← Quay lại trang sách

Chương 4 Trăng Mật.

Bất lợi của một Chính phủ mới là thiếu kinh nghiệm điều hành đất nước. Nhưng đây cũng là một lợi thế. Sự non nớt, ngây thơ cộng với những tư tưởng thuần khiết, không vẩn hoài nghi, chỉ trích từ những cái đầu bị chìm đắm trong các “vũng nước ô nhiễm” của Chính phủ cũ khiến Chính phủ mới mang trong mình một khả năng đặc biệt. Từ đầu đến cuối, tôi không hề đánh mất sự lạc quan, sự tự tin hay niềm tin vào tương lai đang đón chờ phía trước, nhưng có thể không bao giờ tôi có lại được cảm giác tràn đầy năng lượng tuyệt vời và sự táo bạo khi lựa chọn một đội ngũ mới – đặc biệt là khi cảm giác này đến sau 18 năm cầm quyền trong Chính phủ của một Đảng Đối lập.

Những gì mà chúng tôi đã làm trong những ngày đầu thanh bình đó vẫn vô cùng đáng nhớ. Chúng tôi không ngủ quên trên chiến thắng, luôn giữ tinh thần vững vàng bất chấp những lời xì xào phá hoại xung quanh, đồng thời cũng luôn nhắc nhở bản thân rằng nhiệm vụ của chúng tôi là phục vụ nhân dân. Tất cả những điều này xuất phát từ mong ước chân thành là đưa đất nước đi lên. Chúng tôi đã nghĩ đến những điều không tưởng, làm những việc không thể làm; đã đến lúc phải phá bỏ nhiều quy ước, thói cũ, truyền thống.

Một quyết định ngay từ ban đầu đã khiến tôi khá bận tâm nhưng tôi nghĩ để hoàn thành tốt các công việc trong vai trò Thủ tướng thì tôi sẽ phải thực hiện nó. Vào thời điểm đó, các phiên chất vấn Thủ tướng (PMQs) được bố trí hai lần mỗi tuần vào 3 giờ 15 phút chiều thứ Ba và thứ Năm, trong vòng 15 phút. Mặc dù, trong ngày hôm đó, tôi có thể còn phải tham gia các chương trình khác, nhưng thời gian buổi sáng trôi đi một cách chậm chạp, miên man trong dòng suy nghĩ ứng phó với những câu hỏi về cơ hội, thách thức và có thể cả những cạm bẫy trong phiên chất vấn sắp tới. Sau buổi chất vấn kết thúc lúc 3 giờ 30 phút chiều, tôi nghĩ lại: Buổi chất vấn đã diễn ra như thế nào, ai đã điều khiển nó, người ta đã nói gì về tâm trạng của các thành viên Nghị viện không giữ các trọng trách trong Chính phủ. Lý trí mách bảo tôi rằng tất cả đã qua và mọi việc thường bị quên lãng trong vòng 48 tiếng; tuy nhiên toàn bộ nội dung trong phiên Chất chất vấn Thủ tướng thường thiếu hợp lý. Đó là nơi gửi gắm những tư tưởng chính trị, trí tuệ và tình cảm của tất cả những người thiếu lý trí. Thậm chí khi còn ở phe đối Đối lập – lúc tôi chỉ việc đặt ra những câu hỏi ngớ ngẩn – thì phiên chất vấn đó cũng đã chi phối tư tưởng của tôi khá nhiều. Mặc dù khi đó, tôi chỉ có thể tưởng tượng được công việc của một Thủ tướng sẽ như thế nào.

Rõ ràng, một trong những tố chất quan trọng và cần thiết của một Thủ tướng hay tổng thống là cách thức quản lý thời gian. Nếu bạn chỉ cho tôi một nhà lãnh đạo yếu kém, tôi sẽ cho bạn thấy kế hoạch quản lý thời gian tồi của họ. Chúng ta không bàn đến thời gian làm việc – tôi gặp một số vị lãnh đạo làm việc liên tục trong nhiều giờ liền trong ngày khiến tôi bật cười, họ làm việc 18 tiếng một ngày nhưng họ sắp xếp công việc thế nào mới là vấn đề.

