho tuy có một vài tiểu tiết chưa hoàn hảo, nhưng đại thể vẫn là một quyển sách sưu tầm giá trị, chẳng những dùng để giải trí thích thú, làm tài liệu thơ văn quí báu, mà nhất là “Giai thoại làng Nho” đã truyền được tinh thần thanh cao của lớp sĩ phu thời trước để chế ngự đời sống vật chất quay cuồng hiện nay.

Câu này đỡ lúng túng hơn câu trên, nhưng tôi không hiểu tác giả lặp lại Giai thoại làng Nho làm gì cho dư một chủ ngữ? Giá cắt mấy tiếng đó đi mà viết: “…chẳng những dùng để giải trí thích thú, làm tài liệu văn thơ” thì sẽ gọn hơn[47].

2. Trường hợp về bổ từ:

Chúng tôi nhận thấy rằng trong số những tiếng thêm nghĩa cho một động từ, những tiếng cần thiết nhất, tức bổ từ (có nó thì động từ mới trọn nghĩa) thì lại thường thiếu và không bao giờ dư. Những câu trong đoạn 2 này mắc lỗi thiếu bổ từ:

(7) Áp dụng những nguyên lí căn bản ấy vào nhiệm vụ tu luật của các nhà lập pháp, vào qui chế phẩm phán, vào tổ chức luật sư đoàn, tạp chí “Luật học”, “Kinh tế” cũng như “Quê hương” cũng đã nhiều lần bàn đến.

Bàn đến cái gì? Đến việc (hay cách) áp dụng những nguyên lí căn bản? Nếu vậy thì phải viết:

Tạp chí “Luật học”, “Kinh tế” cũng như tạp chí “Quê hương” đã nhiều lần bàn đến việc (hay cách) áp dụng những nguyên lí căn bản ấy vào nhiệm vụ tu luật của nhà lập pháp, vào qui chế phẩm phán và tổ chức luật sư đoàn.

(8) Người ta mua xe hơi du lịch ngoại quốc hạng thực sang, mua các biệt thự tại đô thị lớn, xa những khu bình dân – hoặc chạy trốn ra ngoại quốc và kí thác bằng ngoại tệ trong các ngân hàng Âu Tây.

Kí thác là gửi. Nói đến ngân hàng và ngoại tệ thì ai cũng hiểu là gửi tiền rồi, nên câu này không tối nghĩa. Nhưng kí thác là một động từ cần có bổ từ (kí thác cái gì) mà ở đây không có bổ từ cho nên câu văn có lỗi. Muốn cho đủ thì phải thêm: kí thác của cải (tài sản) bằng ngoại tệ… nhưng chúng tôi nghĩ cứ viết gọn lại là kí thác ngoại tệ (bỏ tiếng bằng đi) cũng không ai trách là thiếu nghĩa.

(9) Khi chấp nhận một quan niệm về kinh tế học khác quan niệm tôi đã lựa chọn, người ta nhìn những quan hệ giữa kinh tế học và đạo đức học dưới một ánh sáng khác hẳn. Cuộc tranh luận gần đây giữa các kinh tế gia Ý Đại Lợi… đã chứng tỏ rõ ràng.

Chứng tỏ rõ ràng cái gì?

(10) Bởi vậy, người ta hiểu ngay khi thấy người Hi Lạp và người La Mã phổ biến tư tưởng bằng các đọc trước công chúng hơn là lối đọc cá nhân.

Động từ hiểu có khi không cần bổ từ để bổ túc. Chẳng hạn một anh bạn giảng cho tôi một điều; nghe xong tôi gật đầu, đáp: “hiểu rồi”, nghĩa là hiểu lời anh giảng rồi. Nhưng trong ví dụ trên, “hiểu” dùng theo một nghĩa hơi khác: người ta hiểu ngay rằng =[48] người ta không lấy làm ngạc nhiên. Cách dùng đó hình như mượn của Pháp, chưa được phổ biến, cho nên chúng tôi vẫn thấy lạ tai, thấy như thiếu một bổ từ, hiểu cái gì? Và theo chúng tôi, nên viết:

Bởi vậy, người ta không ngạc nhiên khi thấy người Hi Lạp và người La Mã phổ biến tư tưởng bằng các đọc trước công chúng hơn là lối đọc cá nhân.

Hoặc:

Bởi vậy, người ta hiểu tại sao người Hi Lạp và người La Mã…

Tác giả đưa ra bốn ví dụ từ (7) đến (10) trong đoạn 2 này đều là của[49] những người có trình độ khá cao về tiếng Pháp. Viết tiếng Pháp chắc chắn họ không khi nào mắc những lỗi thiếu bổ từ (complément d’objet) đó, mà sao viết tiếng Việt lại như vậy, đó là điều chúng tôi không hiểu nổi.

3. Trường hợp thuộc về quan hệ từ:

Hồi chúng tôi học lớp nhất ban tiểu học[50], thầy dạy Việt văn của chúng tôi, một cụ cử Hán học, ra lệnh không được dùng trên năm tiếng thì trong một bài luận khoảng một trang rưỡi, học trò nào không tuân lệnh sẽ phải “ăn trứng ngỗng”.

