CHƯƠNG IV MỘT SỐ CẠM BẪY - ĐỒNG ÂM DỊ NGHĨA[36]
A. MỘT SỐ CẠM BẪY
Ở trên, chúng tôi đã nói tiếng Việt không có phần từ pháp, cho nên muốn biết từ vụ của một từ, ta thường phải căn cứ vào vị trí của nó trong câu. Nhưng có khi căn cứ vào vị trí cũng chưa đủ.
Ví dụ: trong bài tựa một cuốn sách, tôi gặp câu này:
(1) Sách này chất mà đúng, ước mà đủ.
Mới đọc được nửa câu, chúng tôi bỡ ngỡ không hiểu tiếng chất thuộc loại từ nào, có chức vụ gì. Cứ xét vị trí của nó thì nó có thể là một danh từ làm chủ ngữ cho đúng, như vậy phần đầu đó có nghĩa: Sách này nếu cái chất (nội dung) của nó mà đúng; nó cũng có thể là một động từ và giữ chức vụ động ngữ (động từ), như vậy có nghĩa là chất phác. Đọc hết câu, chúng tôi mới hiểu rằng nghĩa thứ nhất phải bỏ, chất mà đúng với ước mà đủ là hai vế đối nhau về nghĩa: ước là động từ thì chất cũng là động từ.
Sở dĩ chúng tôi bỡ ngỡ như vậy vì tiếng chất quen dùng làm danh từ, nên chúng tôi tưởng ở đây nó cũng dùng làm danh từ, không ngờ nó dùng làm động từ.
Muốn cho khỏi bỡ ngỡ, chúng tôi nghĩ câu trên nên sửa lại như sau:
Sách này chất phác mà đúng, giản ước mà đủ.
Chất phác quen dùng làm động từ, nên người đọc không hiểu lầm nữa (sửa như vậy thật ra cũng không ổn. Muốn dùng nó làm danh tử, thì phải thêm sự hoặc tính ở trước: sự chất phác, tính chất phác).
Vì lẽ tiếng Việt không thay đổi ngữ thể (từ dạng hay mặt chữ) khi thay đổi chức vụ trong câu, cho nên muốn cho lời văn sáng sủa, trôi chảy, ta cần phải đặc biệt chú ý tới cách dùng từ, làm sao cho độc giả không cần phải phân tích cả câu, chỉ đọc qua là nhận ngay được từ vụ của mỗi tiếng (từ).
Dưới đây, chúng tôi nêu lên một số cạm bẫy mà chúng ta cần đề phòng.
1. Danh từ hay động từ?
Danh từ của ta thường có hai loại từ hoặc lượng từ đứng trước: cái bát, con dao, chiếc kéo, căn nhà, đôi đũa… cho nên dễ phân biệt với động từ. Khi một động từ dùng làm danh từ thì ta thêm tiếng sự hay việc ở trước:
(10) Sự ăn uống, việc kiểm tra.
Từ khoảng năm 1930 trở về trước, các nhà văn rất ưa dùng tiếng sự và tiếng việc nhưng sau khi Trương Tửu xuất bản một cuốn sách nhỏ nhan đề là “Những thí nghiệm của ngòi bút tôi” chỉ trích lối đó. Vì lời văn vừa nặng vừa diễn không đúng ý (chẳng hạn: nhan đề trên), nếu viết (Những sự thí nghiệm của ngòi bút tôi), thì có nghĩa trừu tượng, chứ không cụ thể như tác giả muốn (chúng tôi đã đọc cuốn này non 30 năm nay, chỉ nhớ đại ý của tác giả như vậy. Bây giờ muốn đọc lại mà kiếm không ra), người ta lần lần theo ông[37] và ngày nay ít ai dùng bừa bãi những tiếng sự và việc nữa.
Nhưng vài người mắc lỗi ngược lại, ngay cả những chỗ cần phải dùng những tiếng đó mà cũng bỏ đi, thành thử câu văn hoá tối nghĩa.
Ví dụ:
(2) Việc khai hoá được thực dân coi như một phương tiện phục vụ khai thác kinh tế, cuối cùng gây sự thức tỉnh quốc gia ở nơi người bản xứ.