Lịch trình làm việc phải được lập dựa trên những quyết định thuộc thẩm quyền của Chính phủ và phải được đảm bảo nghiêm ngặt thời gian thực hiện. Ở một chừng mực nào đó, lịch làm việc hàng ngày chỉ giới hạn trong những đầu việc quan trọng cần thiết. Một trong những việc đầu tiên mà Anji đã làm cho tôi khi tôi đến Ngôi nhà Số 10 là hạn chế tối đa những bữa tối theo nghi thức. Tôi nhớ mình đã tham dự không quá 30 bữa tối như thế, bao gồm cả các bữa tiệc chiêu đãi cấp Nhà nước bắt buộc trong suốt thời gian ở phố Downing. Các bữa tiệc tối theo nghi thức hầu như không cần thiết. Bởi bản thân tôi cho rằng chúng chỉ là những thủ tục rườm rà và các vị khách mời cũng cho là vậy. Nếu bạn bắt đầu bữa tối muộn (thức ăn hoặc có rất nhiều hoặc chỉ là thứ chả ngon miệng gì) và không có điều gì tồi tệ hơn việc phải phát biểu sau bữa tiệc tối. Nếu đó là công việc bắt buộc phải làm thì bạn phải dành 45 phút trước bữa tối để thảo luận hoặc thông báo về vấn đề đó và sau đó bạn có thể rời bữa tiệc về với gia đình mình, còn khách mời có thể tụ tập với bạn bè hay cộng sự của họ. Hãy để họ được nghỉ ngơi sau những giờ phút căng thẳng mệt mỏi và có thời gian vui vẻ bên nhau. Ngoại trừ những bữa tiệc chiêu đãi theo nghi thức ngoại giao tôi phải tham dự, mà theo tôi tiệc chiêu đãi ngoại giao mà rôm rả hoành tráng quá sẽ là dấu hiệu cho thấy một Chính phủ được điều hành không mấy tốt đẹp.

Sắp xếp thời gian cho một vị lãnh đạo gần như là một nhiệm vụ tối quan trọng. Người phụ trách công việc này là một trong số những người quan trọng nhất trong nhóm cộng sự và họ phải cứng rắn trong việc từ chối những công việc chen ngang. Một lãnh đạo luôn phải niềm nở và làm gương cho người khác. Khi bạn gặp ai đó, chắc chắn họ sẽ hẹn hò để gặp lại bạn, tất nhiên là bạn sẽ phải đồng ý. Bạn không thể nói rằng: “Không, anh quá tẻ nhạt, tôi không có việc gì quan trọng để phải nói chuyện với anh cả”. Việc của người sắp xếp lịch biểu là nói “không”. “Nhưng ông ấy đã đồng ý gặp tôi.” Không. “Nhưng ông ấy nói là muốn gặp tôi.” Không. “Nhưng...” “Không nhưng gì cả”.

Trước đây, ở văn phòng chúng tôi, mọi người có sử dụng cụm từ “SO” viết tắt của từ “phạm vi không cho phép” (Sackable Offence) và áp dụng nó một cách cứng nhắc. Nó được áp dụng trong việc lên lịch gặp những người mà họ cho là không quá cần thiết hoặc không mấy quan trọng. Họ yêu cầu áp dụng nguyên tắc này ngay cả khi tôi đã đồng ý cuộc gặp đó. Nó được áp dụng – vấn đề này hơi tế nhị – cho dù tôi nói với nhân viên của mình rằng tôi cảm thấy vô cùng thất vọng vì họ đã thiếu tôn trọng mong muốn cũng như lời nói của tôi như thế nào.

Có một nhân vật Công Đảng quan trọng đã luống tuổi, một người đặc biệt đã nhiều lần tìm cách gặp gỡ và nói chuyện với tôi, mong muốn sẽ đưa ra những “lời khuyên có ích”. Ông ấy là một người thú vị và đột nhiên tôi muốn gặp ông. Kate, trợ lý của tôi, là một người có khả năng từ chối cứng rắn và hiệu quả, hôm đó lại ra ngoài giải quyết việc riêng. Lúc ấy, người tạm thời thay thế Kate đã để cho ông ấy vào gặp tôi. Sau khoảng 30 phút lắng nghe những “lời khuyên hay”, mắt tôi díu lại vì cuộc nói chuyện quá tẻ nhạt, may thay lúc đó người thư ký tạm thời mở cửa bước vào và thông báo “hết giờ”.“Ồ, thế à, tiếc quá. Tôi thực sự muốn có thời gian nói chuyện với ông ấy”.

Cô ta nói: “Được ạ, nếu vậy, thì thưa ngài, ngài có thể trò chuyện thêm 30 phút nữa vì lịch làm việc của ngài có thay đổi”.

Các phiên chất vấn Thủ tướng rất có sức hút và quan trọng đối với các thành viên Nghị viện, tuy nhiên, từ việc xem lại tài liệu về các phiên chất vấn của cựu Thủ tướng, John Major, tôi thấy rằng mỗi phiên chất vấn như vậy tốn kém cả về vật chất lẫn tinh thần, thậm chí làm ảnh hưởng đến ngày làm việc hôm đó: Toàn bộ buổi sáng và đầu giờ chiều, chúng tôi đều dành cho khâu chuẩn bị và nếu có các cuộc họp diễn ra trong khoảng thời gian đó, tôi cũng không thể tập trung được. Sau đó vào cuối giờ chiều và đầu giờ tối là khoảng thời gian đầu óc tôi quay cuồng với những suy nghĩ về phản ứng của dân chúng và những gì đã diễn ra. Hai phiên chất vấn Thủ tướng chiếm hẳn hai ngày. Việc này tiêu tốn quá nhiều thời gian.

