← Quay lại trang sách

Chương 3 Đảng Lao Động Mới.

Tới đêm khuya hôm đó, trong khi cả nước vẫn bàng hoàng trước sự ra đi của John Smith, Mo đã kiên quyết yêu cầu tôi đến một cuộc họp nơi cô đã tập hợp được thứ mà cô gọi là “những quả trứng đá” – những người sẽ tổ chức tranh cử vị trí lãnh đạo cho tôi. Họ là một nhóm nghị sĩ đa dạng, với một số gương mặt quen thuộc và một số gương mặt không ngờ đến − những người ủng hộ tự nhiên và cả những người ủng hộ gượng ép. Họ không phải là thành phần trí thức của Công Đảng Nghị viện (PLP), họ đã học hỏi về chính trị theo một cách thức khó khăn, họ rất cứng rắn, dũng cảm và quy củ. “Đây là những người sẽ làm việc cho ngài,” cô ấy nói. “Ngài có thể thấy rằng ngài có đủ hậu thuẫn để chiến thắng.”

Tôi thậm chí không thể nhớ thời gian và địa điểm chính xác của cuộc họp đầu tiên với Gordon. Thậm chí có thể tôi đã bắt đầu một cuộc nói chuyện quan trọng với ông ấy qua điện thoại. Đó là cả một chuỗi những hoạt động nói, nghĩ, dự đoán và không có quá nhiều những mưu mẹo, mà thay vào đó, tôi đã cố gắng để các mưu mẹo ra bên ngoài.

Sau cuộc họp, tôi quay lại Richmond Crescent. Có cả một nhóm phóng viên và nhiếp ảnh gia tụ tập bên ngoài ngôi nhà. Họ ở lại từ lúc đó, theo từng nhóm lớn nhỏ, cách cửa sổ phòng ngủ của chúng tôi khoảng 3m. Đó quả là một cảm giác kỳ lạ. Thậm chí phía trong phòng, những tấm mành dày được buông kín nhưng tôi vẫn có cảm giác giật mình, lúng túng, nhưng – cũng có một chút gì đó phấn khích vì được diễn thuyết.

Tôi cố gắng kiềm chế nhưng không giấu nổi sự hồi hộp. Nhiều tuần sau khi John mất – đây là lần đầu tiên tôi có cảm giác như vậy – tôi thức dậy vào buổi sáng với phần tóc sau gáy ướt đẫm mồ hôi. Những gì tôi có thể kiểm soát lúc tỉnh táo đã hoàn toàn chế ngự tôi trong giấc ngủ.

Cherie là một động lực kỳ diệu trong những khoảng thời gian như thế này. Cô ấy biết rằng cuộc đời mình sắp thay đổi và điều này cũng đáng sợ chẳng kém. Cherie, sinh trưởng tại Bắc London và là một luật sư tài năng mẫn tuệ, sắp phải va chạm với thế giới báo lá cải và những ánh đèn bất tận của giới truyền thông. Nền tảng giai cấp công nhân của cô đồng nghĩa với khả năng thích ứng và hòa nhập tốt đẹp với mọi người, nhưng trải nghiệm duy nhất của cô trước đây với kiểu nổi tiếng này là từ kinh nghiệm của cha mình và nó chẳng hề vui vẻ.

Thế nhưng, đêm đó cô ấy đã ôm và vỗ về tôi, nói với tôi điều tôi cần được nghe, tiếp thêm sức mạnh cho tôi, làm tôi cảm thấy những gì tôi sắp làm là đúng đắn. Tôi không nghi ngờ gì về việc mình phải chiếm lấy nó, nhưng tôi cần có sự tái khẳng định và trên hết, cần được tiếp thêm động lực tinh thần.

Tôi là người rất độc lập về cảm xúc thậm chí quá độc lập. Nhưng tôi cũng sợ mất kiểm soát bởi bản chất con người suy cho cùng vẫn là yếu đuối và không đáng tin.

Vào đêm 12 tháng Năm năm 1994, tôi đã cần tình yêu của Cherie, một cách ích kỷ. Tôi đã ngấu nghiến nó để nạp thêm sức mạnh, tôi như một con thú đang đi theo bản năng, biết rằng mình sẽ cần tất cả các nguồn động lực và sự kiên cường để đối mặt với những gì đang chờ đợi ở phía trước. Tôi vừa hồ hởi, lo lắng vừa quyết tâm.

Tuy nhiên, nỗi sợ đã mang lại một hậu quả mà cho tới hôm nay tôi cũng không chắc là ảnh hưởng đó là ôn hòa hay xấu. Tôi không muốn chiến đấu chống lại Gordon trong cuộc cạnh tranh giành quyền lãnh đạo. Bởi một cuộc chiến như thế cần chúng tôi phải tách bạch và không thể tránh khỏi, ông ấy sẽ ngả sang phía cánh tả. Thực ra, trong hai ngày sau đó, tờ Times đã đăng một câu chuyện – có lẽ được đưa ra bởi Peter, người vẫn chưa toàn tâm toàn ý với tôi mà đang cố gắng xoay sở tình thế giữa hai chúng tôi. Câu chuyện đã phác thảo trước nội dung một bài diễn thuyết mà Gordon sắp thực hiện trước Hội nghị Công Đảng xứ Wales được tổ chức ở Swansea. Nó được trình bày như thể để kiểm tra đoàn diễu hành Blair và cũng được dùng để thu hút sự ủng hộ của công đoàn. Một sự chia rẽ giữa hai nhà hiện đại hóa chính – và một trong đó là người mà Chính phủ Đối lập muốn ủng hộ − không phải là một việc tốt. Tôi có thể thắng, nhưng cái giá phải trả sẽ là gì?

Nếu thành thật, thì có một lý do nữa khiến tôi không muốn có một cuộc cạnh tranh đối đầu: Tôi sợ sự hiểu lầm, sự hiểm ác có thể có, nỗi buồn khi hai người bạn trở thành kẻ thù. Tôi không thể nói cảm giác nào chế ngự nhiều hơn – sự tính toán được mất về mặt chính trị hay cảm giác sợ hãi – nhưng sự kết hợp giữa chúng khiến tôi quyết tâm ve vãn Gordon, thay vì chạm trán trực diện ông ấy.

Nhiều lần sau đó và sau nhiều suy đoán liên tiếp, tôi vẫn không chắc liệu đó có phải quyết định đúng đắn không. Để đánh bại ông ấy thì có thể bắt đầu bằng việc chế ngự ông ấy, ít nhất là tạm thời, nhưng làm thế không thể loại bỏ được Gordon – trong nhiều trường hợp chúng tôi vẫn cần ông ấy – và cách làm đó có thể làm mất đi hay làm yếu đi ý niệm về hình ảnh của một Công Đảng mới vốn đã hình thành trong tâm trí tôi. Dù chúng tôi có cố gắng đến mấy để giữ cho cuộc cạnh tranh được tốt đẹp, nó vẫn không thể tránh khỏi những trở ngại hoặc khó khăn. Dù sao, tôi cũng mong mỏi là ông ấy sẽ tự nguyện rời khỏi chiến trường. Đương nhiên, tôi vẫn sẵn sàng chiến đấu, nhưng đó không phải lựa chọn được ưu tiên của tôi.

Tất nhiên, Gordon không phải thách thức duy nhất. Trong cuộc nói chuyện đầu tiên giữa tôi và John Prescott, tôi đã cố gắng để ông ta hiểu rằng ông nên rời bỏ cuộc cạnh tranh và chỉ tranh cử cho vị trí phó mà thôi. Đó là một cuộc nói chuyện thân mật, nhưng John quả quyết là ông ta sẽ ra tranh cử. Ông ta cho rằng bằng cách tranh cử cả hai vị trí, ông sẽ nâng cao cơ hội trở thành phó lãnh đạo (deputy leadership). Ngược lại, Margaret Beckett đã khôn ngoan hơn khi chỉ ứng cử vị trí phó lãnh đạo. Khi đó, trong khoảng thời gian ngay sau khi John mất, Margaret Beckett trở thành nhà lãnh đạo lâm thời cho tới khi cuộc tranh cử để tìm kiếm nhà lãnh đạo chính thức kết thúc, sau đó bà có thể sẽ được trao vị trí phó lãnh đạo danh dự. Tôi cho rằng lòng tự tôn khiến bà ấy không thể chấp nhận điều đó, dù tôi phải nói rằng sau đó bà đã xử sự rất lịch thiệp với tôi. Sự sẵn lòng cạnh tranh của John, cùng sự khôn ngoan của ông ta đã nhắc tôi rằng lễ đăng quang mà tôi mong muốn là một ý tưởng tồi, tất cả đã kích động ý chí chiến đấu trong tôi. Ngay sau đó tôi nhận ra rằng mình không nên và không thể rút lui, tôi phải bước ra và giành chiến thắng.