Lệnh rất nghiêm, nên viết xong rồi, chúng tôi không bao giờ quên đọc lại, đếm kĩ xem có mấy tiếng thì, nếu quá bốn tiếng - chúng tôi tự hạ mức tối đa xuống như vậy cho thêm cẩn thận – thì cứ gạch phứa đi, chẳng phân biệt khi nào nên khi nào không. Tôi không biết văn chúng tôi nhờ vậy mà gọn hơn không, chỉ biết rằng từ đó cụ bớt gắt.

Trong khi nói chúng ta không có thì giờ suy nghĩ kĩ, sắp đặt tư tưởng nên thường dùng rất nhiều quan hệ từ: thì, mà… Nhưng viết văn mà cũng mắc lỗi đó thì quả thực là cẩu thả.

Tuy nhiên, nhiều khi thiếu những tiếng đó cũng không được, câu văn sẽ rời rạc như một đống gạch vụn chưa thành một công trình kiến trúc.

Ví dụ:

(11) Sự sản xuất trong nước không gia tăng, sự phát hành tiền tệ có nghĩa là lạm phát.

Hai ý: “sự sản xuất không gia tăng” và “sự phát hành tiền tệ có nghĩa là lạm phát” có liên hệ mật thiết với nhau. Không phải lúc nào sự phát hành tiền tệ cũng có nghĩa là lạm phát, chỉ khi nào sự sản xuất không tăng thì phát hành thêm tiền tệ mới có nghĩa là lạm phát. Vây ta nên thêm tiếng thì

(Sự) sản xuất trong nước mà không tăng thì sự phát hành tiền tệ có nghĩa là lạm phát để cho độc giả nhận ngay ra được – mà khỏi phải đoán – sự liên lạc giữa hai ý với nhau.

(12) Nếu dân chúng đòi hỏi các món hàng xa xỉ, nhập cảng là phương tiện duy nhất.

(13) Nếu người ta nhắc lại những xúc phạm thần thánh và bội lời thì đã xảy ra về khoản giá cả, Montchrétien trả lời: đó là tật xấu của con người, không phải là của khoa thương mại.

Cả hai câu trên đều dùng tiếng nếu mà không dùng tiếng thì (thì nhập cảng; thì Montchrétien trả lời) cho nên lỗi nghe như rời rạc.

Trong thơ, vì luật bằng trắc, vì số tiếng trong mỗi câu có hạn, chúng ta có thể bỏ tiếng thì đi, ví dụ:

Chấp kinh nếu chẳng tòng quyền,

Lỡ khi muôn một, chu tuyền được sao? (Nhị Độ Mai)

Hoặc:

Nếu mà có bảy có ba,

Làm chi đến nỗi xót xa trong lòng (ca dao)

Nhưng trong văn xuôi, sau tiếng nếu nên dùng tiếng thì cho thêm phần trôi chảy.

Nếu và thì đi đôi với nhau thành một cặp hô ứng, nếu là hô mà thì là ứng. Luật hô ứng trong trường hợp đó không thật nghiêm khắc vì ta có thể chỉ hô mà không ứng, ví dụ:

Nếu trời mưa tôi sẽ ở nhà.

Ta thêm tiếng sẽ, mà bỏ được tiếng thì.

Ta lại có thể bắt chước lối hành văn của Pháp, đảo ngược lại:

Tôi sẽ ở nhà nếu trời mưa.

Trong trường hợp này “hô” đặt dưới, như vậy thì nếu có “ứng” thì “ứng” tất phải ở trên, mà “ứng” không thể nào ở trên được, vì lẽ không khi nào chưa “hô” đã “ứng”; cho nên phải bỏ “ứng”, nghĩa là bỏ tiếng “thì” mà dùng tiếng “sẽ”. Đã có một số người bỏ luôn tiếng sẽ:

Tôi ở nhà nếu trời mưa.

Kể ra như vậy cũng không sao; lâu rồi sẽ quen tai.

Nhưng còn nhiều cặp hô ứng luôn phải đủ đôi, không thể thiết một.

Ví dụ:

(14) Những đại diện cho hai chính phủ cố gắng thương thuyết để duy trì an ninh hoà bình bao nhiêu thì cấp dưới cứ quấy như kẻ “vo tròn bóp bẹp” làm cho tình thế đã nghiêm trọng càng thêm nghiêm trọng.

Tiếng bao nhiêu có thể dùng một mình, và có nghĩa là không biết nhiều chừng nào:

Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,

Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non (ca dao).

Hoặc:

Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành (Nguyễn Du[51]).

Trong ví dụ (14) bao nhiêu dùng theo một lối khác, phải đi với bấy nhiêu cho thành một cặp hô ứng; và ta phải sửa lại như sau:

Những đại diện cho hai chính phủ cố gắng thương thuyết để duy trì an ninh hoà bình bao nhiêu thì cấp dưới cứ quấy như kẻ “vo tròn bóp bẹp” bấy nhiêu làm cho tình thế đã nghiêm trọng càng thêm nghiêm trọng.

cũng như ta không thể nói:

Thầy giáo có giảng bao nhiêu thì học trò cứ đùa giỡn.

mà phải nói:

Thầy giáo có giảng bao nhiêu thì học trò cứ đùa giỡn bấy nhiêu.