Trước khi bầu cử tôi đã có dự định, nói đúng hơn là đã lập một kịch bản – là làm sao để khéo léo trình bày trong bản đề xuất rằng “để các phiên chất vấn Thủ tướng được hiệu quả hơn – chúng ta nên gộp hai buổi chất vấn 15 phút mỗi tuần thành một buổi chất vấn 30 phút. Bạn có thể nghĩ rằng thế thì có gì khác nhau; nhưng để tôi cho bạn biết, đó là một cuộc cách mạng tiết kiệm thời gian. Rất may là Paddy Ashdown, lãnh đạo Đảng Dân chủ Tự do, cho biết rằng ông ta ủng hộ cải cách đó. Vì thế, tôi hít thở sâu và trịnh trọng tuyên bố ý định cải cách đó và nó đã nhanh chóng được thông qua. Nếu có tranh luận, thì có lẽ nó chỉ nằm trong suy nghĩ của mọi người mà thôi, nhưng tôi đã may mắn vì chúng tôi là một Chính phủ mới và các thành viên Đảng Bảo thủ thì vẫn còn đang choáng váng.

Sau này, khi Robin Cook lên làm lãnh đạo Hạ viện, chương trình chất vấn 30 phút được chuyển thời gian vào trưa ngày thứ Tư. Khâu chuẩn bị diễn ra vào đêm trước đó và sáng thứ Tư phải hoàn tất, vì thế cho dù chương trình vẫn tiêu tốn thời gian nhưng so với trước đây thì nó vẫn ít hơn. Vào khoảng 12 giờ 30 phút trưa thì cơn ác mộng cũng qua đi. Trừ phi có sự cố xảy ra trong buổi chất vấn còn nếu không thì đầu giờ chiều, đầu óc bạn cũng thảnh thơi hơn và ngày thứ Tư sẽ trôi qua thoải mái. Nó có vẻ chỉ là một thay đổi nhỏ, tuy nhiên, đối với sức khỏe của cá nhân Thủ tướng thì đó là điều rất quan trọng.

Ngoài những mặt lợi thì sự thay đổi này cũng tồn tại những mặt trái: 15 phút chỉ là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng sẽ không quá ngắn ngủi nếu bạn phải đối diện với một đám đông ồn ào tập trung trước mặt – tin tôi đi, thời gian trôi qua rất chậm chạp – vì thế, 30 phút là cả một vấn đề, nhất là khi người ta chỉ xoay quanh một chủ đề để chất vấn thì lại càng tệ hại hơn.

Không còn nghi ngờ gì nữa, các phiên chất vấn Thủ tướng là một trải nghiệm đầy thử thách và khó khăn, để đương đầu, tôi phải cần đến dũng khí, lòng can đảm, sự tự tin, sự nhanh trí nhiều nhất trong cuộc đời làm Thủ tướng của mình. Bạn có biết một phân cảnh trong bộ phim Marathon Man khi tên bác sỹ Quốc xã xấu xa do Laurence Olivier thủ vai khoan thủng răng của Dustin Hoffman. Vào khoảng 11 giờ 45 phút sáng thứ Tư hàng tuần, tôi đã trải qua 30 phút chương trình chất vấn Thủ tướng giống như 30 phút trong cảnh phim đó.

Khi tôi kể những kinh nghiệm này của mình với một số người Mỹ và Nhật, những người không hiểu sao lại có sở thích theo dõi chương trình này, thì họ bảo rằng “Ồ, nhưng tôi thấy Thủ tướng rất thích chương trình đó lắm mà”. Nếu tôi nhìn trông có vẻ thích thú chương trình đó thì có lẽ là tôi đang “diễn”. Không, tôi rất ghét chương trình này. Những người khác thì lại nói: “Hôm nay, nhìn Thủ tướng trong phiên chất vấn rất thoải mái”. Không, tôi chưa bao giờ thấy thoải mái dù chỉ một giây, thực sự là chưa bao giờ cả.

Còn một câu chuyện nữa mà tôi nghĩ nó đúng là câu chuyện thần thoại, đó là cách thức tổ chức bố trí cho Thủ tướng trả lời chất vấn. Quan điểm này cho rằng những người đưa ra câu hỏi là những người muốn biết câu trả lời. Thực ra, toàn bộ câu chuyện là giống như một cuộc đấu kiếm, một kiểu đấu hiện đại không cần gươm giáo. Vũ khí ở đây là ngôn từ, nhưng lạy Chúa, họ có thể làm tổn thương nhau và phá hỏng ý nghĩa thực sự của ngôn từ. Trong 30 phút đó, Thủ tướng là người ở vị trí có khả năng bị “rủi ro” cao. Không ai có thể nghĩ rằng nó lại quá kinh khủng như vậy. Nếu bên chất vấn là người trung thành và để cho bạn biết trước câu hỏi, thì bạn có thể “ung dung” nhưng với những người khác thì phiên chất vấn đúng là một môn thể thao “đổ máu” và Thủ tướng là con mồi béo bở. Nếu mọi chuyện diễn ra suôn sẻ, bạn cảm thấy phấn chấn; nếu mọi chuyện diễn ra tồi tệ thì không đơn giản là bạn thấy khốn khổ mà còn có cảm giác ê chề. Chẳng có nơi nào như nơi đây, một Hạ viện đầy ắp những người chỉ muốn đẩy ai đó vào vị trí dở khóc dở cười.

