CHƯƠNG X SỰ THUẦN KHIẾT[56]
Thế kỉ XVIII, văn hào Pháp Voltaire đã nói: “Le purisme est toujours pauvre”[57]: Chủ trương thuần khiết (trong ngôn ngữ) bao giờ cũng nghèo nàn, nghĩa làm cho ngôn ngữ thêm khô cằn. Lời đó đúng. Một ngôn ngữ có biến đổi mới là một sinh ngữ. Nếu không, nó đã thành một tử ngữ mất rồi. Không ai có thể bắt một sinh ngữ giữ hoài ngữ pháp, nhất là dụng ngữ của nó; phải để cho nó phát triển, mỗi ngày một mới mẻ thì nó mới phong phú lên, mới thêm sinh lực. Ta thử tưởng tượng nếu đầu thế kỉ này[58], các nhà cầm bút theo chủ trương thuần khiết, chỉ dùng cách phô diễn cố hữu của tiếng Việt, lại không tạo thêm tiếng mới thì Việt ngữ sẽ nghèo nàn tới bực nào, mà văn hóa của ta làm sao có thể tiến bộ được. (Hễ xã hội thay đổi, lối sống thay đổi, lối suy nghĩ thay đổi thì tự nhiên ngôn ngữ phải thay đổi theo).
Cuối thế kỉ trước, do ảnh hưởng của phương Tây, xã hội ta biến đổi mạnh mẽ: sự biến chuyển đó tiến đều đều cho tới thế chiến vừa rồi và lúc này đây nó đương tiến mau hơn nhiều nữa. Việt ngữ cũng chuyển theo cái đà đó, khoảng mười năm nay, nhiều người đã muốn áp dụng lối phô diễn của Pháp, nhất là để tạo ra vô số dụng ngữ mới. Trong phong trào canh tân nào cũng vậy, những người tiên phong đa số là trẻ, nhiệt huyết có dư, chín chắn thì thiếu, nên dễ gây ra một sự hỗn độn. Cho nên cần có hạng người hăng hái xung phong thì cũng cần có hạng người kìm hãm bớt lại mà giữ tính cách thuần khiết cho ngôn ngữ, và nhờ hai động lực tương phản mà đồng thời cùng hỗ tương bổ túc mà ngôn ngữ lần lần được một thế quân bình trong một thời gian để rồi lại biến chuyển nữa khi gặp một vận hội mới. Chúng tôi đoán rằng phải hai ba chục năm nữa, Việt ngữ mới được tương đối ổn định.
Đọc những chương trên[59], chắc độc giả đã đoán được chúng tôi có xu hướng thuần khiết. Về phương diện cú pháp, chúng tôi nghĩ chỉ nên mượn cách phô diễn của người khi nào thực là cần thiết, vì viết là để cho người đọc hiểu được dễ dàng và đúng ý của mình, mà đại đa số đồng bào của ta hiện nay không quen lối phô diễn của người Âu. Nhiều câu viết theo lối Pháp hay Anh chẳng những lúng túng mà còn tối nghĩa, làm cho họ đọc chỉ thấy chán hoặc bực mình.
Về phương diện tạo tiếng mới và phương diện dùng tiếng thì chúng tôi thấy chủ trương thuần khiết rõ ràng là yếu thế. Vì bốn lẽ:
1. Những người tạo tiếng mới, nhất là những tiếng dùng trong đời sống hằng ngày, thường bị nhu cầu trong khi công tác thúc đẩy, không có sẵn một chủ trương nào cả, mà họ cũng không phải là những nhà ngôn ngữ học hay bác học, nên không nghĩ đến, không biết đến chủ trương thuần khiết.
2. Những người đầu tiên dùng những tiếng mới đó phần đông ở trong giới bình dân, thấy nó tiện lợi, giúp họ diễn được ý kiến thì dùng ngay, không cần nghĩ xem, cũng không cần biết rằng nó thuần khiết hay không.
3. Khi đã có một số người dùng rồi thì những tiếng mới hoá ra mặc nhiên được công nhận, nghĩa là nó đã có quyền, có lí do để sống, các nhà ngôn ngữ học hay văn học có chê là nó không thuần khiết, là lố lăng, chướng tai thì cũng không chống lại nổi thói quen của số đông nữa.