Chúng ta hãy tạm không xét cái giọng lai Tây trong câu đó (gây sự thức tỉnh quốc gia ở nơi người bản xứ) mà chỉ tự hỏi: khai thác là danh từ hay động từ đây? Nếu là một động từ thì làm động ngữ (trong bộ phận vị ngữ) như tiếng phục vụ. Như vậy, thì sau phục vụ và khai thác kinh tế thì phải viết[38]: sự khai thác hoặc việc khai thác. Nhưng theo chúng tôi phải hiểu theo nghĩa thứ nhì mới đúng: khai thác ở đó phải là một danh từ. Câu dưới đây thì không biết sửa ra sao:
(3) Trong văn học Pháp chúng ta thấy thể phê bình luôn luôn biến chuyển: phê bình độc đoán, phê bình tương đối lãng mạn, phê bình tương đối khoa học.
Cũng may là tác giả đã chú thích: tương đối lãng mạn là relativisme romantique nên chúng tôi hiểu rằng tương đối đó là danh từ chứ không phải động, nếu không thì tôi đã cho nó là động từ dùng làm hình dung từ để thêm nghĩa có lãng mạn.
Chúng tôi vẫn biết từ tương đối lãng mạn đó, tác giả đã tạo ra (bằng cách dịch sát tiếng Pháp), và khi một từ ngữ mới dù có tạo sai mà được định nghĩa rõ ràng thì không sợ làm cho người khác hiểu lầm mà dùng lâu nó sẽ thành quen tai, được mọi người chấp nhận, tức như tiếng kinh tế dịch từ tiếng économie politique của Pháp. Tuy nhiên tạo cách nào cho người đọc dễ nhớ nghĩa, khỏi hiểu lầm thì vẫn hơn.
Vậy trong thí dụ trên, ta phải rán làm cho người đọc nhận ngay được tiếng tương đối đó là danh từ.
Có lẽ sửa như vầy thì rõ ràng hơn mặc dầu là dài dòng, có tính cách đơn giản hơn là dịch:
Trong văn học Pháp, chúng ta thấy thể phê bình luôn luôn biến chuyển: từ chủ trương độc đoán, tới chủ trương tương đối (chủ trương này có hai khuynh hướng: lãng mạn và khoa học)…
Nhưng tiếng relativisme có tương phản với tiếng absolutisme mà tác giả câu trên đã dịch là độc đoán và relativisme romantique có thể dịch là phản độc đoán lãng mạn?... nghe vẫn chưa xuôi. Phải đọc lại học thuyết của phê bình gia Sainte Beuve và tìm một tên khác mới được.
Đã đành hễ đọc sách thì phải suy nghĩ. Nếu ta suy nghĩ mà vẫn còn hiểu lầm thì tác giả có thể đáng trách, nếu ta không chịu suy nghĩ mà hiểu lầm thì chúng ta mới đáng trách. Nhưng văn càng sáng thì càng quí; người viết nếu có thể thêm bớt một vài tiếng hoặc thay đổi cách đặt câu mà tránh cho người đọc khỏi phải suy nghĩ mệt óc thì càng được người đọc mến.
*
Chắc độc giả đã nhận thấy hầu hết những lỗi trong các chương trên đều do người viết phạm vào luật liên tục: khi cần có sự liên tục thì lại thiếu, khi không cần thì lại có, hoặc vụng dùng chữ, hoặc đặt sai chỗ mà làm cho người đọc tưởng rằng ý tưởng liên tục rồi hiểu lầm câu văn.
Vậy thì luật liên tục rất quan trọng và gần nửa tập này gần như xét riêng về nó.
2. Động từ hay hình dung từ.
(5) Người chăn cừu thành công nghĩ như đàn cừu của mình.
Nói như vậy nghe có thuận không? Mới đọc chúng tôi tưởng rằng từ thành công dùng làm động từ, sự thật nó dùng làm hình dung từ.
Nguyên văn tiếng Anh là:
The successful shepherd thinks like his sheep.
Từ dạng và cả vị trí của tiếng successful đều cho ta nhận ngay được nhiệm vụ của nó là hình dung từ, còn tiếng thành công của ta dù làm hình dung từ hay động từ thì cũng cùng một lối viết đó, cũng đứng sau danh từ người chăn cừu, cho nên phải đọc hết câu ta mới đoán được từ vụ của nó.
(6) Câu: Học sinh làm biếng bị phạt.
cũng ở trong trường hợp câu trên. Ta thường coi từ làm biếng dùng làm động từ (động ngữ) mà ở đây ta không biết nó là hình dung từ hay động từ.