Bạn không thể nói trước được bất cứ điều gì. Nhiều khi, tôi thầm nghĩ, tôi biết rõ chủ đề hôm nay là gì, tôi có câu trả lời và buổi chiều nay sẽ diễn ra tốt đẹp thôi. Thế nhưng vài phút sau đó, tôi choáng váng, tôi nói hớ, nghe có vẻ ngớ ngẩn, rồi tôi khiến không khí căng thẳng, nhiều người tức giận, thậm chí tồi tệ hơn, họ chế nhạo tôi. Vào những lúc như thế, tôi chỉ mong có cái hố nào đó phía dưới để chui xuống cho xong. Câu trả lời của tôi bắt đầu dài dòng hơn, loanh quanh hơn; tôi bắt đầu líu lưỡi, giọng điệu gấp gáp, mặt đỏ ửng và chỉ vài lập luận còn có chút rõ ràng. Tôi liếc nhìn hậu trường như cầu khẩn các cộng sự của mình cứu nguy chỉ để nhận thấy vẻ bối rối trên khuôn mặt họ. Khi tôi ngồi xuống vài người thân cận đến chúc mừng nhưng rồi những lời chúc mừng ấy cũng nhanh chóng bị những tràng vỗ tay rào rào át đi. Đi giữa hai hàng ghế mà như giữa hai hàng kiếm dài – ngày trước, các thành viên Nghị viện vẫn được mang theo kiếm – là những khuôn mặt hả hê dương dương tự đắc.

Dần dần, tôi cũng làm tốt hơn, mọi việc cũng biến chuyển nhưng nỗi lo lắng thì không thể vơi đi trong ngày một ngày hai được. Thậm chí, giờ đây, bất kể tôi ở đâu, tôi vẫn cảm thấy ớn lạnh khi đồng hồ điểm 11 giờ 57 phút sáng thứ Tư hàng tuần, nó như là chiếc gai đâm nhói vào gáy vào cổ và tim tôi. Đó là lúc tôi bước ra khỏi phòng làm việc của Thủ tướng ở Hạ viện để đến phòng trả lời chất vấn. Tôi thường có cảm giác như tội nhân bước từ phòng giam đến điểm thi hành án.

Tôi phải đến Hạ viện vào khoảng 11 giờ 30 phút sáng, ngồi cả buổi sáng trong văn phòng Thủ tướng ở phố Downing để xem xét giấy tờ, quyết sách chiến lược. Trong thời gian nửa tiếng đó bạn phải đưa ra quyết định, các câu trả lời phải được chuyển đi để tham vấn ý kiến một cách vội vàng về một số sự kiện. Điều tồi tệ nhất là những câu chuyện vào giờ giải lao lúc 10 giờ hoặc thậm chí là 11 giờ sáng, thường xoay quanh các con số không mấy tốt đẹp về một hay nhiều lĩnh vực, hay một số ý kiến ngớ ngẩn mà các thành viên Chính phủ đã phát biểu. Một dòng cũng phải ghi lại, phải đưa ra sự thật mặc dù toàn bộ sự thật có thể không được phơi bày. Khi đó, nhầm lẫn của Thủ tướng không phải là sai lầm mà: đó là sự dối trá có tính toán và những khoảnh khắc nghỉ ngơi như thế này là lúc để bàn tán.

Cuối cùng thì tôi cũng có kinh nghiệm hơn trong việc thực hiện chương trình này. Tôi can đảm hơn. Tôi nhận ra rằng mình phải đương đầu với con ác quỷ đó. Không phải suy nghĩ quá nhiều trong đêm trước đó, đi đúng giày (tôi đi cùng một đôi giày trong tất cả các phiên trả lời chất vấn Thủ tướng trong 10 năm) hay chỉ cầu trời cho mình sẽ vượt qua. Tôi quyết định phân tích tình hình và cố gắng tìm ra cách thực hiện tốt nhất bằng mọi khả năng có thể.