4. Nếu có một số tiếng tạo không đúng ngữ pháp, thì đứng trong một câu, nó cũng chỉ là những phần tử nhỏ, không làm cho Việt ngữ mất bản sắc đi được, huống hồ hầu hết những tiếng đó đều có nhiều ưu điểm: gọn gàng, tiện lợi, cách cấu tạo đôi khi lại tài tình, bóng bảy nữa.
Do những lẽ đó ta thấy trong ngôn ngữ vô số tiếng cơ hồ như vô lí, vô nghĩa, kì cục mà vẫn thông dụng. Không phải từ khi ta chịu ảnh hưởng của Pháp mới có tình trạng đó đâu.
Tôi nhớ một nhà cách mạng Trung Hoa, Lương Khải Siêu, chê cụ Phan Bội Châu là viết tiếng Hán không thuần. Họ chê thì nhất định là phải đúng. Nhưng tại sao lại như vậy? Tại sao một người như cụ, nổi tiếng là hay chữ bực nhất trong nước, có tài về văn, thơ mà viết tiếng Hán lại không thuần? Tại cụ học ở Việt Nam, học ở ông thầy Việt Nam sống trong xã hội Việt Nam, cho nên có lối suy nghĩ, phô diễn của Việt Nam; đó là một lẽ, còn lẽ này nữa: tổ tiên chúng ta học tiếng Hán và dùng tiếng Hán để tạo nhiều tiếng mới, không có trong từ điển Trung Hoa, hoặc có mà dùng theo một nghĩa khác, người Trung Hoa đọc những tiếng đó cho là ta đã dùng sai, là viết không thuần.
Chẳng hạn, ta đặt ra tiếng an trí, nghĩa là đày đi một chỗ (như cụ cử Lương Văn Can bị Pháp an trí ở Nam Vang), nhưng người Trung Hoa không nói là an trí mà nói là câu cấm.
Ta nói ám ảnh thì họ nói là nhiễu loạn; hai tiếng đó nghĩa còn hơi giống nhau, và đọc tiếng ám ảnh họ còn có thể đoán được ta muốn nói gì. Đến tiếng liệu hồn thì nhất định là họ không sao hiểu nổi. Phân tích ra thì liệu là toan tính, sắp đặt, như tiên liệu, liệu lí; hồn là phần trái với xác, như linh hồn, hồn phách[60]. Vậy thì làm sao liệu hồn lại có ý đe doạ, có nghĩa là phải coi chừng, gần với tiếng tiểu tâm của Trung Hoa? Có phải là vô lí không?
Tiếng tiểu tâm này cũng rắc rối nữa, chính nghĩa của nó là phải cẩn thận, coi chừng, nhưng không biết từ bao giờ, người nào đó cũng dùng sai nghĩa đi, cho tiểu tâm là bụng dạ nhỏ nhen (ví dụ: kẻ tiểu tâm hay thù vặt) và ngày nay nghĩa đúng đã mất, mà nghĩa sai thì còn; người Trung Hoa đọc tới đó chỉ hiểu theo nghĩa đúng, bảo ta là viết bậy. Bậy đối với họ, chớ đối với ta là đúng.
Còn vô số tiếng khác dùng sai nghĩa hẳn như thế. Chúng tôi chỉ xin kể ít tiếng thông dụng nhất:
Tiếng Tử tế của ta, trong Hoa ngữ có nghĩa là tỉ mỉ.
Lịch sự của ta trong Hoa ngữ có nghĩa là trải đời.
Bồi hồi của ta trong Hoa ngữ có nghĩa là đi đi lại lại, do dự.
Tồi tàn của ta ở trong Hoa ngữ có nghĩa là làm hỏng đi.
Và tiếng tuần trong “tuần báo” của ta trỏ bảy ngày thì trong Hoa ngữ trỏ mười ngày mà một tờ tuần báo của ta họ gọi là chu san. Nhưng khi ta nói thượng tuần, trung tuần, hạ tuần trong một tháng thì tiếng tuần này lại trỏ mười ngày. Thành thử tiếng tuần trong Hoa ngữ có một nghĩa mà trong Việt ngữ có hai nghĩa. Sự kiện tôi kể trên không phải chỉ xuất hiện trong tiếng Việt, mà còn trong nhiều ngôn ngữ khác nữa.