Sự tham gia của Gordon lại là chuyện hoàn toàn khác và vì thế chúng tôi phải bắt đầu một chuỗi những vụ đàm phán, ở nhiều vị trí bí mật, cách xa tòa nhà Hạ Viện và những con mắt nhòm ngó. Chúng tôi gặp mặt ở nhà chị dâu tôi ở góc cua gần Richmond Crescent; hay ở nhà Nick Ryden, một người bạn của tôi ở Edinburgh; và trong một căn hộ của cha mẹ bạn gái cũ và cũng là mối tình đầu của tôi, Amanda Mackenzie Stuart. Một cuộc gặp mặt như vậy phải được giữ tuyệt mật bởi những lý do hiển nhiên, khi thế giới bên ngoài đang rộ lên những lời đồn đoán. Đó chỉ là một cuộc cạnh tranh để trở thành lãnh đạo phe Đối lập, tất nhiên, nhưng nó cũng mang một cảm giác rất mãnh liệt rằng Công Đảng có nhiều triển vọng trong cuộc bầu cử tới. Hàng loạt dự đoán xuất hiện; “có điều gì đó mơ hồ đang diễn ra”, theo lời của một bài hát. Đó là thời khắc phù hợp, một sự hoán đổi thế hệ, một điềm báo rằng kết quả lựa chọn lãnh đạo mới có thể sẽ thay đổi không chỉ đảng mà cả đất nước và không đơn giản chỉ là sự thay đổi Chính phủ, mà đó là sự thay đổi trong hệ tư tưởng của thời đại.

Mọi thứ bẵng đi trong một vài tuần, vì có một thỏa thuận được đặt ra bởi Ủy Ban Hành Pháp Quốc Gia (NEC – National Executive Committee) rằng hoạt động tranh cử quyền lãnh đạo sẽ không được tiến hành cho tới khi các cuộc bầu cử ở châu Âu, được ấn định diễn ra vào giữa tháng Sáu. Còn có một lý do nữa khiến chúng tôi phải giữ bí mật. Những người ủng hộ riêng của chúng tôi rất hồi hộp về thỏa thuận giữa hai người: Người ủng hộ của Gordon lo rằng ông ấy sẽ đồng ý ngừng tranh cử, nhiều người thúc giục ông ấy tranh đấu; người ủng hộ tôi thì lo lắng tôi sẽ nhường Gordon một số điều khoản. Mỗi lần chúng tôi gặp mặt đều làm dấy lên những gợn sóng của sự hồi hộp lan tỏa giữa những nhóm người ủng hộ về những sự nhượng bộ mà cả hai chúng tôi có thể đã thực hiện. Vì lý do đó Anji và Sue Nye, những trợ thủ đắc lực của Gordon, đã giữ kín những thỏa thuận giữa hai chúng tôi. Cũng thời điểm đó, giới truyền thông cũng thường xuyên săn đuổi tôi. Nơi gặp mặt thường được chọn lựa cẩn thận, nhưng dường như họ cũng đoán được việc chúng tôi chọn nhà bạn bè làm nơi gặp mặt. Tôi đang chạy nước rút.

Chị của Cherie, Lyndsey và chồng chị ấy, Chris tuyệt đối an toàn và chắc chắn. Nick là một trong những người bạn lâu năm nhất của tôi, sinh trưởng tại Fettes, cậu ấy là người hoàn toàn đáng tin, thông minh và kín đáo. Tôi cũng thích sự lãng mạn khi gặp mặt ở nhà Amanda. Mối tình đầu, cơn bão cảm xúc và khao khát mãnh liệt, dự cảm mãnh liệt về điều gì đó độc đáo, không thể diễn tả nổi, không thể giải thích nổi và thậm chí đôi khi không thể hiểu nổi, nhưng lại rất li kỳ, kích thích, liệu có khiến trống ngực bạn đánh liên hồi? Lúc đó tôi 18 tuổi, năm cuối cùng ở Fettes. Cô ấy là nữ sinh duy nhất trong trường – người đầu tiên và vì thế tôi chọn cô ấy vì cô là con gái của Chủ tịch Hội đồng trường. Họ có một gia đình tuyệt vời. Cha Amanda là thẩm phán Anh tại Tòa án châu Âu, mẹ là một nhà ngoại giao quyến rũ và vui vẻ rất tự nhiên.

Gia đình họ có bốn cô con gái, trong đó Amanda là chị cả. Tôi đã ngã gục trước tiếng sét ái tình. Họ có một ngôi nhà bằng đá xinh đẹp được xây dựng từ thế kỉ XVIII ở New Town, khu vực sảnh ngoài và mái vòm hình lưỡi liềm là những tuyệt phẩm kiến trúc. Edinburgh là một trong những thành phố xinh đẹp bậc nhất thế giới. Tôi thuộc và yêu thích từng con đường bao quanh New Town. Tôi đã đi dạo khắp nơi quanh đó và trong nhiều năm sau đó, tôi vẫn tìm thấy sự bình yên, thoải mái và thư thái trong sự thân thuộc của mảnh đất này, sự chắc chắn và nét riêng biệt trong các thiết kế của nó thấm đẫm vẻ trung lưu và thượng lưu của Edinburgh. Ở đó tôi rất thư thái và dường như tại nhà của Amanda, bất cứ nơi nào cũng phảng phất bóng hình của cô ấy và chính điều đó khiến tôi tự tin hơn về mục tiêu trong tầm tay.

Tôi đã sử dụng đến tận cùng khả năng đàm phán và gây ảnh hưởng của tôi, khi thì gây sức ép, lúc thì sử dụng tình cảm để tác động tới Gordon. Trong hơn 10 năm qua, Gordon và tôi đã từng kẻ tám lạng người nửa cân. Chúng tôi là hai cộng sự thân thiết nhất trên chính trường. Đó không đơn giản là mối quan hệ nghề nghiệp, mà còn là một tình bạn. Về sau, khi mọi việc trở nên khó khăn và nguy hiểm hơn, nỗi đau đớn trong tình cảm của tôi lại càng trở nên sâu đậm hơn bởi sự thân thuộc trước đó giữa hai người. Đó là một tình bạn chính trị, nhưng nó đã được củng cố, thậm chí là được đặt nền tảng, từ cảm giác yêu quý chân thành dành cho nhau. Không ai trong chúng tôi từng gặp người nào như thế trước đó. Đôi khi tôi thấy ông ấy thật kỳ quặc: Tính tự vấn, sự căng thẳng, có lúc tôi thấy ông ấy trong căn hộ của mình ở Edinburgh vào một sáng thứ Bảy trong chiếc quần âu áo trắng, bị bủa vây bởi một núi giấy tờ, mang một vẻ lập dị, điều đã khiến tôi vô cùng ngạc nhiên. Ông ấy có thể tử tế, hào phóng, quan tâm tới bạn và không chỉ hài hước mà còn thông minh sắc sảo. Cuộc thảo luận không chỉ xoay quanh vấn đề chính trị – mà chúng tôi còn trao đổi về những điều riêng tư sâu sắc, có những tràng cười, tranh luận về triết học, tôn giáo, nghệ thuật và những chuyện vặt vãnh hàng ngày vốn hấp dẫn, làm chúng tôi phấn khích như những con người bình dị.

Trong khi đó, với ông ấy, tôi là một người có tính cách mới mẻ. Tôi rất phi chính trị trong quan điểm của mình về chính trị. Tôi tin vào bản năng hơn là tin vào các phân tích; hay tôi vẫn phân tích và tái phân tích các vấn đề chính trị với điểm khởi đầu là bản năng. Đầu tiên, ông ấy hướng dẫn tôi rất nhiều điều: Làm sao để đọc vị được những trò chơi trong nội bộ Công Đảng, những ranh giới không được phép vượt qua đối với các công đoàn; làm sao để trình bày một bài diễn thuyết; khi nào cần phải im lặng cũng như khi nào phải lên tiếng trong một cuộc họp nội bộ đảng. Chỉ với một câu, ông ấy đã dạy tôi những những kỹ năng chính trị gần như theo cùng một cách mà Derry đã dạy tôi về nghề luật sư.