Tôi nhớ khi còn là học sinh, tôi có chơi quyền anh, đó là một môn học bắt buộc. Tôi rất ghét môn đó; với tôi, nó chẳng có tác dụng hay hấp dẫn gì – trong những lần giao đấu đầu tiên, tôi rất sợ. Tôi không muốn đánh đối thủ và cũng không muốn đối thủ đánh mình. Tôi chỉ mong sao cho hiệp đấu nhanh kết thúc. Mặc dù vậy, sau một vài lần, tôi chơi tốt lên, biết đứng lên và chiến đấu. Tôi đã chiến đấu với nỗi sợ hãi nhưng vẫn thể hiện sự quyết đoán. Hoặc là đấu cho ra đấu hoặc là không đấu nữa – điều đó cũng tốt – nhưng đừng hành động như một kẻ hèn nhát. Tôi không muốn mình phải chơi quyền anh giỏi hơn nhưng tôi đã cảm phục bản thân mình hơn.

Dần dần, tôi đã rút ra được cách thức tham gia phiên chất vấn Thủ tướng. Trước hết là bắt đầu bằng thái độ tự tin hơn, đối mặt và chiến đấu với hoàn cảnh. Nỗi sợ hãi giống như sự kích thích, ở một mức độ nhất định nó có thể khiến bạn có cảm giác vô cùng bấp bênh. Sợ hãi đến mức hoảng sợ thì quả thực tồi tệ. Trong những ngày đầu, đêm trước khi diễn ra buổi chất vấn, tôi không ngủ được, buổi sáng cũng chẳng ăn được gì. Nhưng tôi nhận ra rằng quan trọng là phải có sức khỏe cũng như tinh thần tốt mới có thể xử lý được mọi tình huống. Do đó, tôi đã thay đổi thói quen hàng ngày của mình. Tôi uống một viên melatonin vào đêm hôm trước vì thế tôi đã ngủ được ít nhất là sáu tiếng. Tôi ăn sáng và ngay trước lúc diễn ra buổi chất vấn, tôi ăn một quả chuối để lấy thêm năng lượng. Việc làm này có vẻ ngớ ngẩn nhưng tôi thấy người khỏe khoắn hơn vì thế tinh thần thoải mái và chứng hồi hộp giảm dần sau 10 phút. Điều này đã tạo ra sự khác biệt. Đến tận 12 giờ 28 phút, tinh thần tôi vẫn thoải mái và tự tin đối đáp với những câu hỏi hóc búa.

Thứ hai, tôi phải đối diện với nỗi sợ của bản thân. Nỗi sợ hãi là chiếc áo của kẻ khờ dại hoặc kẻ lừa bịp. Để ngăn chặn nó, không những bạn phải nhớ hết các con số, sự kiện mà còn phải làm chủ được cuộc tranh luận. Đương nhiên, việc nghiên cứu kỹ lưỡng các tình huống là tối quan trọng. Khi tôi bắt đầu tiến bộ cũng là lúc tôi có được một đội ngũ cộng sự gồm những tài năng lớn, trước hết là một người làm việc siêu hiệu quả – Clare Sunner, sau đó là Kate Gross, một nhà tổ chức tài ba và cũng là một MC. Cố vấn đặc biệt là Catherine Rimmer, trưởng ban nghiên cứu có kiến thức uyên thâm và có khả năng siêu việt trong việc nắm bắt chi tiết sự việc. Nhóm cố vấn dẫn đầu là Nicolas Howard, bậc thầy về tổ chức trong phiên chất vấn Thủ tướng. Tất cả đã giúp tôi có niềm tin rằng, về cơ bản thì các câu trả lời của tôi về mọi vấn đề là chính xác. Tuy nhiên, chiến thắng chung cuộc không nằm ở những sự kiện mà nằm ở cách triển khai chúng. Các sự kiện giống như con ngựa, áo giáp và cây thương; còn các kỹ năng là cách bạn sử dụng những công cụ này để mang lại hiệu quả tốt nhất hay nói cách khác, bạn phải dự đoán đúng hướng tấn công, tìm ra cách thức chống đỡ và sau đó triển khai phản công.

Nếu trong một buổi chất vấn mà bạn gặp phải một chủ đề không có cơ hội chiến thắng – có một số ngày như vậy – tốt nhất bạn nên cố gắng chiến đấu để có được một trận hòa. Nhưng trong một cuộc chiến có lợi thế ngang nhau hoặc bạn có lợi thế hơn thì nhất định bạn phải chiến thắng. Chiến thắng mang lại sự tự tin cho phe của bạn, nó khiến họ phấn chấn hơn, thấy tương lai xán lạn hơn. Vị thế của bạn được nâng lên. Thất bại không chỉ làm mất giá trị của bạn mà còn làm nhụt chí đồng đội. Những phiên trả lời chất vấn tồi có thể đẩy người lãnh đạo vào thế nguy hiểm.