Ví dụ trên có hô mà thiếu ứng; hai ví dụ dưới đây có ứng mà thiếu hô:

(15) Như vậy vua chúa can thiệp, nhưng để thúc đẩy sáng kiến tư nhân, chứ không phải để bóp nghẹt sáng kiến đó.

Chúng tôi muốn thêm tiếng tuy trước tiếng can thiệp, cho thành cặp tuy… nhưng.

Như vậy, tuy vua chúa can thiệp, nhưng chính là để thúc đẩy sáng kiến tư nhân, chứ không phải để bóp nghẹt sáng kiến tư nhân.

Trong câu:

(16) Vì sao biết rằng phương pháp đó không hợp thời mà vẫn còn dùng tại các trường tiểu học và trung học.

chúng tôi xin thêm tiếng đã để thành một cặp với mà vẫn còn:

Vì sao đã biết rằng phương pháp đó không hợp thời mà vẫn còn dùng nó ở các trường tiểu học và trung học.

Vì thiếu tiếng đã, cho nên mới đọc được nửa câu chúng tôi tưởng rằng tác giả muốn hỏi: Vì lẽ gì mà biết rằng phương pháp đó không hợp thời? Nên “hô” ngay đi để độc giả biết rằng chưa hết ý mà đợi sẵn một tiếng “ứng”.

4. Trường hợp thiếu và dư nội dung:

Tách biệt hẳn nội dung và hình thức là một việc vô lí. Vì cả hai đều ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng muốn cho có chút thứ tự, chúng tôi phải sắp hai ví dụ dưới đây vào hạng lỗi về nội dung do lẽ tác giả những câu đó suy nghĩ chưa chín nên viết mới sai.

(17) Hiệp hội nào, tư nhân nào, ai là người mang nợ với chiến sĩ xin liên lạc với chúng tôi.

Trên, tác giả nói đến hiệp hội và tư nhân, dưới tác giả nhắc lại, gom lại trong một tiếng ai, mà tiếng này trỏ tư nhân thì được, chứ trỏ hiệp hội thì không được (ta không gọi hiệp hội là ai) cho nên chúng tôi cho là thiếu nghĩa.

Câu dưới đây mắc lỗi thừa ý:

(18) Lí do vong quốc đã có sử gia định công tội, luận nguyên nhân.

Để cho nước mất thì có tội chớ sao có công được? Tiếng công đó dư. Mà luận nguyên nhân của sự vong quốc chớ làm sao luận nguyên nhân được lí do vong quốc. Vì lí do vong quốc đã là nguyên nhân rồi.

Rõ ràng tác giả cứ phóng tay mà viết chứ không suy nghĩ kĩ. Lỗi đó thuộc về nội dung.

5. Sau cùng có vài câu chỉ do ý tưởng chưa được minh bạch mà lời hoá ra tựa như dư, lại tựa như thiếu:

Chẳng hạn:

(19) Nếu cố đi nửa giờ nữa sẽ tới một cánh đồng xanh mướt ngọn lúa.

Mới xét ta thấy dư tiếng ngọn lúa vì ta không hiểu tiếng đó có nhiệm vụ gì trong câu, nó đứng trơ vơ ở cuối câu, không đi được với “cánh đồng” vì không ai nói cánh đồng ngọn lúa, mà cũng không đi được với “xanh mướt”, vì không ai nói: xanh mướt ngọn lúa, mà nói: ngọn lúa xanh mướt hoặc: xanh mướt những lúa (gần đây, 1975-1990, thỉnh thoảng có người cũng nói tương tự)[52] nhưng nếu bỏ nó đi thì câu lại thiếu nghĩa: tác giả muốn cho ta thấy một cánh đồng lúa, chứ không phải một cánh đồng nào khác, chẳng hạn một cánh đồng ngô, cánh đồng cỏ.

Chúng tôi nghĩ nên sửa lại: Sẽ tới một cánh đồng lúa xanh mướt hoặc: Sẽ tới một cánh đồng xanh mướt những lúa thì sẽ ổn.

(20) Nếu văn mà bây giờ tôi tin là người thì tiếng hát xưa kia biết đâu lại không phải là tâm hồn Yêu một chút?

Đã tin rằng “văn tức là người” thì sao lại dùng tiếng “nếu”, vì “nếu” có nghĩa là còn ngờ. Đã bỏ tiếng nếu thì phải bỏ luôn tiếng thì. Vậy câu đó có vẻ như dư ý.

Nhưng xét về phương diện khác thì nó lại là thiếu ý. Viết: “Văn mà bây giờ tôi tin là người” thì tiếng văn đó có nhiệm vụ gì trong câu? Nó phải là chủ ngữ hay chủ đề, nhưng đàng sau nó lại không có động từ nào đi với nó cả. Chẳng hạn ta có thể nói:

Đoạn văn mà anh thích đó, hay thì hay thật nhưng hơi kiểu cách.

(Đoạn văn: chủ ngữ; hay: tính từ dùng làm động từ).

Hoặc:

Đoạn văn mà anh thích đó, tôi nhớ có đọc trong một tuyển tập nào rồi.

(Đoạn văn: chủ đề; đọc: động từ liên quan tới đoạn văn).

Chứ không thể nói:

Đoạn văn mà anh thích đó, tôi không có tâm hồn thi sĩ.