Qua thời gian, ông ấy nhận ra rằng tôi có góc nhìn về chính trị giống như của một người dân thường, đó là một cách tư duy chính trị khác với ông ấy. Khó khăn lớn nhất mà một chính trị gia tập sự phải hiểu là hầu hết mọi người không phải lúc nào cũng nghĩ đến chính trị cả ngày. Hoặc nếu có, cũng chỉ là với một tiếng thở dài, đằng hắng thể hiện sự bất đồng hay một cái nhướng mày, trước khi quay lại lo lắng về lũ trẻ, về cha mẹ, về tiền thuê nhà, về ông chủ, về bạn bè, về cân nặng và sức khỏe của mình, đời sống tình dục và nhạc Rock n’ Roll.

David Blunkett, một ví dụ điển hình về người đã cống hiến cả đời cho chính trị nhưng vẫn có thể tư duy như một người dân thường, một lần đã bảo tôi rằng thậm chí khi tên tuổi ông ấy đang ở đỉnh cao trong vai trò Bộ trưởng Nội vụ, người ta vẫn tiếp cận ông ấy và hỏi, “Tôi thấy ngài trên ti vi, ngài làm gì vậy?”, hay quái đản hơn là khi gặp ông ấy dắt chó đi dạo và mọi người có thể biết ông là ai, nhưng có người vẫn nói, “Tôi không biết rằng ngài lại bị mù đấy.”

Đôi khi người ta cũng tỉnh táo. Khi đó họ – hay ít nhất là phần lớn trong số họ – thường tập trung và lắng nghe. Đây là những giờ phút quyết định. Mẹo ở đây là phải phát hiện ra họ. Đối với một chính trị gia chuyên nghiệp, từng phút tỉnh táo cũng có tính quyết định. Với họ, cảnh quan chính trị thường xuyên được chiếu rọi và chùm ánh sáng đó quét qua bề mặt lởm chởm những thăng trầm của tham vọng, nguy cơ và mục tiêu cần đạt được. Họ thường xuyên mang trong mình nỗi sợ thường trực rằng mình không nắm được nguyên nhân thất bại trong cuộc hành trình của mình. Với những người bình thường, chính trị là một màn sương mù xa xôi mờ ảo. Thất bại trong việc hiểu ra điều này là một sai lầm chết người đối với hầu hết các chính trị gia. Nó khiến họ quá tập trung vào tiểu tiết thay vì nhìn thấy cả bức tranh toàn cảnh. Nó đồng nghĩa với việc họ tách mọi thứ ra khỏi tỷ lệ thực và điều này gây hoang tưởng và ngăn họ nhìn thấy điều đang thực sự vận động hay có vai trò tối quan trọng.

Tình bạn của chúng tôi là thực và được bổ sung bởi một lợi ích chính trị tổng thể có giá trị lớn hơn hẳn từng phần riêng biệt của lợi ích đó, nhưng nó cũng có nghĩa là khi thời cơ đến và chỉ một người trong chúng tôi được đi tiếp thì mọi chuyện sẽ trở nên rắc rối hơn rất nhiều.

Về cơ bản, tôi cho rằng mình là người có thể thành công trong cuộc bầu cử nội bộ đảng trên cả nước (các cuộc bỏ phiếu thăm dò ban đầu vào cuối tuần sau khi John qua đời đã cho thấy tôi đang cách khá xa những ứng viên còn lại và trong thực tế John Prescott đang dẫn trước Gordon), nhưng chúng tôi có chung một chương trình nghị sự, chúng tôi làm việc cùng nhau và đúng lúc này Gordon phải là người nổi bật, nếu không nổi bật, thì mọi việc kết thúc. Tuy nhiên, cũng có một điều kiện, về sau trở thành đề tài của hầu hết các cuộc tranh luận và chỉ trích gay gắt: Tôi giúp ông ta thành công, vì thế ông ta sẽ cộng tác với tôi, trong khi chấp nhận rằng nếu trở thành lãnh đạo, thì tôi phải được quyền chỉ đạo. Ở thời điểm đó, dường như không quá khó để yêu cầu hay từ bỏ. Dù không bao giờ có một thỏa thuận rằng việc ông ấy ngừng tranh cử đồng nghĩa với việc tôi đồng ý giúp ông ấy trở thành trợ lý của mình, nhưng chúng tôi đều ngầm hiểu về một lợi ích cho cả đôi bên. Nếu bạn hỏi tôi sẽ làm gì và điều gì sẽ xảy ra, tôi nói sẽ làm hai nhiệm kỳ rồi sau đó trao lại quyền cho ông ấy. Việc đó có vẻ đúng đắn và công bằng đối với đảng và đất nước, chứ không chỉ cho hai chúng tôi. Lúc đó, ông ấy đứng đầu trên mọi phương diện so với những người khác về năng lực, tầm ảnh hưởng và kỹ năng.

Không ai trong hai chúng tôi cố gắng dự đoán tương lai. Tôi lo âu khi nghĩ đến việc loại ông ấy khỏi cuộc chơi và tiếp tục hành trình của mình; còn ông ấy thì lo lắng tìm cách cố gắng hết sức. Thực tế là tôi đã giành được quyền lãnh đạo còn ông ấy thì muốn nó. Trước đây đã như vậy và bây giờ vẫn thế. Có thể điều đó đã được số phận định đoạt, trừ phi ai đó trong chúng tôi ấn nút quả bom hẹn giờ và quyết định khai màn cuộc chiến để triệt hạ người còn lại. Đó luôn là một sự chọn cho cả hai chúng tôi – tôi loại bỏ ông ấy, ông ấy từ chức và chống lại tôi – nhưng sức công phá và độ tàn ác của một hành động như vậy thường xuyên đưa chúng tôi đến sát miệng vực.

Lần đầu tiên ông ấy thực sự đề cập đến việc sẽ đứng sang một bên và ủng hộ tôi là ở nhà Amanda. Tới lúc đó, ông ấy vẫn duy trì tư tưởng chiến đấu với tôi. Tôi biết ông ấy sẽ không làm, nhưng tôi cũng biết rằng việc thảo luận kéo dài là tiền đề để lôi kéo ông ấy về phía tôi. Tôi không lo về lập luận, mà lo về lòng kiêu hãnh của ông ấy.

Cũng có một tiết lộ thú vị về cuộc thảo luận mà về sau đã gây ra rất nhiều phỏng đoán. Ông ấy muốn được tự do kiểm soát chính sách kinh tế. Có lúc, Peter – người lúc đó đang cố gắng xoay sở mọi việc trong thiện chí của tôi – thậm chí đã đệ trình tôi một văn bản trong đó đề nghị tôi thực sự từ bỏ quyền kiểm soát chính sách kinh tế. Đề nghị này, thật không may, vẫn cứ tồn tại. Tôi đã trả lời rằng đó là điều tôi không thể chấp nhận. Chấm dứt sự tương tác. Chấp nhận! Cộng tác. Chấp nhận! Cùng lãnh đạo. Tuyệt đối không. Sự việc này làm tăng giả thuyết cho rằng tôi không quan tâm đến chính sách kinh tế. Ngược lại, tôi hết sức quan tâm đến lĩnh vực này và dù cho đây là một cuộc chiến giằng co và làm người ta kiệt sức, tôi vẫn sẽ luôn kiểm soát chặt chẽ nó, ít nhất là tới nhiệm kỳ thứ ba.