Muốn cho rõ, ta nên thêm tiếng thì:
Người chăn cừu mà thành công thì nghĩ giống như đàn cừu của mình.
Nghĩa là: Muốn cho đàn cừu theo mình thì phải hiểu nhu cầu cùng phản ứng của chúng.
Học trò mà làm biếng thì bị phạt.
Nhưng vậy, thành công và làm biếng đều là động từ cả mà tiếng thì có công dụng tách hai động từ thành công và nghĩ (câu trên), hai động từ làm biếng và bị phạt (câu dưới).
Một thí dụ nữa:
Con người cần lao để sống làm người.
Câu này ngớ ngẩn. Phải chăng tác giả muốn nói:
Chúng ta làm việc để sống.
Hay là: Muốn sống cho ra con người thì chúng ta phải làm việc.
Dù hiểu theo cách nào thì tiếng cần lao đó cũng có nghĩa là làm việc, vậy nó là một động từ dùng làm động ngữ, nhưng ta lại quen dùng nó làm danh từ (sự cần lao) hoặc làm động từ với chức vụ hình dung từ (cần lao: siêng năng, chịu khó nhọc), cho nên câu trên làm cho ta bỡ ngỡ. Chỉ cần đổi tiếng cần lao ra làm việc hoặc làm việc khó nhọc là câu hoá ra vừa dễ hiểu vừa bình dị.
3. Hình dung từ thêm nghĩa cho danh từ hay động từ.
(7) Những thanh âm bất ngờ đâm vào tai họ.
Tiếng bất ngờ đó hiểu là thêm nghĩa cho thanh âm cũng được, mà hiểu là thêm nghĩa cho đâm vào cũng được, hiểu theo mỗi cách thì nghĩa có thay đổi.
Nguyên văn tiếng Pháp:
Des sous inattendus viurrent frapper leurs oreilles.
Nhiều người cho tiếng Việt không tinh xác bằng tiếng Pháp. Họ không phải hoàn toàn vô lí.
Muốn cho người đọc nhận thấy ngay rằng bất ngờ thêm nghĩa cho thanh âm thì có lẽ nên thêm tiếng bỗng:
Những thanh âm bất ngờ bỗng đập vào tai họ.
Trường hợp câu này cũng như trường hợp câu (4) ở đoạn trên, Trong câu (4) ta thêm tiếng thì, ở đây ta thêm tiếng bỗng chỉ để giúp người đọc nhận ra được từ vụ của một tiếng dùng làm hình dung từ.
Một tỉ dụ nữa:
Nguyên văn tiếng Pháp:
Il aperçut le capitaine Lynch qu’il salua de la main. Salut que le vaillant vieillard[39] lui rendit aussitôt.
Một người dịch ra như sau:
(8) Hắn thấy ông thuyền trưởng Lynch bèn giơ tay chào ông. Ông già dũng cảm chào lại ngay.
Tiếng Pháp vaillant làm hình dung từ bổ túc cho vieillard, dịch như trên thì người đọc không hiểu dũng cảm bổ túc cho danh từ ông già hay cho động từ chào.
Muốn dịch cho đúng, chúng tôi nghĩ nên thêm chữ đó sau tiếng dũng cảm để người đọc nhận ngay ra rằng dũng cảm đi với ông già.
Nếu có ai trách chúng tôi rằng nguyên văn không viết: Ce vaillant vieillard, thêm đó là thừa, tôi xin chịu. Chúng tôi trọng tinh thần của câu văn; còn về hình thức thì mỗi ngôn ngữ có một lối diễn riêng, chúng tôi không nhất định phải theo Pháp.
(9) Hễ không nói rõ là cho phép, phải thế chăng, các ngài có thẩm quyền?
Tiếng là có hai cách dùng: cách thứ nhất đứng sau một danh từ (nom) dùng để chỉ ý nghĩa, trạng thái, tính chất.
“Thiên là trời”, “Ông này là người có học”, “Đồng sắt là kim khí” (Việt Nam từ điển).
Cách dùng thứ nhì (không thấy ghi trong Việt Nam từ điển), đứng sau một động từ có nghĩa như tiếng rằng.
Tôi đã bảo là không nên.
Tôi đã đoán là hỏng.
Tôi cho là sai.
Trong cách dùng thứ nhì này, xét cho kĩ thì nghĩa của là có lẽ cũng do nghĩa trong cách dùng thứ nhất mà ra.