(“tôi không có tâm hồn thi sĩ” không liên quan gì với “đoạn văn” cả).

Vì vậy phải sửa câu (20) như sau:

“Văn tức là người”, bây giờ tôi tin lời đó là đúng. Vậy thì tiếng hát xưa kia biết đâu không phải là tâm hồn Yêu một chút” (tin hẳn văn tức là người rồi).

Hoặc:

Nếu văn tức là người thì tiếng hát xưa kia… (không tin hẳn văn tức là người).

(21) Một khi tài đức có thừa, khả năng phụng sự dư dả mà suốt đời, khi vào chầu vua, phó bảng Bùi Ân Niên vẫn phải quì sau ông tiến sĩ, khi đi ngựa thì ông tiến sĩ đi trước, phó bảng lẽo đẽo theo sau, và nhất là khi về làng, dù tuổi cao, nhiệm vụ cũng nặng, cũng phải ngồi chiếu dưới trong khi ông tiến sĩ dù trẻ hơn, công tác có kém hơn, vẫn bệ vệ ngự trên chiếu trên.

Tác giả tạo một câu dài quá mà viết sau quên trước. Ta tự hỏi:

“Một khi tài đức có thừa… chiếu trên” rồi thì làm sao?

Ta không thể nói:

“Một khi kẻ dưới đã biết nhận lỗi mà ân hận”. (chấm câu) mà phải thêm, chẳng hạn:

mà ân hận thì người trên cũng nên tha thứ cho.

Vậy câu trên mắc lỗi có hô mà không có ứng, lỗi thiếu ý. Nhưng xét kĩ thì chính là lỗi dư tiếng: bỏ hai tiếng một khi thì câu văn đứng vững và đủ ý.

B. Ý TƯỞNG LỘN XỘN

Có những qui tắc thật là nhàm vì không ai không biết nhưng cứ phải nhắc đi nhắc lại hoài vì ít ai chịu thực hành, tức như qui tắc dưới đây mà Boileau đã vạch ra trong cuốn L’art poétique khoảng ba thế kỉ trước. Ông khuyên ta phải suy tư cho thật chín trước khi viết vì ý tưởng có minh bạch thì phô diễn mới được dễ dàng và lời văn mới sáng sủa.

Qui tắc đó rất đúng. Nhưng suy tư là một việc rất mệt, cho nên phần đông chúng ta sợ suy tư đến nỗi Gaston Bouthoul đã phải than thở rằng nhân loại thà chịu chết hơn là chịu suy tư, tức nghề viết, cũng lười suy tư. Rất ít người chịu viết văn trong đầu (nghĩa là suy tư cho kĩ, cấu tạo cả đoạn, có khi cả bài ở trong óc rồi mới chép lên giấy). Ý tưởng nào xuất hiện trong óc là chụp lấy ngay, chẳng chịu phân tích, kiểm soát, sắp đặt lại, cứ liệng cho thợ sắp chữ, chẳng hề sửa lại. Nếu chịu sửa lại thì có dịp suy nghĩ lại mà tư tưởng sẽ sáng hơn, rõ hơn, đúng hơn, vì nội dung quyết định hình thức, nhưng hình thức ngược lại cũng có cái công làm cho nội dung thêm hoàn hảo. Ai đã viết văn chắc cũng đã nhận thấy nhiều lúc chỉ tìm sửa một chữ, một câu mà một ý mới đột nhiên xuất hiện làm thay đổi hẳn nội dung của cả đoạn. Nội dung và hình thức liên quan mật thiết với nhau như vậy, cho nên tôi có thể nói 100 lỗi viết văn có đến 50 lỗi nguyên do là thiếu suy tư. Tôi đã thu thập được nhiều câu viết hỏng vì ý tưởng lộn xộn, nhiều quá đến nỗi phải bỏ bớt đi, chỉ giữ lại độ hai chục câu, rồi phân phối bớt một số vào các chương trước và các chương sau để chương này khỏi dài quá mà độc giả đỡ ngán. Tôi chắc chắn tác giả những câu đó sẽ tránh được già nửa lỗi của mình nếu chịu đọc kĩ lại câu văn. Tôi nói “già nửa” thôi vì có khi chính ta không nhận ra lỗi của ta. Muốn nhận được lỗi của mình, cần có kinh nghiệm mà hình như cũng cần có một chút khiếu riêng.

*

Trong khi phân tích những ý tưởng lộn xộn tôi tìm ra được bốn nguyên nhân:

1. Không định rõ thế nào là một câu, có bao nhiêu ý, cứ gom lại hết rồi đặt liền nhau, chẳng phân biệt ra chính hay phụ:

Định nghĩa câu là một việc rất khó, và tới nay vẫn chưa có định nghĩa nào làm thoả mãn được mọi người. Ở đây chúng tôi không đứng về phương diện ngữ pháp mà làm lại việc đó, chỉ xin đứng về phương diện cấu tứ mà đưa ra đề nghị như sau:

Khi ta muốn diễn một ý chính và nhiều ý phụ thêm nghĩa cho ý chính đó, hoặc trỏ trường hợp, nguyên nhân, kết quả… của ý chính đó, ta phải gom hết những ý đó lại thành một câu, trừ khi ta muốn nhấn mạnh vào một ý phụ, muốn cho nó thành ra quan trọng như ý chính thì lúc đó mới có thể tách nó ra thành câu khác được.