Chúng tôi gặp khó khăn khi nói chuyện với nhau nhưng các cuộc nói tranh luận không hề thù địch, cay đắng hay thiếu thân thiện. Chúng tôi giống như một cặp tình nhân, đang tranh luận xem nghề nghiệp của ai cần được coi trọng trước. Trong khi có rất nhiều thứ đứng trước nguy cơ, nhưng cũng có những thứ củng cố thêm cho tình bạn của chúng tôi. Dù sao, không nghi ngờ gì nữa, ông ấy cảm thấy một chút bàng hoàng và bị phản bội. Ông ấy không bao giờ nghĩ rằng tôi sẽ đặt mình lên trước. Ông ấy nghĩ mình là một chính trị gia tiền bối, chứ không phải ông ấy tự ý thức về sự ưu việt trí tuệ của mình. Vui làm sao, trong nhiều năm tranh luận triền miên vốn đặc trưng cho tình bạn của chúng tôi tới thời điểm đó, tôi giống như một luật sư biện giải hay một giáo sư cố gắng sắp xếp trình tự logic và nguyên nhân của quan điểm của chúng tôi về chính sách. Ông cũng là một chính trị gia bậc thầy. Ông ấy thực sự rất thông minh nhưng trong việc tạo lập kịch bản cho những gì chúng tôi đang làm, tôi có xu hướng nghĩ ra ý tưởng và ông ấy lại dịch nó ra thành chính trị thực tiễn. Ông ấy cũng có khả năng cảm nhận tín hiệu xuất sắc. Ông ấy có thể ngay lập tức nhận ra tín hiệu tập trung tại một điểm, cho bạn tới sáu góc nhìn khác về nó và thường xuyên làm bạn nhận ra một điều gì đó dưới một góc độ hoàn toàn khác. Tôi thường so sánh ông ấy với Derry theo cách đó. Tôi thường xuyên học hỏi được từ những cuộc thảo luận với ông ấy. Các cuộc thảo luận rất dài, nhưng hiếm có phút nào bị lãng phí. Tâm trí của chúng tôi chuyển động rất nhanh và hòa nhập vào nhau. Khi có mặt những người khác, chúng tôi cảm thấy nhịp độ và sức mạnh bị phân tán, cho đến khi, khá giống những đôi tình nhân đang khao khát yêu đương trong tuyệt vọng nhưng bị quấy rầy bởi mấy người bạn cũ đi ngang qua, chúng tôi sẽ cố gắng đuổi khéo họ đi, đẩy họ ra cửa với một cái vỗ hào hứng vào lưng. Tình bạn của chúng tôi không hẳn là một cái gì đó bị cô lập, đóng kín, nhưng cảm giác được một mình khi thảo luận cùng nhau rất mạnh, đôi khi quá mãnh liệt. Dưới áp lực của cuộc tranh cử giành quyền lãnh đạo, không dễ để mở những cảm xúc đó ra trước các ảnh hưởng khác − xấu, tốt hay thờ ơ − của thế giới bên ngoài. Nhưng tất nhiên đây đúng là điều đang xảy ra.

Với ông ấy việc này còn khó gấp đôi. Ông ấy có một hy vọng mà giờ đây đã bị tiêu tan, đó là lại được tỏa sáng đúng lúc, nhưng vào lúc nào, làm cách nào hay trong hoàn cảnh nào, thì ông không thể biết hay quyết định. Về phần tôi – và bạn có thể tin vào điều đó hoặc không, tôi không thật sự suy nghĩ gì cả – tôi đã thực hiện một sự biến đổi miễn cưỡng để ứng cử giành quyền lãnh đạo. Tôi vẫn nhớ cuối tuần sau khi John qua đời và tôi được báo rằng tờ Sunday Times sắp công bố kết quả về cuộc bỏ phiếu thăm dò, tôi đợi kết quả với ý nghĩ rằng mọi thứ có thể sẽ đơn giản hơn bao giờ hết nếu kết quả cho thấy Gordon đang dẫn đầu và tôi sẽ có cớ để nói với bạn bè và người ủng hộ, “Chà, rốt cuộc có phải là tôi đâu.” Nhưng điều đó không xảy ra và có thể nếu nó xảy ra thật, thì lúc đó tôi cũng đã đi quá xa rồi. Vấn đề ở chỗ khi đã đi xa như vậy, thì cách tốt nhất để thoát khỏi tình trạng hiện nay và tôi đã thành thực tin như thế, là tôi nên giành quyền lãnh đạo. Vào lúc đó, chúng tôi đã là phe Đối lập 15 năm và gắn kết rất chặt chẽ với các khu vực ủng hộ mình − miền Bắc, Scotland, xứ Wales, vùng nội thị. Dù thất vọng với Đảng Bảo thủ, miền Trung nước Anh vẫn lo lắng và không tin tưởng chúng tôi. Tình thế đang rất cần đảng của chúng tôi thực hiện một bước ngoặt cách mạng mang tên “hiện đại hóa” để giành được sử ủng hộ của những khu vực mới, để lần đầu tiên cho thấy đảng có thể giành được sự ủng hộ ở bất cứ đâu, rằng đảng có thể vượt qua những phân chia tầng lớp xã hội và công ăn việc làm, rằng đảng có thể khiến đất nước thống nhất. Tôi là một nhà chính trị với sứ mệnh hiện đại hóa, điều đó thể hiện trong cá tính, trong ngôn ngữ và ngay lúc này – trong cảm giác và khí chất của tôi.

Sau cuộc nói chuyện ở nhà cha mẹ Amanda, nơi gia đình cô ấy đã chuyển đi khi có thêm nhiều thành viên mới, chúng tôi ngồi trong bếp nhìn ra ngoài những khu vườn và khoảng đất phủ đầy cỏ dại dọc hai bên chân cầu Dean, gần nơi mà cách đây nhiều năm tôi đã xuất sắc hoàn thành một dự án tình nguyện cho những người lang thang không nơi nương tựa thay cho các tổ chức thiện nguyện. Lúc đó, chúng tôi đơn giản là tìm cách xoay sở với những gì mình có.

Sau đó, khi ở nhà Nick Ryden, chúng tôi đã làm rõ được phương hướng chung của sự việc. Nick đã chuyển tới một ngôi nhà cổ rất rộng và đang tu sửa lại nơi này. Anh ấy lánh mặt để chúng tôi nói chuyện riêng với nhau. Sau khoảng một giờ Gordon đứng dậy vào nhà vệ sinh. Tôi đợi bên ở dưới tầng trệt. 5 phút trôi qua. Rồi 10. Rồi 15. Tôi bắt đầu thấy lo. Đột nhiên chuông điện thoại reo. Vì đây không phải nhà tôi, nên tôi để mặc nó. Chế độ trả lời tự động vang lên và giọng Nick yêu cầu người gọi để lại tin nhắn. Đột nhiên, một giọng nói khác dội lên từ máy: “Tony, tôi Gordon đây.” Chà, tôi đã sợ hú hồn. Chuyện quái quỷ gì đã xảy ra thế? “Tôi đang ở trên gác trong toilet,” ông ấy tiếp, “và không thể ra được.”

Trong lúc sang sửa lại nhà, cửa nhà vệ sinh đã được thay thế nhưng chưa có tay cầm bên trong. Gordon đã mất 15 phút ngồi tìm số của Nick trong điện thoại di động. Hệ thống cách âm trong nhà khiến tôi không thể nghe thấy tiếng ông ấy gọi. Tôi đến gần nhà vệ sinh và nói vọng vào: “Hãy rút khỏi cuộc đua đi nếu không tôi sẽ để mặc ông trong đấy,” tôi nói.

Cuối cùng, với sự hướng dẫn của Peter, chúng tôi đã đưa ra một thông báo rằng Gordon sẽ ủng hộ tôi và chúng tôi đã tuyên bố điều đó trong lúc đi bộ thư giãn quanh Vườn Cung Điện bên dưới tháp Big Ben. Bản thông báo có tác dụng tốt về mặt truyền thông nhưng không được suôn sẻ lắm cho một mối quan hệ.

Cái gốc của vấn đề ở chỗ, ông ấy nghĩ rằng tôi có thể là một cái thùng rỗng được ông ấy rót thứ nước do chính tay ông ấy tinh lọc vào. Tôi không chắc liệu ông ấy có thực sự nghĩ rằng tôi chỉ là một con rối, được Peter và về sau là Alastair, dạy dỗ cẩn thận, nhưng hoàn toàn vô dụng khi đứng một mình hay không. Tất nhiên điều này là nhảm nhí, không phải vì tôi quá giỏi giang, mà vì một người đứng ở vị trí đó lại là sản phẩm của một người khác là điều hoàn toàn không tưởng. Có hàng nghìn quyết định, lớn nhỏ, mà một nhà lãnh đạo cần phải đưa ra. Bạn không thể giả mạo ngôn ngữ cử chỉ hay bịa ra nó. Dù có là một diễn viên giỏi đến đâu, thì rốt cuộc chính trường cũng không phải một vở kịch.