Chẳng hạn, tiếng Mĩ vốn là tiếng Anh, vậy mà người Mĩ đã tạo ra tiếng fender (bộ phận chắn bùn ở trên bánh xe), tiếng flashlight (đèn pin) intermission (lúc tạm nghỉ ở giữa một tuồng hát), elévator (thang may), gasoline (dầu xăng)… trong khi Anh ngữ đã có những tiếng: mudguard, torch, interval, lift, petro…
Anh ngữ và Pháp ngữ có nhiều tiếng chung một gốc, viết như nhau mà nghĩa khác hẳn nhau: tiếng Anh evidence ngoài cái nghĩa là hiển nhiên như tiếng Pháp évidence còn có nghĩa là chứng cứ, tiếng Anh comity không có nghĩa là uỷ ban như tiếng Pháp comité, mà có nghĩa là lễ độ; tiếng Anh appointment có nghĩa là việc hẹn gặp gỡ, mà tiếng Pháp appointment lại có nghĩa là tiền công[61].
Khi những tiếng như ám ảnh, liệu hồn mới xuất hiện và khi những tiếng như tử tế, lịch sự mới dùng sai nghĩa gốc, chắc đã có một số nhà Nho chê là không thuần khiết, nhưng chê thì chê, đại chúng cũng vẫn dùng, dùng mỗi ngày một nhiều, rút cục phái thuần khiết phải xếp giáp qui hàng. Vì ngôn ngữ có những lí lẽ riêng của nó, không thể ép nó theo theo khoa luận lí của chúng ta được.
Hơn nữa, có những tiếng tạo sai ngữ pháp mà vẫn tồn tại. Trong cuốn Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam chúng tôi đã đưa ý kiến về việc dùng tiếng hoá để tạo những ngữ mới; ở đây chúng tôi không muốn nhắc lại ý kiến đó, chỉ xin độc giả lưu tâm tới điểm này: động từ lành mạnh hoámặc dầu bị rất nhiều người chỉ trích là lai căng[62], nửa nôm nửa Hán mà lại theo ngữ pháp Hán, thực lố lăng, chướng tai rất mực mà nó cứ vẫn mỗi ngày mỗi “lành mạnh” thêm lên, xuất hiện trong tất cả các công văn và sách báo đứng đắn.
Gần đây, chúng tôi còn được đọc những tiếng mới như tròn hoá vuông[63], hư hoá, acide hoá, bazơ hoá nữa. Thực là Pháp - Việt - Hoa đề huề: base là Pháp, nhưng viết bazơ thì lại là Việt hoá rồ, viết bazơ hoá thì là Pháp mà Việt hoá rồi Hoa hoá. Có hiện tượng nào kì dị hơn vậy không?
Độc giả cho là lố lăng, nhưng tiếng bố ráp rất quen tai thì cũng là nửa Việt nửa Pháp: bố là Việt mà ráp do râfle, là Pháp. Nhưng tiếng mét hệ cũng cấu tạo như vậy chứ khác gì (mét = metre, Pháp; hệ: Hoa, ghép theo ngữ pháp Hoa) mà hiện nay đã chiếm một địa vị tôn nghiêm trong các sách giáo khoa từ tiểu học tới đại học rồi đấy. Vì nó tiện lợi quá đi: không nói mét hệ thì nói thế nào bây giờ? Hệ thống thước tây ư? Hay Tây xích hệ thống? Lại như tiếng “phim trường” (sân khấu để quay phim). Phim là tiếng Pháp Việt, trường là tiếng Hán Việt, hai tiếng đó ghép với nhau theo ngữ pháp Trung Hoa. Bạn bĩu môi?
Vả lại ngôn ngữ nào mà chẳng có những cách ghép tiếng, tiếp ngữ lố lăng? Chẳng hạn tiếng orangeade của Pháp gồm tiếng orange gốc ở ngôn ngữ Ả Rập và tiếp vĩ ngữ ade gốc ở ngôn ngữ la tinh (?) Cách cấu tạo của nó y như tiếng mét hệ của ta, mà có người Pháp nào thấy chướng tai đâu?
Lại còn trường hợp dùng sai nghĩa mà vô tình tạo ra một từ ngữ mới nữa. Trước đây đọc trong tạp chí Bách Khoa một truyện ngắn của một nhà văn nổi tiếng tôi được biết thêm tiếng mới này: đẻ nhiều tiền. Tôi nhớ mài mại rằng một nhân vật phàn nàn mình không được “đẻ nhiều tiền” như bạn, nghĩa là không nằm một nhà hộ sinh vào hạng sang. Tôi chắc tiếng đó đã được thông dụng trong giới bình dân rồi và chẳng bao lâu nữa người ta sẽ nói “đẻ bảy chục đồng một ngày”, để diễn cái ý: nằm một nhà hộ sinh và phải trả bảy chục đồng, hai trăm đồng hoặc năm trăm đồng một ngày. Nghe thì nực cười nhưng nghĩ cho kĩ, nói như vậy quả là tiện.