Tôi đã bảo là không nên: Tôi đã bảo điều đó là không nên.
Tôi đã đoán là hỏng: Tôi đã đoán làm như vậy là hỏng.
Tôi cho là sai: Tôi cho như vậy là sai.
Tuy nhiên, nghĩa của nó có đổi đi một chút và ta có thể bảo dùng nó thay cho tiếng rằng.
Mới đọc câu ví dụ (9), ta thấng tiếng là đứng sau động từ nói, tôi tưởng là đó dùng theo cách thứ nhì: không nói rõ là cho phép: không nói rõ rằng cho phép. Nhưng đọc hết câu chúng tôi mới hiểu rằng tác giả không muốn nói vậy mà tác giả dùng không nói rõ làm chủ ngữ, là làm động từ (ngữ) chứ không phải làm quan hệ từ. Muốn tránh sự hiểu lầm đó, ta nên thêm tiếng tức sau tiếng nói rõ.
Hễ không nói rõ tức là cho phép, phải thế chăng, các ngài có thẩm quyền.
(10) Làm cho anh ta nói ra được một câu thật là khó khăn.
Chắc độc giả cũng tưởng lầm như tôi rằng thật là khó khăn thêm nghĩa cho một câu: Một câu ra sao? Một câu thật là khó khăn. Hiểu như vậy thì câu đó thiếu nghĩa, cho nên phải hiểu như sau:
Tổ hợp Làm cho anh ta nói ra được một câu là chủ ngữ, tổ hợp thật là khó khăn làm động từ.
Nghĩa là tác giả muốn nói:
Làm cho anh ta nói ra được một câu thật là một việc rất khó khăn.
Muốn cho lời rõ hơn, ý mạnh hơn, ta có thể đảo ngược lại:
Khó khăn lắm mới làm cho anh ta nói ra được một câu.
Câu dưới đây, nếu ai không thuộc sử tất phải hiểu lầm:
(11) Quân Tây Sơn từ trong Nam kéo ra, chúa Trịnh phát quân chặn lại, thảy đều phá tan.
Phải đều phá tan trỏ chiến công của Tây Sơn, đặt liền sau tổ hợp chúa Trịnh phát quân chặn lại, thì ta tưởng lầm rằng chúa Trịnh là chủ ngữ của động từ phá tan; sự thật Tây Sơn mới là chủ ngữ của phá tan. Vây ta phải tách thảy đều phá tan ra mà đưa nó lên gần chủ ngữ quân Tây Sơn.
Quân Tây Sơn từ trong Nam kéo ra, đánh tan đoàn quân mà chúa Trịnh phát ra tính chặn lại.
Trong một cuốn sách chúng tôi viết:
(12) Theo pháp luật ngày nay thì Nguyên Khánh phải chịu tội nhưng được hưởng trường hợp giảm khinh, vì ông ta không có quyền trả thù cha như vậy.
Một ông bạn đọc giùm bản thảo chỉ cho tôi được một lỗi tối nghĩa trong câu đó. Viết như trên thì do luật liên tục, độc giả có thể hiểu rằng cái lẽ Nguyễn Khanh “không có quyền trả thù cha như vậy” (tức giết kẻ thù của cha) là nguyên nhân của việc ông ta được hưởng trường hợp giảm khinh, mà sự thật là chúng tôi muốn nói: “Nguyễn Khanh chịu tôi vì ông ta không có quyền trả thù cho cha như vậy”.
Câu đó giá do một người khác viết thì đọc lên, chúng tôi nhận ngay được lỗi; nhưng nó do chúng tôi viết, cho nên khi đọc lại tôi không cần phải tìm hiểu nghĩa, chỉ lướt qua không thấy chỗ hỏng.
Và tôi đã sửa như vầy:
Theo pháp luật ngày nay thì Nguyên Khánh phải chịu tội (nhưng được hưởng trường hợp giảm khinh) vì ông ta không có quyền trả thù cha như vậy.
Chúng tôi đã thêm hai dấu ngoặc đơn để tách tổ hợp “nhưng được hưởng trường hợp giảm khinh” ra; như vậy độc giả sẽ hiểu rằng “vì ông không có quyền trả thù cho cha” đi với “phải chịu tội” chứ không phải với “được hưởng trường hợp giảm khinh”.