Theo nguyên tắc đó, chúng tôi xin phân tách đoạn dưới đây:

(1) Thuyền theo gió, từ từ mà đi, ra tới giữa khoảng mênh mông, tôi đứng trên đầu thuyền ngó quanh tả hữu. Đêm thanh cảnh vắng bốn bề lặng ngắt như tờ. Chỉ còn nghe tiếng cá “tắc tắc” ở dưới đám rong, mấy tiếng chim kêu “oác oác” ở trong bụi niễng, cùng là văng vẳng tiếng chó sủa, tiếng gà gáy ở mấy nơi chòm xóm quanh hồ mà thôi.

Câu đầu có hai ý chính: thuyền theo gió, từ từ mà đi và tôi đứng trên đầu thuyền ngó quanh tả hữu. Còn ý: ra tới khoảng mênh mông chỉ là ý phụ vào ý thứ nhì và trỏ thời gian. Tôi đứng trên đầu thuyền ngó quanh tả hữu lúc nào? Lúc thuyền ra tới khoảng mênh mông. Giữa hai ý: thuyền theo gió, từ từ mà đi và tôi đứng trên đầu thuyền ngó quanh tả hữu, không có dây liên lạc gì mật thiết để gom hai ý đó lại trong một câu. Vậy ta có thể cắt ra làm hai và chấm ở sau tiếng đi:

Thuyền theo gió, từ từ mà đi. Ra tới giữa khoảng mênh mông, tôi đứng trên đầu thuyền ngó quanh tả hữu.

Còn hai câu sau, mỗi câu chứa một ý: ý “bốn bề lặng ngắt như tờ” và ý “chỉ còn nghe tiếng cá, tiếng chim, tiếng chó sủa, gà gáy”, nhưng ý thứ nhì có thể coi là bổ túc cho ý trên, nghĩa là có thể hiểu như vầy: ngoài tiếng cá, tiếng chim, tiếng chó sủa, gà gáy ở xa thì không có tiếng gì khác nữa, cảnh thiệt là bốn bề lặng ngắt như tờ. Vậy hai ý đó liên lạc mật thiết với nhau: cảnh sau để hình dung cảnh tĩch mịch được phô bày trong câu trước và ta có thể bỏ dấu chấm ở sau tiếng tờ, thay vào đó một dấu chấm phết để nối hai câu đó làm một:

Đêm thanh cảnh vắng bốn bề lặng ngắt như tờ; chỉ còn nghe tiếng cá “tắc tắc” ở dưới đám rong, mấy tiếng chim kêu “oác oác” ở trong bụi niễng, cùng là văng vẳng tiếng chó sủa, tiếng gà gáy ở mấy nơi chòm xóm quanh hồ mà thôi.

(2) Văn chương là một thứ khoa học rất cao và rất khó, không những là một lối thù ứng tiêu khiển rất tao nhã mà lại biểu lộ được tính tình và tư tưởng của người ta, có thể cảm xúc được nhân tâm, duy trì được phong hoá, cái công dụng của văn chương cũng không phải là nhỏ.

Câu này ý tưởng không lộn xộn như câu trên, nhưng cũng chưa làm cho chúng tôi được thoả mãn. Tôi thấy tác giả muốn diễn hai ý chính:

- Văn chương là một khoa học cao và khó.

- Mà công dụng rất lớn vì: (từ đây là ý phụ) nó là một lối thù ứng tiêu khiển rất tao nhã, lại biểu lộ được tính tình tư tưởng của ta, cảm xúc được nhân tâm và duy trì được phong hoá.

Nếu sắp đặt lại ý như trên thì ý chính được nổi bật lên, tư tưởng được liên tục hơn mà tránh được tiếng “cũng” chơ vơ, gượng gạo.

2. Ý thiếu liên lạc:

(3) Hai tiên sinh (Nguyễn Du và Nguyễn Huy Tự) tuy muốn lập toà “lâu đài” của tinh hoa Việt Nam khác nhau song dù xây dựng thế nào, các tài liệu sở đắc cũng vẫn cùng chung một công phu đèn sách và vẫn là phong lưu nhân vật nơi đài các văn chương do khí thiêng của non sông chung đúc, của tạo hoá phú bẩm, để dành cho kẻ hậu sinh theo dõi mà duy trì nền văn hiến tinh thuần cổ Việt.

Văn thật lôi thôi, rối như bòng bong. Cái gì khác nhau? Tinh hoa Việt Nam hay toà lâu đài? Tất nhiên ta phải hiểu là toà lâu đài rồi; vậy phải đặt khác nhau đứng gần với toà lâu đài.

Tài liệu sở đắc mà cùng chung một công phu đèn sách là nghĩa làm sao? Nó là kết quả của công phu đèn sách chứ?

Nhưng hai lỗi trên đều nhỏ. Lỗi này mới nặng: vẫn là phong lưu nhân vật. Ai vẫn là phong lưu nhân vật? Theo ý thì phải là hai tiên sinh, mà theo cách cấu tạo của câu, theo luật liên tục trong văn thì lại là tài liệu sở đắc.