Việc này giống như khi người ta nói với tôi rằng: “À, ra là thế, họ chả tin vào cái gì cả, họ chỉ là những kẻ mồm mép ba hoa mà thôi.” Đưa ra một phát ngôn chính trị, nhiều khi giống như ném ra một cái bu-mê-răng, mà đích quay về của nó lại chính là người đứng đầu. Ở vị trí đứng đầu, người ta phải săm soi các thông điệp chính trị một cách tinh tế. Đôi khi nó gây ra sự nhức nhối đến tận tâm can con người. Nhân dân nhìn bạn như cách người ta nhìn một đồng nghiệp vẫn gặp hàng ngày ở cơ quan. Họ có thể sẽ bị lừa hoặc bị làm cho mờ mắt trong một khoảng thời gian, nhưng sớm, rất sớm thôi, họ sẽ đưa ra được phán đoán thực. Bất kể dù họ đồng ý hay bất đồng với việc bạn đang làm, họ cũng có thể hỏi liệu bạn có tin điều mình đang làm không. Nếu bạn không có niềm tin sắt đá của một chính trị gia, thì bản năng bào chữa sẽ trỗi dậy và làm hỏng sự thuyết phục của bạn, bạn sẽ không bao giờ là một người giỏi giao tiếp vì – và điều này nghe có vẻ sách vở, nhưng thật sự thì – sự giao tiếp tốt nhất phải bắt nguồn từ con tim. Với tôi, Bill Clinton là một ví dụ điển hình cho điều này. Người ta thường xuyên viết về ông là một nhân vật giao tiếp kỳ tài, nhưng lại không có nhiều niềm tin. Điều đó hoàn toàn nhảm nhí. Đúng là ông không hề tin vào việc mình là một thành viên của Đảng Dân chủ truyền thống, mà ông cũng không phát biểu về chính sách của Đảng Dân chủ truyền thống. Ông là một người theo Đảng Dân chủ mới và đó chính là cách ông ấy nói chuyện, bởi đó là điều ông ấy tin. Điều đó lý giải tại sao ông lại thành công trong việc truyền đạt nó đến thế.

Có thể Gordon nghĩ là tấm gương có thể được lau chùi theo cách ông ấy muốn, nhưng mọi chuyện không bao giờ diễn ra theo cách đó cả và hiềm khích bắt đầu xuất hiện như một điều không tránh khỏi. Chúng tôi bất đồng về việc liệu có đề cử John Prescott giữ vị trí phó hay không. Tôi có thể chấp nhận Margaret Beckett ở vị trí đó, nhưng mặt khác, tôi nghĩ rằng John có những tố chất mà Beckett không có. Chúng tôi bất đồng về việc ai nên điều khiển chiến dịch tranh cử của tôi. Tôi và người của mình nghĩ rằng người đó không thể là Gordon, như vậy thì quả là rối ren. Lúc này, tôi phải chuẩn bị cho thời điểm trở thành lãnh đạo đảng, đến lúc ấy tôi sẽ không thể sống trong một căn hộ khép kín như hiện nay được. Gordon có thể là người được ưa chuộng, nhưng không phải người duy nhất. Trong nhóm giúp việc của tôi, chúng tôi nghĩ Jack Straw sẽ phù hợp hơn vì anh ta là người trung lập và có thể mở rộng tầm ảnh hưởng của tôi ở Công Đảng Nghị viện và tôi đã giải thích điều này cho Gordon. Gordon cực lực phản đối.

Chiến dịch tranh cử quyền lãnh đạo Đảng đã diễn ra suôn sẻ. Rất ít lãnh đạo công đoàn ủng hộ tôi, nhưng các thành viên công đoàn lại ủng hộ và chúng tôi đã giành được đa số phiếu của các đảng viên và nghị sĩ. Một mối lo suốt thời gian đó là làm sao giảm được những nhận xét sai lệch, sự thay đổi ý kiến của những người ủng hộ hay nhượng bộ phe cánh tả. Dần dần, tôi làm quen với cảm giác mình đang trở thành lãnh đạo Đảng.

Trời nắng trong suốt khoảng thời gian này. Tôi nhớ mình đã vận động bầu cử khắp cả nước trong thời tiết nóng nực, bức bối, khó chịu. Nhưng tâm trạng tôi lại khá vui vẻ. Không có đột phá nào tính đến lúc đó và cũng không có rủi ro nào đáng kể, nhưng rõ ràng là tôi đã thổi một luồng gió mới vào Công Đảng, khiến nó mang màu sắc khác lạ. Chính điều này đã thu hút thêm sự quan tâm, hứng khởi và động viên từ công chúng. Đảng Bảo thủ luôn cố gắng vờ coi tất cả những điều đó là hão huyền, nhưng đằng sau vẻ hiên ngang đó, họ đang lo lắng thực sự. Họ biết nếu tôi sở hữu một điều gì đó phù hợp với tình hình thực tế, họ sẽ cầm chắc phần thua.

Sau cuộc bầu cử và trở thành lãnh đạo đảng, với John giữ vị trí phó, tôi bắt đầu ổn định đội hình. Peter lúc này đã hoàn toàn nhập cuộc, nhưng việc đó khiến ông ấy trở nên xa lánh Gordon, người đã dần tin rằng Peter đã lập kịch bản cho quá trình lên cầm quyền của tôi ngay từ đầu. Suy nghĩ đó thật sai lầm, ít nhất theo tôi được biết – dù Peter có như vậy đi chăng nữa, thì hẳn là ông ta đã rất giỏi che giấu. Về phần tôi, tôi chắc chắn rằng không phải vậy. Peter luôn thích đóng vai Machiavelli, nhưng theo kinh nghiệm của tôi, ông ấy là một trong những người minh bạch và cởi mở nhất.

Vào tháng Chín năm 1994 chúng tôi có một ngày nghỉ xa tại khách sạn Chewton Glen ở New Forest, sau đó vào năm 1995 chúng tôi tổ chức cuộc gặp thứ hai − gồm những người thân cận với nhau trong đó có tôi, Peter, Gordon, Alastair, Phillip, Anji, Jonathan, Sue − tại Fritham Lodge, cũng ở New Forest và tại nhà của anh trai Jonathan. Tin tức về cuộc gặp thứ hai đã khiến cho không thể chấm dứt các vấn đề với John Prescott, người không có mặt lúc đó. Cả ngày hôm đó, Gordon kín đáo kéo Peter sang một bên và đề nghị ông ấy làm việc dưới sự thiết kế và chỉ đạo của mình. Peter thẳng thắn nói rằng ông ấy làm việc cho lãnh đạo đảng. Từ đó trở đi giữa họ hình thành một mối hiềm khích và không ai trong cả hai người là kẻ thù dễ chịu cả.

Tôi vô cùng kỹ tính trong việc chọn lựa người phù hợp để làm việc với giới truyền thông. Peter và tôi cân nhắc các ứng viên – Andy Grice của tờ Independent, Peter McMathon của Scotsman, Patrick Wintour của Guardian – dù tất cả bọn họ đều rất tốt, nhưng tôi muốn có một người chuyên về báo khổ nhỏ và đưa tin vắn tắt, tôi nghĩ Alastair Campbell là phù hợp nhất. Tôi không biết khi nghe được tin này anh ta có coi đây là cơ hội tốt không, nhưng chắc chắn anh ta rất phù hợp cho công việc của tôi. Tôi muốn một người cứng rắn và anh ta là lựa chọn số 1, tôi đang sở hữu một thiên tài.