Nhiều người nêu qui tắc này: phải đọc văn của mình bằng cặp mắt của độc giả thì mới nhận được lỗi mà sửa. Qui tắc đó rất đúng, nhưng cũng rất khó theo. Muốn theo được thì viết xong phải cất bản thảo đi, đợi năm sáu tháng sau cho quên gần hết những điều mình viết rồi hãy đọc lại kĩ lưỡng từng câu một. Cho nên được bạn thân làm giùm cho việc đó thì không gì quí bằng. Nhưng nếu gặp trường hợp có những vị chưa hề đọc văn mình mà mỗi khi cầm bút đỏ trong tay là gạch như kiểm duyệt thời trước thì đau lắm!
B. NHỮNG TIẾNG ĐỒNG ÂM DỊ NGHĨA.
Ngôn ngữ nào cũng có những tiếng đồng âm dị nghĩa; nhưng ngôn ngữ đơn lập (langue isolante)[40] như Việt ngữ, Hoa ngữ, vì có nhiều tiếng đơn âm (monosyllabique) cho nên số tiếng đồng âm dị nghĩa nhiều hơn các ngôn ngữ khác, do đó dễ làm cho người nghe hiểu lầm.
Muốn tránh sự bất tiện đó, tiếng Việt có ghép hai tiếng đơn âm mà nghĩa tương tự nhau thành một tiếng gồm hai âm mà chúng ta gọi là tiếng đôi.
Thí dụ: dấu là vết, và dấu là yêu; hai tiếng ấy đồng âm dị nghĩa. Nếu chỉ dùng một âm “dấu” thôi thì có khi người ta có thể hiểu lầm được. Cho nên ta góp thêm vào âm đó một tiếng có nghĩa tương tự và tạo thành những tiếng đôi: dấu vết, yêu dấu.
Hai tiếng này không thể lầm với nhau được.
Nhưng không phải tiếng đơn âm tiết nào cũng có thể ghép được như vậy, nên trong văn, ta vẫn thường thấy những tiếng làm cho ta nếu không hiểu lẩm thì cũng bỡ ngỡ.
Ở đây chúng tôi nêu lên ít trường hợp thường xảy ra để độc giả đề phòng. Trước hết chúng ta phải phân biệt những tiếng thực đồng âm dị nghĩa và những tiếng giả đồng âm dị nghĩa.
Khắp thế giới có lẽ chưa có dân tộc nào hoàn toàn thống nhất cách phát âm. Một quốc gia đất đai càng rộng thì sự phát âm càng có nhiều nơi khác nhau. Ở Pháp, ở Anh, người miền Alsace phát âm khác người miền Provence, người miền Irlande phát âm khác người miền Ecosse; còn ở Trung Hoa thì hầu như mỗi tỉnh có một giọng nói, mà công việc thống nhất cách phát âm mới bắt đầu từ mấy năm nay, chưa có kết quả gì đáng kể.
Ở nước ta, đồng bào miền Bắc phát âm nhiều tiếng cũng khác đồng bào miền Nam; người sinh ở Bắc không phân biệt d, gi, và r; s và x; ch và tr; còn người miền Nam không phân biệt d với v, dấu hỏi với dấu ngã, c và t ở cuối các tiếng (như cát, các), n và ng ở cuối các tiếng (như an và ang…).
Do đó có nhiều tiếng viết tuy khác nhau mà một Bắc và một người Nam đọc lên thì lại giống nhau; những tiếng này chúng tôi gọi là giả đồng âm.
Chúng tôi nhớ một lần, một ông bác tôi sinh trưởng ở Bắc nhưng sống trong Nam đã lâu[41], đọc cho tôi một bài thơ cảnh thê tróc tử phọc, trong đó tôi nghe được một câu như vầy:
Sắc thuốc cho bay trắng cả đầu.
Tôi ngạc nhiên, vì câu thơ tầm thường, suy nghĩ một chút tôi mới hiểu ra là:
Sắc thuốc tro bay trắng cả đầu.
Bác tôi nói “tro” như người ở Nam, chứ không nói “gio” như đồng bào ở Bắc, nhưng lại đọc “tro” theo giọng Bắc: cho, vì vậy mà tôi hiểu lầm là sắc thuốc cho bay: sắc thuốc cho vợ con.
Tiếng tro và cho trong câu thơ đó là giả đồng âm, còn tiếng bay (là di chuyển trong không khi) với tiếng bay (trỏ người dưới như vợ con) mới là thật đồng âm dị nghĩa.