Cứ phân tích theo ngữ nguyên thì có biết bao nhiêu tiếng dùng sai[64]: như kiêu ngạo, bao dai. Trong Nam tiếng kiêu ngạo có nghĩa là chế giễu, chứ không có nghĩa là khoe khoang, ngạo mạn. Ba chục năm trước, mới vô đây, nghe người ta dùng sai tiếng đó tôi thấy chướng, bây giờ thì quen tai quá rồi và nói chuyện với đồng bào nông thôn tôi cũng vẫn thường dùng nó, dùng tiếng chế giễu thì ngại rằng họ không hiểu[65].
Còn tiếng bây dai vốn có nghĩa là dài bấy nhiêu (trỏ ý xác định), ngày nay thường dùng trong câu hỏi, như bao dai (là dài bao nhiêu?). Chẳng hạn ta hỏi: Khúc vải đó bây dai? Người bán hàng đáp: Ba thước hai. Có lẽ hồi đầu, người hỏi đưa hai cánh tay ra, hai bàn tay cách nhau một khoảng nào đó rồi hỏi: “Khúc cây đó bây dai?” (nghĩa là: Khúc cây đó dài bằng bây nhiêu, phải không?) Rồi lần lần bây dai hoá ra có nghĩa hỏi, và người hỏi chẳng cần đưa tay ra hiệu để trỏ độ dài là bao nhiêu cũng dùng tiếng bây dai. Ông Étiemble trong cuốn Parlez vous Franglais[66] trang 219 (Gallimard[67]), người ta cũng nói: “Tiệm này ăn ba chục giây ít hơn tiệm trước mặt”. Ăn ít thì giờ hơn, đẻ ít tiền hơn: Việt, Mỹ quả là cùng một tâm lí.
Đa dụng nhất là trường hợp dưới đây:
Ta nói: ngày 25 tháng 7, canh một, canh hai, giờ dần, giờ tí.
Ví vậy, đáng lẽ phải nói: 4 giờ buổi chiều, 9 giờ buổi sáng; sao lại nói 4 giờ chiều, 9 giờ sáng?
Ta hỏi: ngày mấy? canh mấy? Vậy thì đáng lẽ ta phải hỏi giờ mấy? mà sao ta hỏi mấy giờ?
Như vậy là trái hẳn với ngữ pháp Việt Nam và theo đúng ngữ pháp Pháp: quatre heures du matin, neuf heures du soir[68], quelle heure est il?
Lỗi nặng cũng như không nói: Tôi đọc sách, mà nói: Tôi sách đọc; hoặc cũng như không nói: Tờ giấy trắng mà mói: Tờ trắng giấy.
Vậy mà toàn dân, ai cũng cho nói: bốn giờ, mấy giờ? mới là đúng, không một ai ngờ rằng nói thế là ngược.
Tại sao ta chấp nhận ngữ pháp của người một cách dễ dàng, tự nhiên đến thế nhỉ?
Có lẽ người Pháp hay người Bồ Đào Nha, Y Pha Nho nào đó, lần đầu tiên đem chiếc đồng hồ qua nước ta, muốn trỏ cách đọc giờ, mà không thông tiếng Việt, nói theo ngôn ngữ của họ:
“Số này có một vạch là số 1, trỏ 1 giờ; số này có 2 vạch, là số 2, số này là 3 vạch…”[69]. Tổ tiên ta lặp lại đúng những lời đó, chẳng xét xem có đúng ngữ pháp Việt hay không.