Khi quyết định chọn Alastair, tôi quyết định sẽ thuyết phục anh ta ngay lập tức. Tôi luôn như vậy khi lựa chọn được mục tiêu. Tôi quyết không chấp nhận câu trả lời “Không”. Thoạt đầu việc này khá phức tạp. Anh ta đã sớm định hướng cho mình từ lần suy sụp tinh thần trước đây và đã từ bỏ chuyện chính trường. Cộng sự của anh ta, Fiona Millar, rất hồ nghi về triển vọng anh ta chấp nhận công việc và phán đoán rất đúng đắn rằng điều này sẽ thay đổi cuộc đời của họ. Định mệnh của anh ta là tiến xa hơn trong giới truyền thông – ngay từ lúc đó anh ta đã có tố chất của một ngôi sao – vì thế có thể Alastair sẽ phải từ bỏ rất nhiều thứ. Anh ta ngưỡng mộ và yêu quý Peter, nhưng cũng sợ phải cạnh tranh với ông ta vào phút cuối. Vì tất cả những lý do này, nên chúng tôi gặp khó khăn trong việc thuyết phục anh ta.

Cuối cùng vào giữa tháng Tám năm 1994, tôi lựa chọn địa điểm du lịch gần căn nhà nghỉ dưỡng của anh ta ở Pháp, nơi mà hè nào anh ta cũng đến. Vì những lý do mà tôi không thể biết được, anh ta muốn ở gần nơi mà Neil, Glenys Kinnock, Philip Gould và vợ anh ta, Gail đang nghỉ. Đối với tôi, việc đi nghỉ với những người nổi tiếng trên chính trường thường gây cảm giác ái ngại. Việc đó là điều không tránh khỏi. Nhưng anh ta thích điều này và họ tán gẫu và chuyện trò rất vui vẻ.

Căn nhà ở Flassan, tỉnh Provence, nằm yên bình giữa những ngôi làng kiểu Pháp xinh xắn đến mê hồn. Nỗ lực tái chiếm Pháp trong hòa bình của người Anh hẳn không phải là điều phi lý.

Tôi đến, ở lại ăn tối cùng với Neil, nói chuyện riêng với Alastair đến tận nửa đêm và đạt được mong muốn. Tôi đã nói với Peter những cam kết mà tôi có thể. Peter vốn đã rất lo lắng về người của Gordon, nhưng trên hết, ông muốn biết rằng tôi sẽ ủng hộ ông làm những việc cần thiết.

Trong lúc ở đó, tôi đã đề cập đến chủ đề của Điều IV mô tả nội dung chính trong cương lĩnh của Công Đảng đối với Hiến pháp của đất nước mà Đảng đã dự thảo. Sau thất bại năm 1992 và không thảo luận nó với bất cứ ai, ngay cả Gordon, tôi đã hình thành quan điểm rõ ràng rằng nếu có lúc nào đó tôi trở thành lãnh đạo Đảng, Hiến pháp cần phải được viết lại và những cam kết cũ về quá trình quốc hữu hóa và quyền kiểm soát của Nhà nước sẽ bị bãi bỏ.

Điều IV trở thành một văn bản được thần thánh hóa và được những người phe cánh tả nhắc đi nhắc lại mỗi khi gặp mặt, những người không muốn dính dáng gì đến một sự thỏa hiệp nào hoặc không muốn thừa nhận sự thật rằng lối tư duy hiện đại đã khiến ngôn từ trở nên thừa thãi về mặt tri thức và gây thiệt hại về mặt chính trị. Bên cạnh những nội dung khác, Điều IV kêu gọi “sự sở hữu chung về tư liệu sản xuất, phân phối và trao đổi”. Khi được Sidney Webb, một người Fabian lỗi lạc của giới trí thức trong Đảng phác thảo vào năm 1917, các từ ngữ này thực ra là một nỗ lực lảng tránh ngôn ngữ Bolshevik của những người cực tả. Tất nhiên, phần lớn trong đó thể hiện tư tưởng quốc tế cấp tiến đang thịnh hành, tư tưởng coi việc xóa bỏ sở hữu tư nhân là một ý tưởng tâm huyết đáng theo đuổi.

Xu thế tư duy chủ đạo của cánh tả vào những năm đầu thế kỷ XX đã trở nên hão huyền một cách vô vọng, thậm chí là phi thực tế, trong thế giới của những năm cuối thế kỷ XX, từ năm 1989, ngay cả Nga cũng đã thừa nhận cơ chế thị trường. Nhưng liệu có thay đổi được không? Hoàn toàn ngẫu nhiên, tôi chưa bao giờ bị gây áp lực về điều này trong cuộc tranh cử quyền lãnh đạo Đảng. Vấn đề đã được nêu ra, nhưng chưa bao giờ được đẩy tới ngưỡng dồn tôi vào chân tường. Tôi đã tạm chưa bàn đến nó chứ không có ý định khép nó lại.

Tất nhiên, những người không ủng hộ cải cách đã ngay lập tức hướng về Điều IV khi cải cách vừa được tuyên bố, điều khoản này có tính tượng trưng rất lớn. Không ai trừ những người cực tả từng thực sự tin vào Điều IV khi nó được viết ra. Đây chính là nhận định của tôi: không ai tin vào nó, nhưng cũng không ai dám dỡ bỏ nó. Vì vậy, nó không chỉ là biểu tượng cho một thứ thừa thãi trong Hiến pháp của chúng tôi, mà còn là sự từ chối đối diện với thực tại, từ chối thay đổi một cách sâu sắc, từ chối hòa nhập trọn vẹn vào thế giới hiện đại. Nói cách khác, biểu tượng này chính là cái “chốt” mang tính tâm lý. Đó là một hình ảnh được tạc khắc, một idol (thần tượng). Phá hủy nó có thể thay đổi tâm lý toàn đảng, nó chính là kẻ đang hủy hoại và kìm giữ chúng tôi trong vai trò phe Đối lập một thời kỳ quá dài. Nếu không phá hủy điều khoản này thì mặc dù, về mặt chiến thuật, chúng tôi có thể chống lại Đảng Bảo thủ một cách thành công, nhưng chúng tôi vẫn không thể lãnh đạo một cách lâu dài dựa vào giá trị của chính mình. Vì thế, với tôi, loại bỏ Điều IV không phải là một mánh lới quảng cáo, một chiêu PR hay một câu hỏi chỉ nằm trên văn bản, công việc này có vai trò thiết yếu nếu Công Đảng muốn hồi sinh chính mình.

Những đảng cấp tiến luôn yêu thích những động lực mang tính cảm xúc của mình. Tuy nhiên, nếu họ có cảm giác rằng các khu vực cử tri có lẽ không cùng chung cảm xúc, thì họ sẵn sàng nới lỏng chúng. Từ thẳm sâu, họ ước rằng thực tế không phải như thế và triền miên hy vọng rằng một ngày nào đó, trong một hoàn cảnh có thể là vô cùng độc đáo, toàn bộ công chúng sẽ chia sẻ nó. Đó chỉ là một ảo vọng. Họ sẽ không làm thế. Nhưng, dù những người cấp tiến biết điều đó, sự mong đợi vẫn rất sâu sắc và sự cám dỗ được ràng buộc mình với những động lực đó vẫn còn rất mãnh liệt. Động lực đơn giản nhất của họ là niềm tin cho rằng nếu sức mạnh được chuyển vào tay họ, họ sẽ dùng nó vì lợi ích của nhân dân; và càng có nhiều quyền lực, thì họ càng mang lại nhiều lợi ích cho nhân dân, từ đó mới dẫn đến quan điểm về sự tương đồng giữa Nhà nước và thành phần kinh tế Nhà nước.

Nhưng đó hoàn toàn không phải là một động lực bắt nguồn từ những toan tính nham hiểm – trái lại, động lực này có nền tảng từ những cảm xúc có thực và chân thành về sự đoàn kết – nhưng lịch sử lẽ ra nên dạy chúng ta cách giảm bớt nó vì hai thực tế sau đây. Thứ nhất, Nhà nước và thành phần kinh tế Nhà nước có thể trở thành những mối lợi khổng lồ được ban phát mâu thuẫn hoặc thậm chí trái ngược với lợi ích cộng đồng. Thứ hai, khi người ta được giáo dục đầy đủ hơn và có điều kiện sống sung túc hơn, họ không hẳn sẽ muốn một ai khác, bất kỳ ai, thay mình đưa ra các lựa chọn. Nếu động lực này được giữ trong tầm kiểm soát − tức là vẫn hoạt động nhưng bị ràng buộc − thì Chính phủ cấp tiến có thể là một lựa chọn tốt và mang tính giải phóng khỏi Chính phủ bảo thủ; nhưng nếu không, thì ngược lại, Chính phủ cấp tiến cũng thế mà thôi.