Lại thêm: để dành cho kẻ hậu sinh. Để dành cái gì? Không ai nói để dành hai tiên sinh hoặc để dành những phong lưu nhân vật cho kẻ hậu sinh, vậy thì có lẽ là để dành toà lâu đài, hoặc tài liệu sở đắc, hoặc khí thiêng của non sông. Vì không hiểu rõ tác giả muốn nói gì nên chúng tôi không sắp đặt lại, cấu tạo lại câu văn được.

(4) Ít lâu nay có những tin đồn được nhắc đi nhắc lại, không muốn tin cũng phải bận lòng, thấp thoáng trên không trung như lưỡi gươm Damoclès, vững tâm lắm cũng phải nghĩ rằng đó có thể là những quả bóng thăm dò dư luận.

Chúng tôi có cảm tưởng rằng tác giả nghĩ tới đâu viết tới đấy, không hề sắp đặt lại ý tứ, cũng không hề đọc lại nữa.

Câu đó có bốn ý:

1. Ít lâu nay có những tin đồn được nhắc đi nhắc lại.

2. Không muốn tin cũng phải bận lòng.

3. Thấp thoáng trên không trung như lưỡi gươm Damoclès.

4. Vững tâm lắm cũng phải nghĩ rằng… thăm dò dư luận.

Cả bốn đều nói về tin đồn cả: ý thứ nhất và ý thứ ba đều hình dung tin đồn ra sao: nó được nhắc đi nhắc lại, nó thấp thoáng trên không trung; ý thứ nhì và ý thứ tư đều tả tâm trạng của những người nghe tin đồn (đúng hơn thì là tả các tác động[53] của tin đồn trên tâm lí đại chúng). Vậy ý thứ nhất và ý thứ ba cùng một loại với nhau, nên đặt sát nhau, ý thứ nhì và ý thứ tư cũng nên đặt liền nhau, không nên xen kẽ như tác giả đã trình bày, mà phá cái thế liên tục tự nhiên trong tư tưởng. Tôi xin sắp lại ý mà không sửa lời:

Ít lâu nay có những tin đồn thấp thoáng trên không trung như lưỡi gươm Damoclès và được nhắc đi nhắc lại nhiều lần đến nỗi ai không muốn tin cũng phải bận lòng và kẻ nào vững tâm lắm cũng phải nghĩ rằng đó có thể là những quả bóng thăm dò dư luận.

(5) Các luật sư biết rõ là nếu trong hàng ngũ cảnh sát và hiến binh có những người không thông luật lại quá mẫn cán, phần đông đều bận tâm với chức vụ, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ an ninh và trật tự, nên phải biết ơn không nên nặng lời đối với những tài liệu (…) của họ.

Câu này xét về cách dùng từ thì có một chỗ vụng: Ta không nói “phải biết ơn và không nên nặng lời với những tài liệu…”, nên nói “phải biết ơn những người đó và không nên nặng lời với họ nếu họ lỡ đưa ra những tài liệu sai”. Còn xét về ý thì đáng kể là minh bạch, nhưng tôi cũng muốn sửa lại như vầy cho có thêm thứ tự và liên tục:

Các luật sư biết rõ rằng nếu trong hàng ngũ cảnh sát và hiến binh có những người vì quá mẫn cán và không thông luật nên thường đưa ra những tài liệu sai, nhưng cũng không nỡ nặng lời với họ vì hầu hết họ đều tận tâm với chức vụ, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ an ninh và trật tự.

(6) Ai dám bảo những câu ca dao đầy trữ tình (như…) là nhạt nhẽo, kém chất thơ, đồng thời vẫn phản ánh được sinh hoạt của nông dân.

Câu trên gồn hai ý: ý thứ nhất: tác giả chê sự nhận xét sai lầm của một số người cho ca dao là nhạt nhẽo, kém chất thơ; ý thứ nhì: tác giả cho rằng ca dao phản ánh được sinh hoạt của nông dân. Hai ý đó không có liên quan với nhau để có thể gom lại trong một câu rồi dùng tiếng (từ) đồng thời. Phải chăng tác giả muốn khen rằng ca dao đã rất trữ tình và nhiều chất thơ mà lại phản ánh đúng đời sống của nông dân?

3. Viết sau quên trước:

Lỗi này rất nặng mà lại rất thường xảy ra, cơ hồ như ít ai tránh khỏi. Bộ óc của chúng ta mà các nhà bác học khen là tinh vi, kì diệu một cách không tưởng tượng nổi, thực ra chưa phải là hoàn hảo, nhiều khi nó chạy bậy bạ đến tức cười. Có thuật nào sửa nó không nhỉ?

Chẳng hạn một nhà văn nọ viết:

(7) Không gì tởm hơn là mình có người chồng vừa bé nhỏ vừa bủn xỉn, hủ lậu, - lại có người vợ như tôi, vô cùng thèm khát đam mê.

Con người tự xưng là “mình” trong câu đó có một người chồng, rồi lại có một người vợ, thế thì người đó là đàn bà hay đàn ông, hay là á nam á nữ?

Rồi lại câu này nữa:

(8) Dòng nước mắt thiên phú của đàn bà khóc trước đàn ông, tim gan sắt đá tới mấy cũng tan thành chất lỏng, mủi lòng để tin rằng tôi vô tội.