Khi họ hỏi lại: Thế đây là mấy giờ? Tổ tiên ta cũng đáp: Đây là 1 giờ, đây là 2 giờ…
Tới khi tổ tiên ta nhận ra rằng nói như vậy là sai ngữ pháp thì đã quen miệng rồi, không thể sửa được nữa, rút cục một lối nói rất chướng tai đã hoá ra rất tự nhiên. Nhưng tôi chỉ mới thấy có sự vay mượn đó là được chấp nhận một cách lạ lùng, được “tốt số” như vậy, còn biết bao nhiêu sự vay mượn khác tuy không có gì là ngược đời mà vẫn bị coi là lai căng. Chẳng hạn: từ ngữ lấy xe: Tôi lấy xe lửa đi Lyon (Je prend le train de Lyon), Tôi lấy xe tắc xi đi Versailles… thì chỉ thịnh hành ở nước ngoài thôi; các sinh viên ở Pháp về nước ít lâu tự nhiên thấy ngượng, không nói như vậy nữa mà nói như mọi người ở đây: Tôi đi xe, Tôi lên xe, hay Tôi đón xe… Tiếng lấy xe đó quả là “xấu số”[70].
Vậy trong ngôn ngữ, thói quen đóng một vai trò rất quan trọng, chủ trương thuần khiết không sao địch nổi với nó. Chẳng riêng gì tiếng Việt, tiếng Pháp cũng vậy. Ngay từ thế kỉ XVII, Vaugelas đã nói rằng ngôn ngữ tạo nhiều cái vô lí, có khi ngược đời là khác nữa. Có gì ngược đời bằng điều này: tiếng gens của Pháp lúc thì giống đực: Tous[71] les gens querelleurs; lúc thì lại là giống cái: Toutes les vieilles gens; lúc lại vừa giống cái vừa giống đực: Les vieilles gens sont[72] soupçonneux, ils sont toujours sur leurs gardes. Vậy mà tất cả các ông Hàn, tất cả các nhà ngôn ngữ Pháp trong mấy thế kỉ nay cũng đành bó tay, không sửa được cái lối dùng tiếng gens kì dị đó.
Đọc bộ Problèmes de Langage (2 cuốn) của Maurice Grevisse (Universitaires de France – 1963) độc giả sẽ thấy tác giả nêu ra nhiều tiếng dùng sai: như préjuge de quelque chose, aller en bicyclette, dans le but de…[73] nhưng đã thông dụng, nhất là được các nhà văn danh tiếng chấp nhận, thì rồi cũng hoá đúng.
Nghĩ vậy, chúng tôi tự hỏi: Ngày nay đã có người viết: giấy tờ chủ nghĩa, nhà trưởng, mâm trưởng, acid hoá, prôphin (profil) thì trong dăm ba thế hệ nữa, tiếng Việt sẽ biến hoá ra sao? Lúc đó, cháu chắt chúng ta mở những trang sách chúng ta viết ngày nay, khó mà đọc ra nổi. Không ai cản nổi trào lưu tiến hoá, nhất là trong ngôn ngữ. Chủ trương thuần khiết quả là yếu thế.
*
Tuy nhiên, như trên chúng tôi đã nói chủ trương đó cũng có phần hữu ích. Nó có công dụng hạn chế những biến đổi lộn xộn, có nó thì mọi sáng kiến mới chỉ là thí nghiệm chứ không nhất đán thành ngay những qui luật, mà ngôn ngữ mới còn giữ được tính cách nhất trí. Nó biết rằng có lúc nó sẽ thua, phải rút lui trước sự tấn công mãnh liệt của thói quen, và khi tự nhận ra là thua rồi thì nó trở lại bênh vực cho kẻ đã thắng nó: cứ như vậy, đời sau tiếp đời trước, nó lãnh một nhiệm vụ bạc bẽo nhưng đẹp đẽ. Nó là cô gái nền nếp không cổ lỗ, mỗi khi có một “mốt” mới lạ thì dè dặt chưa theo vội, nhưng khi cái mới đó đã thành thói quen thì cũng vui vẻ theo đời chứ không lập dị.
Hiện nay, nó vẫn còn muốn chống với thói dùng dư tiếng chẳng trong từ ngữ chẳng thà, và thói dùng thiếu tiếng chẳng trong những câu tỏ ý nghi ngờ.
Nó nhắc ta rằng: “thà” nghĩa là “đành”, như trong những câu dưới đây của Nguyễn Du:
Thà rằng liều một thân con (677)
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung (792)
Thà liều sống chết một ngày với nhau (2532)
Một lần sau trước cũng là (663)
Thôi thì khuất mặt chẳng thà lòng đau.
“Chẳng thà lòng đau” nghĩa là không đành lòng đau, và trong hai câu cuối, Nguyễn Du muốn nói: Trước sau cũng một lần chết, vậy thì chết bây giờ đi còn hơn là chịu khổ.