Bằng cách cổ vũ quyền sở hữu công đối với toàn bộ tư liệu sản xuất, phân phối và trao đổi, Điều IV không đại diện cho một sự ràng buộc mà là một lời mời đối với sự buông thả không giới hạn tài nguyên quốc gia. Điều đó thật không lành mạnh, không sáng suốt và thật không may, nó hoàn toàn vô nghĩa. Thật ra thì ở một mức độ nhất định, nó có rất nhiều ý nghĩa nhưng ý nghĩa đó thật tệ. Thay đổi nó không phải là một việc làm nông cạn, nó ẩn giấu trong đó một quá trình cải cách trọng đại, sâu sắc và mang tính trường tồn trong cách đảng tư duy, làm việc và lãnh đạo đất nước.

Một phần nguyên nhân khiến tôi coi nhẹ − nhiều người cho rằng coi nhẹ quá mức – khi lý giải một số điều thiêng liêng về thế giới quan của Công Đảng, là do cách thức tôi đến với chính trị. Khi còn là sinh viên, tôi không tham gia Hội sinh viên Oxford, không phải thành viên của câu lạc bộ Công Đảng và gần như không có vai trò gì – hay chắc chắn là không có vai trò gì cụ thể − trong thế giới chính trị dành cho sinh viên. Những ảnh hưởng chính trị chủ yếu của tôi ở trường học là từ hai người Úc, một người Ấn Độ và một người Uganda. Mỗi người đã cho tôi một cái nhìn sâu sắc khó phai và hình thành cách thức tôi tiếp cận chính trường. Họ đều thuộc phe cánh tả, nhưng là những người rất khác biệt và những trải nghiệm của họ cũng khác biệt.

Bạn đồng môn của tôi Geoff Gallop là người năng động nhất về chính trị và đúng thực, về sau đã trở thành Thủ hiến bang Tây Úc (Western Australia). Anh ấy có một trí tuệ xuất chúng. Anh dạy tôi tất cả những thuật ngữ và ngôn từ chuẩn xác mà giới chính trị cánh tả thời điểm đó hay dùng và là một thành viên của Nhóm những người theo Chủ nghĩa Marx quốc tế, một trong vô số trường phái – đây là trường phái Trotsky − vốn nở rộ trong những năm 1970. Khỏi cần nói, bất cứ ai trong Công Đảng cũng “đắt hàng”. Họ cũng là những đối thủ khó chịu của những người theo Đảng Cộng Sản, họ có khuynh hướng trở thành những nhà tổ chức tốt hơn, với những mối liên hệ với công đoàn và đôi khi là người dân thường. Mặc dù, Geoff cổ vũ tư tưởng biện chứng của học thuyết Marx, nhưng tinh thần và sự ham hiểu biết tri thức của anh đã không cho phép anh để nó cầm tù. Anh đã tư duy liên tục lại học thuyết này và đúc rút được những tư tưởng mới từ đó. Anh dạy tôi cách hoàn cảnh xã hội tạo nên tính cách, nhưng anh cũng dạy tôi không trở thành một tín đồ thiếu tư duy của cánh tả.

Peter Thomson đã củng cố thêm cho tôi. Anh là một mục sư Úc thuộc giáo phái Anh, có lẽ là người có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong cuộc đời tôi. Anh ấy là một sinh viên chín chắn ở độ tuổi ngoài 30 khi chúng tôi mới chân ướt chân ráo vào Oxford. Khi Peter qua đời năm 2010, tôi đã viết một bức điếu thư cho đám tang của anh ấy:

Có rất ít người mà bạn có thể nói rằng: Anh ấy đã thay đổi cuộc đời tôi. Peter đã thay đổi cuộc đời tôi. Từ giây phút đầu tiên khi gặp anh – trong lúc tôi đang tổ chức một bữa tiệc trong phòng của mình ở St John’s và bước ra dãy hàng rào quanh nhà để hít thở không khí và vặn mình, nhìn xuống thì thấy Peter đang ngước lên: “Nếu là anh thì tôi sẽ cẩn thận đấy, anh bạn” − ngay từ phút đầu tiên đó, anh ấy đã định hình cuộc đời tôi, cho nó ý nghĩa và mục đích; và mang lại đường hướng cho nó.

Anh là bạn, là thầy giáo, là sư phụ và là người dẫn đường của tôi. Anh chính là người truyền cảm hứng cho tôi trong mọi việc. Bất chấp những lỗi lầm tai hại của tôi, tôi trở thành người tốt hơn nhờ được tiếp xúc với anh: Tử tế hơn, mạnh mẽ hơn, trung thành hơn, bớt yếu đuối hơn, thêm biết ơn những gì mình có, hy vọng nhiều hơn về những cơ may trong cuộc đời, sống một cách vui vẻ hơn và dũng cảm hơn khi chấp nhận những hạn chế của cuộc đời.

Chúng ta thường nói, khi ai đó ra đi, họ sẽ để lại một khoảng trống trong cuộc đời mỗi người. Sự ra đi của Peter không để lại khoảng trống nào trong tôi cả. Anh vẫn hiện hữu. Anh ở đó khi tôi cần nhất. Anh sẽ mãi luôn ở đó vì tôi. Ánh sáng của Peter quá mãnh liệt đến mức làm lu mờ cái chết.

Đó là cách Chúa hiện hữu qua Peter. Suy cho cùng, anh ấy là mục sư ít giống với mục sư nhất. Anh và Helen đáng mến luôn mở cửa ngôi nhà chung để chào đón chúng tôi, nhưng dù chúng tôi đã uống rất nhiều trà, cùng với nhiều thứ khác, nhưng nó vẫn không phải một tiệc trà của mục sư. Chưa bao giờ lại có một vị mục sư và cung cách ăn nói lại thiếu hòa hợp với nhau một cách kỳ lạ đến như thế.

Nhưng chính điều đó cũng nói lên con người Peter: Một sự hòa trộn kỳ lạ giữa một người truyền thống và một cá nhân đả phá tín ngưỡng lâu đời. Niềm tin Cơ Đốc của anh rất mãnh liệt chứ không thiếu sinh lực. Anh là một người hành động chứ không phải một khán giả; một nhà tư tưởng chứ không chỉ là một người truyền đạo. Những tư tưởng đó rất cứng rắn, đột phá và đối với thế kỷ XXI của chúng ta, rất có tầm nhìn xa trông rộng.

Tôi đã từng gặp nhiều người, nổi tiếng và thành đạt, những người mà thế giới gọi là vĩ nhân. Nhưng tôi chưa bao giờ gặp một ai vĩ đại hơn Peter. Dường như anh đang kề bên khi tôi viết những dòng này. Tôi sẽ mãi luôn cảm thấy có anh bên cạnh. Tôi biết, dù cho tôi khóc thương vì sự ra đi của anh, nhưng tôi mong anh có thể ngậm cười và tự hào về tôi.

Suốt những năm về sau, sự ảnh hưởng của Peter vẫn thường trực như một lời nhắn nhủ, rằng cuộc đời cần có một mục đích sống. Trên phương diện chính trị, Peter là người cánh tả, nhưng tôn giáo được anh đặt lên hàng đầu. Vì thế, theo một cách nào đó, nó có tác dụng với tôi. Không phải anh ấy hay tôi, tách bạch hai điều này, mà cách bạn nhìn ra thế giới sẽ khác đi nếu tôn giáo được đặt lên hàng đầu. Tôn giáo bắt nguồn với những giá trị được sinh ra từ những niềm tin vào cái thiện của nhân loại. Chính trị bắt nguồn từ công cuộc khảo sát xã hội và những cách thức thay đổi nó. Tất nhiên chính trị cũng hướng về những giá trị chân chính và tôn giáo cũng hướng đến mong muốn thay đổi xã hội – nhưng từ một xuất phát điểm khác.

Đây là điểm sống động trong sự hiểu biết chính trị của tôi. Tôi coi việc tìm hiểu về con người là then chốt, còn chính trị chỉ đứng hàng thứ hai. Về sau, khi tôi đã chắc chắn rằng “bài toán tiến bộ” chính là sự phân tách không đủ rõ ràng giữa mục đích và phương tiện, phương pháp tiếp cận này − được Peter định hướng khá nhiều – chính là điều đã cho phép tôi tự do đi đến kết luận đó.