Tim gan mà tan thành chất lỏng; điều đó ta còn có thể hiểu được, nhưng làm sao gan lại biết mủi lòng và lại tin được rằng một người nào đó vô tội?

Chỉ tại tác giả khi viết từ mủi lòng thì quên rằng ngay đầu hàng mình đã dùng tim gan làm chủ ngữ.

(9) Bởi lẽ những nhân vật của ông biện thuyết hào hùng (hay hùng hồn?) chừng nào đi nữa, vấn đề hắn (hay họ?) đặt ra lớn lao chừng nào đi nữa, cuối cùng đi nữa hắn cũng thắng, chiến mà thắng (…) và sau hết hắn sẽ ngủ yên trong cái kén tình yêu, trong lòng một người vợ đẹp, thuỳ mị, phần đông bản chất tốt nhưng bị xã hội, tập quán hồi bấy giờ làm hỏng hay biến dạng đi (…) và người tình hiên ngang phong nhã thế nào cũng nâng nàng lên để tôn thờ lời nói vuốt ve của người lớn dỗ trẻ con.

Mà lời nào là lời nói vuốt ve của người lớn dỗ trẻ con? Mấy hàng trên, không thấy tác giả dẫn ra thì làm sao ta hiểu được? Hay là tác giả chỉ muốn nói:

…người tình hiên ngang, phong nhã thế nào cũng nâng nàng lên để tôn thờ và vuốt ve như người lớn dỗ trẻ con.

Lỗi[54] điệp ngữ, điệp ý cũng do nguyên nhân viết sau quên trước nữa.

(1) Chúng tôi tiếc rằng không thể trích ra đây dài hơn, nhưng bấy nhiêu cũng tạm gọi là đủ để nêu lên một quan điểm, một quan điểm mà xét từng lời từng ý thì có thể có sự đồng ý một vài lời, hay ý (hay nhiều hơn) ở trong quan điểm đó.

Lập lại ba lần tiếng quan điểm, ba lần tiếng ý, hai lần tiếng lời, hai lần tiếng hay.

Thu lại như sau thì câu văn gọn hơn:

Chúng tôi tiếc rằng không thể trích ra đây dài hơn, nhưng bấy nhiêu cũng tạm đủ để nêu lên một quan điểm và xét kĩ thì có vài chỗ chúng tôi đồng ý.

Một thí dụ nữa:

(11) Thật là một điều đáng buồn khi phải nhờ đến một ngôn ngữ khoa học để diễn tả những ý kiến khi đã có những danh từ trong ngôn ngữ thông thường: đó là không muốn cho người ta tăng thêm kiến thức mà muốn cho người ta có cảm tưởng hiểu biết nhiều khi cho người ta biết những danh từ.

Muốn cho người ta hiểu biết nhiều, tổ hợp này tối nghĩa; chắc tác giả muốn nói: muốn cho người (tức người đọc) có cảm tưởng rằng mình (tức người viết) hiểu biết nhiều.

Rồi: Khi cho người ta biết những danh từ. Danh từ nào? Đọc ngược lại mấy hàng trên thì chỉ thấy tác giả nói đến “những danh từ trong ngôn ngữ thông thường”. Nhưng nếu là những danh từ đó thì sao lại bảo rằng “có cảm tưởng biết nhiều” được? Lại thêm một lỗi vụng về: một câu mà dùng tới ba tiếng khi.

Tôi xin sắp đặt lại cho gọn:

Thật là một điều đáng buồn cười: có những danh từ đủ để diễn tả tư tưởng thì người ta lại không dùng mà dùng những danh từ khoa học; như vậy đâu phải là muốn phổ biến tri thức mà chỉ muốn khoe mình học rộng đấy thôi.

Sau cùng tôi xin trích thêm ba câu nữa: lúng túng mà tối nghĩa. Tác giả những câu này đều là những người thông tiếng Pháp tất thuộc lời khuyên của Boileau dẫn ở đầu chương, nhưng khi viết thì lại không chịu đem ra áp dụng.

(12) Để kiện toàn bức phác hoạ tư tưởng kinh tế Hi Lạp, tư tưởng cũng có phần nào hữu ích nghiên cứu chủ trương vô chính phủ của phái Khuyển Nho[55] và nhất là tới mực nào quan niệm thiên nhiên do phái Khắc Kỷ truyền bá cùng lí tưởng phục tùng thiên nhiên của họ đã có nhiều ảnh hưởng đối với tương lai các học thuyết kinh tế.

Tiếng họ chắc là trỏ phái Khắc Kỷ. Nhưng cái gì đã có nhiều ảnh hưởng, quan niệm thiên nhiên hay lí tưởng phục tòng thiên nhiên, hay là cả hai? Và “ảnh hưởng đối với tương lai của các học thuyết kinh tế” là nghĩa làm sao? Phải chăng là ảnh hưởng tới các học thuyết kinh tế ở thời sau?

(13) Đọc bài tựa của Đoàn quân rồi tiếp ngay đó nơi truyện đầu, lời bình luận của soạn giả “Giai thoại làng Nho” làm cho người đọc cũng có phần khó chịu cho “cái nọc khoa cử” đã thành lẽ sống”, khiến chúng ta nhớ lại có lắm người đã gán cho vì đám người mê khoa bảng ấy đã đánh rơi (!) tổ quốc.