Đêm trước buổi chất vấn, tôi đọc qua toàn bộ khung chương trình, trong đó có toàn bộ câu trả lời giả định cho những câu hỏi giả định và nghiên cứu kỹ các vấn đề thực sự phức tạp trong tâm trạng thoải mái. Khoảng 8 giờ sáng, tôi ngồi xem xét và trau chuốt lại các vấn đề có khả năng bị chất vấn nhiều nhất và vạch ra diễn biến và hướng tranh luận trong chương trình. Đôi khi cách diễn đạt hay nhất lại xuất hiện ngay trong phiên chất vấn, nhưng theo kinh nghiệm của tôi thì điều này hiếm khi xảy ra. Không ai có khả năng phát biểu hùng hồn nếu tài hùng biện của họ không được mài dũa, chuẩn bị kỹ.

Bằng phương pháp này, dần dần, tôi học được cách chuyển từ thế phòng thủ sang tấn công. Điều này giúp tôi phân tích cuộc tranh luận bằng sự kiện, dữ liệu – xem nó có bền vững và thuyết phục không, liệu nó có phù hợp với các thành viên Nghị viện cũng như thành viên Chính phủ không?

Tôi đã phát hiện ra sức mạnh của tính hài hước, cả bề nổi lẫn bề sâu của nó. John Smith là người đầu tiên mà tôi thấy đã sử dụng tài tình khiếu hài hước trong Nghị viện, cũng giống như việc hạ bệ John Major bằng việc lợi dụng sự sụp đổ của Cơ chế Tỷ giá Hối đoái (ERM). Gordon cũng vậy, thời kỳ đầu, ông ấy đã sử dụng óc hài hước, hóm hỉnh của mình để đánh đổ mặt trận kinh tế của Đảng Bảo thủ tại Nghị viện khi đứng vào đúng vị trí của John trong những năm cuối thập niên 1980. Cách ông ấy phản biện lại Nigel Lawson và Ủy ban Tài chính Đảng Bảo thủ đã giúp chúng tôi có cơ hội tham vấn kế hoạch của họ. Chúng tôi thường rơi vào thế yếu trong các vấn đề tranh luận, nhưng thật tuyệt vời khi điểm yếu đó được giấu nhẹm đi bằng sự hóm hỉnh đúng lúc. Tôi là người khá nghiêm chỉnh và cứng rắn, giống như một luật sư trong một buổi tố tụng nhưng tôi cũng có khiếu hài hước và chỉ cần tự tin sử dụng nó hiệu quả mà thôi.

Tôi học được cách tước vũ khí của đối thủ và làm nổ tung chúng. Họ cáu giận, bạn nhẹ nhàng ôn hòa. Họ cứng nhắc, bạn ôn tồn. Họ nguyền rủa bạn, bạn cảm thông. Khi đối đầu nhau, hãy nhìn thẳng để xem sắc mặt họ, mắt đối mắt thay vì đảo quanh.

Cuối cùng, tôi nhận ra rằng nếu làm mọi thứ rối tung lên, bạn sẽ có lợi thế. Nói thì dễ nhưng làm mới khó. Khi trải qua một phiên chất vấn không tốt đẹp thì lúc đi bộ từ nghị trường trở về phòng làm việc, tâm trạng tôi cũng tồi tệ chẳng khác nào lúc từ văn phòng tới đó. Thường thường, sau chương trình chúng tôi luôn dành ít phút để xử lý những hậu quả của buổi chất vấn. Nhóm cộng sự cũ luôn cảm thấy rằng việc tôi làm rối tung mọi chuyện lên quả là những giây phút khó khăn đối với họ. Khuôn mặt họ tràn trề vẻ thất vọng, mặc dù họ đã cố che giấu. Jonathan Powell thường là người duy nhất lên tiếng. “Ơn Chúa, thế là xong, tuần này không còn phải làm việc đó nữa”. Ông ấy vui vẻ nói vậy trong khi một số người khác càu nhàu về việc chúng tôi chỉ có được “một trận hòa” vài người còn chửi thề.

Đầu tháng Năm năm 1997, các phiên chất vấn hai lần một tuần được gộp thành một buổi. Tôi không bao giờ hối tiếc về quyết định đó và các vị Thủ tướng sau này sẽ phải cảm ơn tôi vì sáng kiến cải cách này.

Quyết định tiếp theo là một trong những điều hoàn toàn khác biệt và mang tính nền tảng hơn. Vài tháng trước cuộc bầu cử, Gordon và tôi cùng nhau bàn về vấn đề chính sách tiền tệ – ví dụ, thiết lập tỷ lệ lãi suất cho Ngân hàng Trung ương Anh như thế nào. Cái gọi là “sự độc lập” của ngân hàng này đã trở thành đề tài tranh luận sôi nổi của các chính trị gia, nhà kinh tế và học giả trong suốt mấy thập kỷ qua.