Ngày nay người ta nói: “Chẳng thà chết chứ không chịu nhục” là nói sai, dư tiếng chẳng.
Lại cũng dẫn thơ Nguyễn Du để chứng minh rằng trong nhiều trường hợp người ta dùng thiếu tiếng chẳng.
Tố Như viết:
Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi?
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?
Tốt chi mà rước tiếng chê vào mình?
Biết người biết mặt, biết lòng làm sao?
Còn tình đâu nữa = không còn tình nữa; Còn có Châu Trần nào hơn = không có Châu Trần nào hơn; Tốt chi = không tốt; Biết lòng làm sao = không biết lòng ra sao.
Những câu hỏi đó đều có nghĩa phủ định, nếu muốn diễn cái ý khẳng định, thì phải thêm một tiếng phủ định (do luật: hai phủ định thành một khẳng định), chẳng hạn:
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao (nghĩa là rồi nữa sẽ là chiêm bao).
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao (= tiếng nào cũng não nùng xôn xao)
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru! (= trông hoa đèn mà thẹn mình)
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru! (= công đeo đuổi thiệt thòi lắm).
Vậy viết:
Mày nói vậy chắc chi nó giận?
Khỏi sao nó hiểu lầm mày.
là sai, vì thiếu tiếng chẳng; phải viết:
Mày nói vậy, trách chi nó chẳng giận?
Khỏi sao nó chẳng hiểu lầm mày.
Mà viết:
Biết đâu chừng các nhà tu theo thiền học bày ra lối khổ hạnh để rồi mượn đó mà giục tư tưởng bay bổng cho được cao.
cũng là sai nữa, cũng là thiếu chữ chẳng: chẳng bày ra…
Ngày nào mà đa số dân chúng nói trái hẳn Nguyễn Du, mà đa số các nhà văn danh tiếng cũng viết trái hẳn Nguyễn Du thì lúc đó chủ trương thuần khiết tất nhiên cũng phải nhượng bộ. Nhưng trong khi chưa phân thắng bại thì ta vẫn nên đứng vào phe Nguyễn Du. Bạn không cho như vậy là một vinh dự ư?
[56] Trong bản Văn Nghệ là chương XI: Sự thuần khiết trong ngôn ngữ. (Goldfish).
[57] Sách in là “Lepurisme est toujours”. (Goldfish).
[58] Ý nói đầu thế kỉ 20. (Goldfish).
[59] Theo chúng tôi, “những chương trên” không bao gồm các chương VI, VII, VIII và IX mà chúng tôi ngờ là của ông Thắng. (Goldfish).
[60] Hồn phách: sách in là “hồn bạch”. (Goldfish).
[61] Những tiếng viết như nhau mà nghĩa khác nhau như vậy, Maxime Koessler và Jules Derocquigny gọi là những bạn giả dối “faux amis”.
[62] Sách in là “lai căn”. (Ca_kiem).
[63] Có lẽ tròn hoá, vuông hoá bị in lầm thành “tròn hoá vuông”. (Goldfish).
[64] Sách in “bao nhiêu dùng sai tiếng”. (Ca_kiem).
[65] Vài chục năm gần đây cách tạo từ mới của người bình dân làm cho vốn từ tiếng Việt hiện nay rất phong phú; nhất là các từ mới ở miền Nam nhưng sách này không có tham vọng về vấn đề đó, nên không nhắc tới.
[66] Franglais – tiếng Anh Pháp, tương tự như tiếng Hán Việt của ta.
[67] Gallimard: tên một nhà xuất bản ở Pháp. (sách in sai thành: Gallemard). (Ca_kiem).
[68] Ở trên nói 4 giờ chiều, 9 giờ sáng thì ở đây, theo chúng tôi, viết quatre heures du soir, neuf heures du matin mới phải. (Goldfish).
[69] Đồng hồ thời xưa dùng số La Mã. Nếu họ thông tiếng Việt thì họ nói: giờ 1, giờ 2, giờ 3…
[70] Có thể một ngày nào đó, các kiều bào ở Pháp, Mĩ, Đức ùa nhau hồi hương một lúc thì lối nói đó đủ sức mạnh để phổ biến.
[71] Tous: sách in là “toutes”. (Goldfish).
[72] Sont: sách in là “tout”. (Goldfish).
[73] Đáng lẽ phải nói: préjuge quelque chose, aller à bicyclette, pour le but de…