Lần khác, kể một chuyện cho học sinh năm thứ tư ban cao đẳng tiểu học[42], tôi nói: “Vị hiền triết Ả Rập đó bảo môn đệ: “kéo bễ đi”. Học sinh đều ngơ ngác không hiểu gì cả. Tôi phải giảng tiếng “bễ” dấu ngã chứ không phải dấu hỏi, lúc đó họ mới hiểu và ngó nhau cười. Vì họ là người ở Nam, không phân biệt hai dấu đó, nghe “bễ” ra “bể”. Hai tiếng “bễ” và “bể” đó cũng là giả đồng âm. Còn hai tiếng “bể” (biển) và “bể” (vỡ) mới là thực đồng âm dị nghĩa.
Dưới đây chúng tôi chỉ xét trường hợp ít tiếng thực đồng âm dị nghĩa, vì khi đọc sách báo, chỉ những tiếng đó, chánh tả y hệt nhau mới có thể làm cho ta bỡ ngỡ hiểu lầm thôi.
*
* *
1. Hay:
Có bốn tiếng hay, nghĩa khác nhau:
- Hay là siêng năng, thường làm, thường xảy ra.
Ví dụ:
Hay làm (siêng làm)
Hay đi đêm, có người gặp ma (thường đi đêm)
- Hay là giỏi, trái với dở (nghĩa này có lẽ do nghĩa trên mà ra vì hễ siêng năng thì thường giỏi).
Ví dụ:
Hay chữ. Mẹ hát con khen hay.
- Hay là biết, hiểu rõ.
Ví dụ:
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về (Nguyễn Du).
- Hay là hoặc là.
Ví dụ:
Cười người chẳng ngẫm đến ta,
Thử sờ lên gáy xem xa hay gần.
Nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ tư thường gây ra sự hiểu lầm.
Ví dụ:
(1) Tất cả y sư trong thành đều được đồ đệ của thuốc phiện tới viếng – hoặc nhiều hoặc ít, tuỳ theo mỗi người tỏ ra nghiêm khắc hay thương hại dân ghiền.
Nghĩa câu này cũng như câu số (2) ở dưới tuy rõ, không gây sự hiểu lầm được, nhưng tiếng hay đó nên đổi ra tiếng hoặc để độc giả khỏi bỡ ngỡ vì hay thương hại còn có nghĩa là thường thương hại và muốn tránh sự lập lại đến ba lần tiếng hoặc thì ta có thể viết:
Tất cả y sư trong thành đều được đồ đệ của thuốc phiện tới viếng – nhiều hoặc ít, tuỳ theo mỗi người tỏ ra nghiêm khắc hoặc dễ dãi với dân ghiền.
(2) Kho đụn đầy, lễ tiết mới hay, cơm áo đủ, vinh nhục mới rõ.
Mới đọc nửa câu, chúng tôi tưởng hay đó có nghĩa là giỏi (giỏi về lễ tiết). Tác giả muốn dùng thể biền ngẫu cho nên dùng tiếng hay để đối về cả ý lẫn âm với tiếng rõ; vì vậy không cần phải sửa.
Nhưng còn câu dưới đây:
(3) Mãi đến tuổi già ông trưởng giả Jourdain học làm sang mới hay như thế.
Thì rất nên đổi hay như thế ra: biết điều ấy (nghĩa là biết rằng từ nhỏ mình đã làm văn xuôi mà không ngờ), vì nếu không thì độc giả có thể hiểu làm hay như thế nghĩa là giỏi như thế.
2. Mới:
Có ba tiếng mới:
- Mới trái với cũ, vừa qua.
Ví dụ:
Có mới nới cũ, mới có ván đã bán thuyền
- Mới trỏ một điều kiện
Ví dụ:
Thức khuya mới biết đêm dài.
- Mới: tiếng thông tục gọi người mõ trong làng (theo Việt Nam từ điển)
Nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ nhì có thể lầm với nhau được.
Ví dụ:
(2) Năm 1908, nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục chủ trương rằng phổ thông những kiến thức mới là công việc cứu quốc.
Tác giả muốn dùng tiếng mới theo nghĩa thứ nhất, nhưng nếu đọc vội, không lưu ý tới tiếng những ở trước tiếng kiến thức thì có thể lầm rằng mới[43] có nghĩa thứ nhì. Vì vậy, chúng tôi đề nghị: hoặc đổi kiến thức mới ra tân kiến thức:
Năm 1908, nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục chủ trương rằng phổ thông tân kiến thức là công việc cứu quốc.