Geoff đã đưa cho tôi những quyển sách về chính trị. Peter đã đưa cho tôi những tác phẩm của triết gia John Macmurray, như Reason and Emotion and Conditions of Freedom (tạm dịch: Nguyên Nhân, Cảm Xúc và Điều Kiện của Tự Do). Tôi đã phát triển một lý thuyết về nền tảng của chủ nghĩa xã hội như là “cộng đồng” − tức là chúng ta bị ràng buộc với nhau bởi những trách nhiệm nào đó và chúng ta là những thực thể xã hội, không chỉ là những cá nhân tồn tại vì bản thân − điều này thúc đẩy tôi cố gắng tìm lại những chân giá trị của Công Đảng từ mớ bòng bong các ý thức hệ đã chồng chất lên chúng, làm ý nghĩa của chúng trở nên mờ nhạt. Với tôi, chân giá trị đó là chủ nghĩa xã hội (socialism), chứ không phải là một kiểu mô hình kinh tế cá biệt, được khởi nguồn từ một thời điểm cá biệt trong lịch sử.

Anh bạn người Ấn Độ của tôi là Anmol Vellani, một sinh viên cao học. Một ngày, khi đang ngồi trong phòng của mình ở tầng trệt trong khuôn viên Đại học St John’s, anh ấy đã cho tôi một cái nhìn toàn diện còn đọng lại mãi và có tầm ảnh hưởng sâu sắc tới chương trình cải cách thành phần kinh tế Nhà nước của tôi những năm sau đó. Tôi vẫn hình dung ra được giờ phút ấy.

Anmol, có lẽ nhờ những trải nghiệm về đất nước Ấn Độ, mà cũng nhờ sự chín chắn về chính trị của mình, đã tranh luận với tôi về những ý tưởng tôi mới tiếp nhận được từ Geoff. Tôi đang thử nghiệm chúng với anh ấy, đưa qua đẩy lại, hy vọng hiểu rõ hơn về thứ ngôn ngữ mới mà tôi đang học nói. Chúng tôi nói về chủ nghĩa tư bản và Nhà nước. Tôi đã nhắc lại quan điểm rằng Nhà nước phải vượt qua quyền lợi của chủ nghĩa tư bản, một chủ nghĩa vốn chỉ quan tâm đến lợi nhuận − một câu phổ biến theo học thuyết Marx!

Anmol lắc đầu. “Mọi thứ không đơn giản như thế,” anh ấy nói. “Nhà nước cũng là một lợi ích được ban phát. Nó không có gì giống với lợi ích công, anh biết mà, ít nhất là trong thực tế.”

“Nhưng lẽ ra nó phải thế,” tôi kiên quyết.

“Lẽ ra phải thế và như thế là hai điều rất khác nhau, bạn của tôi ạ,” anh ấy trả lời, cười nhạo sự ngây thơ của tôi.

Người thứ tư là Olara Otunnu, một người Uganda. Anh ấy từng là Chủ tịch của Hội sinh viên Đại học Kampala và đã phải trốn khỏi Idi Amin. St John’s nhận anh ấy vào học. Anh là một diễn giả rất có năng khiếu, thực sự thông minh, rất dễ mến và có tư tưởng mới lạ khác thường. Tôi nghĩ anh ấy nhìn những sinh viên cánh tả hào hứng nói về chủ nghĩa Marx trong các hành lang đặc trưng ở Oxford với ánh mắt hàm chứa chút gì đó thích thú và cách xa. Chính trị với anh ấy là tất cả những gì liên quan đến sự phát triển, gánh nặng tham nhũng và sự đàn áp của chính quyền, sự phá hủy triển vọng của người dân. Anh ấy đã dạy tôi nhìn xa hơn những khuôn khổ của một cuộc tranh luận dành cho sinh viên phương Tây và nghĩ về một thế giới không tranh luận về “chủ nghĩa tư bản đối lập với chủ nghĩa xã hội”, mà chính trị là cuộc sống, hy vọng và sức khỏe đối lập với cái chết do những thảm cảnh của đói nghèo, của xung đột và bệnh tật.

Đó là một nhóm bạn không bình thường − rất đa dạng, trái với thông lệ, độc lập về tư tưởng − những người đã tác động tới tôi vào chính lúc tư duy của tôi đang được khai mở, còn đang vui vẻ và háo hức được học hỏi, đã hình thành nên cấu trúc tư duy của tôi trong những năm sau đó.

Khi đang trình bày những ý nghĩ của mình về Điều IV với Alastair ở Pháp, tôi thấy anh ta yêu thích sự thô sơ của nó và khi rời khỏi đó tôi có thể nhận thấy rõ ràng rằng tâm trí anh ta đang trăn trở tìm cách phổ biến nó. Trong suốt cuộc nói chuyện, tôi cũng phát hiện ra một điều mà trước đó tôi không dám khẳng định chắc chắn đó là anh ta rất liều lĩnh. Đây là người mà bạn có thể phải hãm lại thay vì đẩy về phía trước. Trong một thế giới bị thống trị bởi những người rụt rè, cảnh giác và quá tính toán chi li, tôi thích điều đó và thích anh ta. Anh ta và Peter Mandelson có thể đánh nhau (và Chúa ơi đôi khi đúng là họ đã lao vào nhau thật), nhưng nếu nhượng bộ để cộng tác thì họ có thể trở thành một thế lực chính trị ghê gớm nhất có thể. Peter có thể trườn vào lâu đài qua một đường hầm bí mật và bằng những động tác lanh lẹ, những nhát đâm sắc lẻm của thanh trường kiếm, mở đường đến căn phòng có ngai vàng. Trong khi đó, Alastair có thể là một khúc gỗ sồi rất lớn, phá tan cổng chính của lâu đài và dù là dầu hắc ín sôi hay cửa thép cũng không thể ngăn cản anh ta được. Nếu hai người họ đồng sức với nhau, trận chiến sẽ diễn ra vô cùng quyết liệt và chắc chắn họ sẽ giành chiến thắng, hơn nữa, chiến thắng một cách vẻ vang.

Trong những ngày đó, tôi đã chia đôi kỳ nghỉ giữa Pháp và Italia. Nửa kỳ nghỉ đầu tiên ở gần Toulouse và sau đó chúng tôi bắt tàu tới Marseilles để gặp Alastair, rồi từ đó đi tới giáp phía bắc của Liguria nơi cha mẹ của Tim Allan có một ngôi nhà trên đồi gần Crespiano. Đó là một trong những kỳ nghỉ thực sự thoải mái cuối cùng mà tôi được tận hưởng. Không người nào trong làng biết tôi là ai. Hồi đó, tôi không có bảo vệ, không có nhân viên an ninh, chỉ có chúng tôi như một gia đình đi cùng nhau. Hạnh phúc. Chúng tôi có thể tới nhà hàng trong làng nơi được ngồi cùng bàn thoải mái với tất cả những người khác. Thức ăn rất đơn giản như mì ống tự làm với nước sốt tuyệt hảo, bạn có thể đến và tham gia vào các lễ hội tháng Tám, tổ chức tại những làng quê cổ kính, nơi được bao quanh bởi một vẻ đẹp mộc mạc, độc đáo và đều có một màn tiêu khiển kèm với thức ăn địa phương được chế biến tinh tế, diễn ra trên một khu đất vuông.

Có lẽ đó là lần cuối cùng tôi có thể du lịch ra nước ngoài một cách bình thường (tôi vốn đã là một nhân vật được chú ý ở Anh) mà không ai nhận ra cả. Một đêm, chúng tôi đến thăm nhà hàng La Gavarina d’Oro tại ngôi làng Podenzana để nếm thử loại pizza địa phương đặc biệt có tên là panigacci, nhưng đã phải ra về vì có một nhầm lẫn trong việc đặt chỗ (do vốn tiếng Ý nghèo nàn của tôi) và không có bàn nào cho chúng tôi cả. Chúng tôi đành xếp hàng lại và đến đó sau hai đêm. Tôi không nghĩ điều đó sẽ còn xảy ra với tôi lần nào nữa trong đời.

Trong khi ở đó, tôi nhận được tin về cuộc bỏ phiếu trưng cầu gần nhất, cho thấy chúng tôi đã đạt tỷ lệ cao nh