Tôi cho rằng điều đó hoàn toàn đúng. Từ lâu, tôi đã tin rằng đối với các chính khách thì việc quy định lãi suất là việc làm gây lẫn lộn giữa vai trò kinh tế và vai trò chính trị, giữa vấn đề dài hạn và vấn đề ngắn hạn, giữa cái thực tế với cái nhạy cảm. Tôi đã từng được chứng kiến màn diễn kịch khi Chính phủ thận trọng điều chỉnh lãi suất theo vòng bầu cử. Mọi người đều biết diễn tiến của nó và lý do Chính phủ làm vậy. Nhờ nó mà Nhà nước đã thanh toán được các khoản tiền thưởng chi cho chính trị dựa trên tỷ lệ lãi suất một cách hiệu quả. Sự trái ngược của Ngân hàng Trung ương Anh với các Ngân hàng Trung ương độc lập ở châu Âu, đặc biệt là Ngân hàng Đức và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, xứng đáng là một bài học kinh nghiệm cho chúng tôi.

Tôi muốn nói với những thành viên Nghị viện hoài nghi, những chuyên gia nghiêm nghị, những người phản đối thay đổi rằng vấn đề không nằm ở chỗ Thống đốc Ngân hàng có phải người thông minh hơn Bộ trưởng Tài chính hay không. Thống đốc có thể hoặc không phải là một người trí tuệ siêu việt, nhưng quy trình ra quyết định tại Ngân hàng là một quy trình rất khách quan. Tôi từng trao đổi điều này với Roy Jenkins. Gavyn Davies – lúc đó đang làm việc tại Goldman Sachs và là người mà tôi vẫn tham vấn về kinh tế – đã hoàn toàn nhất trí về những vấn đề đó. Tôi biết Nigel Lawson – một Bộ trưởng Tài chính mà tôi ngưỡng mộ – cũng muốn thi hành chính sách tương tự. Đó cũng là một đòn phản công hoàn hảo dành cho những người hồ nghi về khả năng kinh tế của một Chính phủ sắp tới do Công Đảng lãnh đạo. Vì thế, ngoài lý do chính đáng đặt nhiệm vụ kinh tế dài hạn lên trên các nhiệm vụ chính trị ngắn hạn thì vẫn có rất nhiều lý do chính trị hợp lý khác để làm vậy.

Gordon cũng có kết luận tương tự, nên khi tôi đưa ra đề xuất, ông cũng nhất trí. Có một vài tranh luận xung quanh vấn đề về thời gian công bố. Tôi thiên về phương án tuyên bố ngay trước thềm bầu cử để củng cố sự tín nhiệm, còn ông ấy cảm thấy rằng việc thúc đẩy thị trường là rất quan trọng và đề nghị nên thực hiện điều đó ngay sau bầu cử, cuối cùng tôi đã đồng ý với ý kiến của ông.

Gordon tuyên bố kế hoạch đó vào ngày 6 tháng Năm. Các doanh nghiệp và thị trường vô cùng hào hứng. Các thành viên Đảng Bảo thủ phản đối nhưng không tạo thành cơn bão lớn mà thực ra họ cũng không thể làm vậy cho dù có muốn đi chăng nữa. Với tôi, đó là khoảng thời gian vô cùng quan trọng. Nó định hình một phương pháp tiếp cận với các chính sách kinh tế và giúp chúng tôi tìm ra cách thức điều hành Chính phủ: cách làm của chúng tôi không phải được sinh ra bởi các tư tưởng cánh tả hay cánh hữu truyền thống; nó thiết lập một nền móng vững chắc, cho thấy tính quyết đoán của chúng tôi từ khi mở đầu đến khi củng cố và tăng cường cơ hội kinh tế của nước Anh với tư cách là một quốc gia.

Tôi để Gordon tuyên bố và trao cho ông cơ hội để tán dương, ca ngợi kế hoạch đổi mới Ngân hàng Trung ương Anh ở vị thế của người sẽ trở thành nhân vật hoạch định chính sách kinh tế chủ chốt của Chính phủ. Tôi đã làm thế, trước hết vì tôi nghĩ ông ấy xứng đáng được như vậy; sau nữa, nó sẽ khiến mọi chuyện được khách quan hơn, tránh màn trình diễn chỉ có một người; và thứ ba, nếu tôi làm khác đi thì chắc chắn đã dẫn đến căng thẳng.

Nhưng điều đó cũng để lại hậu quả kéo dài đến tận sau này. Tôi đã phạm phải nhiều sai lầm, nhưng có một đức tính là không tỏ ra ngại ngần trước những người có trí tuệ xung quanh mình. Trong văn phòng, tôi thích Alastair, Jonathan, Anji, Sally, Peter, David Miliband và một số người khác chính xác là vì tôi biết họ luôn chia sẻ những suy nghĩ của mình với tôi. Điều đó không chứng tỏ họ thiếu tôn trọng tôi, mà là họ chân thành – nghĩ gì nói vậy. Tôi đón nhận điều đó và có được những lời khuyên giá trị và trở nên tự tin hơn.