(Tân kiến thức tuy là tiếng Hán Việt nhưng đã rất thông dụng, dùng nó ta có lợi là bớt được tiếng những), hoặc dùng hai gạch nối giữa ba tiếng kiến-thức-mới.
3. Bằng:
Việt Nam từ điển ghi được sáu tiếng bằng. Chúng tôi xin kể ra hai tiếng có thể lầm với nhau được.
- Bằng nghĩa là giống nhau, ngang nhau.
Ví dụ:
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (Nguyễn Du).
- Bằng nghĩa là bởi cái gì mà ra.
Ví dụ:
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa (Ôn Như Hầu).
Việt Nam từ điển cho hai tiếng bằng đó chỉ là một, chúng tôi không dám chắc rằng nghĩa thứ nhì do nghĩa thứ nhất mà ra.
Hồi này nhiều người theo lối phô diễn của Pháp, dùng tiếng bằng (nghĩa thứ nhì như tiếng par) thành thử giọng văn không được thuần mà lại có thể gây hiểu lầm, như câu sau đây:
(3) Tôi không thích sự hoạt động bằng gian trá.
Cũng may không có tiếng sự trước tiếng gian trá, nếu có thì chúng ta có thể tưởng rằng tác giả thích sự gian trá hơn sự hoạt động. Chúng tôi muốn sửa lại nhưng không hiểu rõ ý tác giả. Có phải tác giả muốn nói:
Nếu phải gian trá mới hoạt động được (nghĩa là mới nên việc) thì thà không hoạt động?
4. Chỉ:
Có hơn chục tiếng chỉ, ở đây tôi xin ghi lại hai tiếng:
- Chỉ là thế mà thôi.
Ví dụ:
Nhà anh chỉ có một gian.
Nửa thì làm bếp, nửa toan làm buồng (ca dao)
- Chỉ là bảo rõ cho người ta biết.
Ví dụ:
Chỉ đường cho hươu chạy (tục ngữ)
Đọc câu:
Tôi cam kết chỉ có các tăng ni chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp quốc gia.
Tôi đã phải suy nghĩ một chút mới hiểu rằng tiếng chỉ đó có nghĩa thứ nhì. Trong những trường hợp như vậy tôi nghĩ nên dùng tiếng trỏ cho rõ nghĩa. Chỉ là tiếng Hán Việt mà trỏ là tiếng Nôm, nghĩa như nhau. Câu dưới đây cũng bắt chúng tôi suy nghĩ một phút rồi mới hiểu rằng chỉcó nghĩa là trỏ:
(7) Trẻ chưa biết hi sinh cho những cái gì cao cả, hành động là vì lợi, vậy ta nên chỉ cho chúng thấy lợi để chúng làm điều thiện.
5. Cùng:
Có hai tiếng cùng:
- Cùng: tiếng Nôm có nghĩa là chung, và, đều.
Ví dụ:
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên (Nguyễn Du)
Đôi ta như thể con tằm
Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong (ca dao)
- Cùng: tiếng Hán Việt, nghĩa là chót[44] hết, không còn gì nữa, túng quẫn, nghèo khó.
Ví dụ:
Tới cùng trời cuối đất, không còn thiếu đâu nữa.
Lớp cùng thông như đốt buồng gan (Ôn Như Hầu).
Trong câu:
(8) Tai mắt muốn cùng cái đẹp của tiếng và màu.
Chúng tôi nghĩ nên đổi cùng ra hưởng tận thì rõ nghĩa và xuôi tai hơn, vì ta chưa quen dùng tiếng cùng làm động từ như vậy
6. Từ:
Có tới non một chục tiếng từ, rất ít khi ta hiểu lầm tiếng nọ với tiếng kia, và trường hợp dưới đây là một trường hợp đặc biệt, tôi ghi lại chỉ cốt để độc giả thấy rằng viết văn, dù chú ý từng chút, cũng không làm sao tránh được hết sơ suất.
Trong bản thảo cuốn Đại cương văn học sử Trung Quốc III (từ Ngũ đại đến hiện đại), tôi viết:
(9) Văn học đời Thanh kết thúc các đời trước, từ phú thơ, biền văn, cổ văn đến tuồng, tiểu thuyết loại nào cũng được tôn trọng và cũng có những tác phẩm xuất sắc.