Đã “đọc bài tựa” rồi lại “làm cho người đọc”, lỗi đó có thể bỏ qua được. Nhưng rồi lỗi này: cái gì khiến cho chúng nhớ lại? Rồi: có lắm người đã gán cho, là gán cái gì cho ai?

Hai câu trên chúng tôi có thể đoán nghĩa mà hiểu được ít nhiều, đến câu này thì xin chịu: “Tìm hiểu cái ý tại ngôn ngoại là điểu rất khó vì nó ở ngôn ngoại”.

(14) Nhưng tìm hiểu cái không nói ra là chủ đích của cái nói ra, rất khó khăn chính vì đã không nói ra.

Thức ăn ngon tới mấy có tiêu hoá rồi mới thành chất bổ; tư tưởng cao xa tới mấy cũng phải được chính tác giả tiêu hoá rồi mới giúp ích được cho người khác. Mà tiêu hoá tư tưởng là nhờ công suy tư.

Chép lại 14 tỉ dụ trên, chúng tôi ngán ra sao thì chắc các bạn khi đọc cũng ngán như vậy. Bây giờ tôi xin lựa một đoạn văn dài mà trôi chảy, mạch lạc, phân minh, để các bạn so sánh.

Đứng trước một vũ trụ vô tận trong không gian và thời gian, một vũ trụ vô cùng tạp đa đến nỗi óc ta không sao quan niệm nổi, đã tạp đa do bản thể của nó, lại còn tạp đa hơn nữa do hình ảnh của nó chiếu trong cặp mắt và trong tâm tư của mỗi người; mà chỉ có một công cụ thô sơ và thiếu thốn là văn tự, thiếu thốn tới mức một tiếng có khi dùng để trỏ hàng chục ý niệm, hàng ngàn sự vật; các văn sĩ từ xưa tới nay, nhất là trong khoảng trăm năm gần đây, đã truyền kinh nghiệm cho nhau, không thời nào dứt: một mặt ra công “vặn, nhồi, kéo dài, thu ngắn”, phối hợp những dụng ngữ quá ít ỏi, một mặt cố tạo thêm nhiều tiếng mới, dựng phá những qui tắc ngữ pháp, những luật lệ văn thơ, thôi thì xoay xở đủ cách để đeo đuổi một ảo ảnh là ghi, vẽ được cho đúng, nắm lấy được thiên hình vạn trạng của ngoại giới và nội tâm; và kết quả là trừ vài nhà lập dị, hoảng loạn, công bố những thí nghiệm vô lí, điên khùng, còn thì đa số đã thành công ít nhiều, mỗi nhà có một sở trường, mỗi nhà dùng một phương pháp, mỗi nhà đã cho ta thấy một hình ảnh của vũ trụ, đã tạo cho ta một vũ trụ và những vũ trụ đó lung linh huyền ảo hơn cả cái vũ trụ trong mắt các nhà khoa học nữa.

Vì câu rất dài nên người viết đã phân làm bốn đoạn và xuống hàng sau mỗi dấu chấm phết cho thêm minh bạch, nhưng giá có viết liền một hơi thì đọc chậm chậm chúng ta cũng nhận ngay mạch lạc vì ý tưởng sắp đặt kĩ lưỡng cứ tuần từ hiện ra như một sợi chỉ tháo trong guồng vậy. Một điểm đáng để ý nữa là câu mở đầu bằng: “Đứng trước một vũ trụ vô tận...” rồi khép lại bằng: “đã cho ta thấy một hình ảnh của vũ trụ...” như có hô có ứng, nhất khí mà tròn trặn.

[46] Trong bản Văn Nghệ là 2 chương: Chương VII: Thiếu và dư, Chương IX: Ý tưởng lộn xộn. (Goldfish).

[47] Thú thật chúng tôi không hiểu cụ Nguyễn Hiến Lê muốn nói gì. Phải chăng cụ muốn nói: “Giá cắt mấy tiếng đó đi mà viết: “…chẳng những dùng để giải trí thích thú, làm tài liệu văn thơ, mà nhất là đã truyền được…”, thì sẽ gọn hơn”, nhưng sách lại in thiếu mấy chữ “mà nhất là đã truyền được…”? (Goldfish).

[48] Dấu = này là do chúng tôi tạm ghi thêm. (Goldfish).

[49] Có lẽ sách in thừa chữ “của” này. (Goldfish).

[50] Ngày nay gọi là lớp 5. (Goldfish).

[51] Sách in là “ca dao”, chúng tôi tạm sửa lại thành “Nguyễn Du”. (Goldfish).

[52] Có thể 1980 bị in lầm thành 1990. Nếu đúng là 1990 thì câu được đặt trong 2 dấu ngoặc đơn: (gần đây, 1975-1990, thỉnh thoảng có người cũng nói tương tự) có lẽ là do ông Thắng viết, vì cụ Nguyễn Hiến Lê mất vào năm 1984, không thể là tác giả câu đó được. (Goldfish).

[53] Tác động: sách in là động tác. (Ca_kiem).

[54] Lỗi: sách in là: Lối. (Goldfish).

[55] Chắc tác giả đã theo từ điển Đào Duy Anh mà dịch tiếng Cynisme ra như vậy: vô sỉ trơ tráo liều lĩnh.