Tôi đã chép lại câu ấy hai lần, đọc lại câu ấy hai lần mà không lần nào thấy một lỗi nhỏ trong đó. Khi in, một anh bạn[45] sửa giùm bản in trỏ vào chữ từ và hỏi tôi: “Anh nhận thấy có cái gì không ổn không?” Tôi đọc lại chầm chậm, đáp: “À có. Chữ từ đặt trước chữ phú như vậy, độc giả đọc chưa hết câu ngỡ rằng từ đó là một thể thơ mất, như chữ từ trong Sở từ, “qui khứ lai từ”. Và tôi sửa là:
Văn học đời Thanh kết thúc các đời trước, từ biền văn, cổ văn đến thơ, phú, tuồng, tiểu thuyết, loại nào cũng được tôn trọng…
Bình thường thì hai tiếng từ dưới đây không thể lầm với nhau được:
- Từ: để trỏ chỗ hay lúc khởi đầu.
Ví dụ:
Từ phen đá biết tuổi vàng (Nguyễn Du)
- Từ: một loại thơ.
Ví dụ:
Đời Hán rất thịnh về từ phú.
Nhưng tiếng từ thứ nhất đặt ngay trước tiếng phú như trong câu trên thì ai chẳng lầm tưởng rằng từ đó là từ phú. Duy có người viết là tự mình không thấy mà thôi. Vì trong óc vẫn nghĩ và chỉ nghĩ rằng từ đó đi với đến ở dưới. Cho nên phải có kinh nghiệm với cây viết rồi mới có độ lượng với người viết, mới bỏ qua được những sơ sót của họ, mới nhận đúng được công phu của họ.
[36] Theo cuốn Đời viết văn của tôi thì gồm hai chương: VI: Một số cạm bẫy cần đề phòng và VII: Coi chừng những tiếng đồng âm dị nghĩa. Riêng chương VI, trong bản Văn Nghệ ghi nhan đề là: Để ý tới từ tính và từ vụ của mỗi tiếng. (Goldfish).
[37] Đoạn trên, có lẽ sách in sai. Chúng tôi đoán trong bản thảo như thế này: “…chỉ trích lối đó, vì lời văn vừa nặng, vừa diễn không đúng ý (chẳng hạn: nhan đề trên, nếu viết “Những sự thí nghiệm của ngòi bút tôi”, thì có nghĩa trừu tượng, chứ không cụ thể như tác giả muốn) (chúng tôi đã đọc cuốn này non 30 năm nay, chỉ nhớ đại ý tác giả như vậy. Bây giờ muốn đọc lại mà kiếm không ra), người ta lần lần theo ông…”. (Goldfish).
[38] Có lẽ thừa mấy chữ này: “và khai thác kinh tế thì” (Goldfish).
[39] Chữ vieillard này là do tôi ghi thêm. (Goldfish).
[40] Trong Để hiểu văm phạm Việt Nam, Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (viết chung với Trương Văn Chình) và cả trong Hồi kí, cụ Nguyễn Hiến Lê đều dịch “langue isolante” là “ngôn ngữ cách thể”. Chúng tôi đoán là trong Tôi tập viết tiếng Việt, cụ Nguyễn Hiến Lê cũng dịch như vậy, nhưng ông Thắng đã sửa lại thành “ngôn ngữ đơn lập” cho phù hợp với lời dịch của mình. Ngay đầu chương VI: Từ tổ và từ ghép, ông Thắng viết như sau: “Tiếng Việt là một loại thể ngôn ngôn ngữ đơn lập: Khác hẳn với các loại ngôn ngữ Ấn Âu, tiếng Việt là một thứ ngôn ngữ đơn lập (langue isolante)…”. Chúng tôi sẽ nói thêm về vấn đề này trong một chú thích ở phần phụ lục: Dịch văn ngoại quốc. (Goldfish).
[41] Có lẽ tác giả muốn nói đến cụ Phương Khê. (Goldfish).
[42] Tức lớp 9 ngày nay. (Goldfish).
[43] Gần đây (1975-1990) tiếng mới này dùng sai vị trí (hay có người cố ý) làm cho câu văn có vẻ lạ, nhưng thực sự không đúng ngữ pháp (xem phần trong sáng và mực thước).
[44] Chót: sách in là “chối”. (Goldfish).
[45] Có lẽ là nhà văn Hư Chu. (Goldfish).