Tôi có chủ ý để Gordon bước ra như một người khổng lồ, một nhân vật có quyền lực thứ hai trong Chính phủ, mà không hề lo sợ mình sẽ bị lu mờ hay bị ông ấy qua mặt. Thực sự khái niệm “bị qua mặt” không phù hợp trong hoàn cảnh này. Các cộng sự của tôi ở văn phòng có phần hơi lo lắng. Nhất là Alastair đã tưởng tượng ra cảnh tôi là “chủ tịch” hay “tổng thống” còn Gordon là “giám đốc điều hành” hay “Thủ tướng”, mà theo thái độ khăng khăng của Alastair lúc đó thì tôi chỉ là con rối trong tay Gordon – người trực tiếp điều hành đất nước. Còn tôi, tôi rất thoải mái với cái cảm giác rằng tôi là ai và đang làm gì, rằng điều đó không làm tôi bận tâm, cuối cùng, tôi nhún vai thể hiện thái độ không quan tâm đến lời cảnh báo đó.

Song song với chương trình thiết lập sự độc lập cho Ngân hàng Trung ương Anh, tôi cũng bắt đầu tạo dựng một chương trình khung rộng lớn cho nền kinh tế. Trong thời gian đầu, tôi cũng nhắc nhở những cộng sự của mình phải liên tục cập nhật thông tin về chính sách kinh tế: Tổng hợp một kế hoạch chi tiêu toàn diện phù hợp với những ưu tiên của Chính phủ, giải trình những định hướng nhằm xây dựng một nền kinh tế có tính cạnh tranh và giành lại quyền kiểm soát chặt chẽ hơn nếu tôi nghĩ rằng chính sách nào đó có thiên hướng ủng hộ giới doanh nghiệp, ủng hộ những ý tưởng tham vọng (nhấn mạnh vào ý tưởng đánh thuế cao hơn đối với những người có bằng cấp cao hay những người có từ hai ngôi nhà trở lên). Việc này được thực hiện một cách thường xuyên và ở mức độ vi mô, loại bỏ ý kiến thoái thác trách nhiệm; một loạt công việc cần được thực hiện nhằm duy trì ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, việc người ta cho rằng tôi bàng quan với những chính sách kinh tế là thiếu xác thực. Thực tế là con tàu, đường ray và đích đến đã được xây dựng trong sự hợp tác chặt chẽ với Gordon và trên những con đường do tôi định hình hay lựa chọn. Để từ theo đó, người cầm lái được tự do quản lý con tàu. Không lâu sau đó, tôi đã thực sự kiểm soát chính sách kinh tế.

Trong suốt thời gian ba năm kể từ khi tôi làm lãnh đạo Công Đảng, chúng tôi đã có nhiều tranh cãi và điều đó giúp tôi nhận ra rằng chúng tôi có cách tiếp cận vấn đề khá khác nhau. Chỉ đến những năm sau này thì sự khác biệt đó mới dần lu mờ. Chắc chắn một điều rằng chúng tôi có xuất phát điểm khác nhau cơ bản nhưng đều hướng đến mục đích phục vụ chính trị. Nhưng suy cho cùng nếu hai cá nhân có quan điểm kinh tế trái ngược, với nền tảng hiểu biết hoàn toàn khác biệt mà có thể làm việc với nhau thì cách giải thích tốt nhất là có lẽ là do chúng tôi đều có bản năng khác nhau về vấn đề kinh tế và tài chính.

Về cơ bản, tôi hiểu được khát vọng trong mỗi con người. Tôi thích những người có chí tiến thủ, vươn tới thành công và ngưỡng mộ những ai làm được điều đó. Khi còn làm việc ở hội luật sư – quãng thời gian 7 năm ở đó đã giúp tôi có những cách tiếp cận khác nhau với các nguồn thông tin đa dạng – tôi có cơ hội giải quyết nhiều vụ việc liên quan đến công nghiệp và thương mại, vì thế tôi quen biết và có quan hệ mật thiết với những người kinh doanh mạo hiểm, những người hiếm khi chán nản bỏ cuộc. Họ đam mê công việc. Tôi là người đam mê lòng khát vọng. Đó là lý do tôi yêu thích nước Mỹ. Tôi ngưỡng mộ triết lý tự thân vận động hay đi lên bằng hai bàn tay trắng của họ.

Triết lý này đôi khi cũng bộc lộ những nhược điểm. Trong khi những câu chuyện về việc bị lóa mắt bởi sự giàu có của tôi luôn bị phóng đại một cách lố bịch (hầu hết những người bạn thân của tôi đều không thuộc mẫu người đó), thì đôi khi tôi lại đánh giá thấp tính nhẫn tâm và phi luân lý – điều có thể giúp kiếm tiền. Bạn đừng hiểu nhầm ý tôi: có rất nhiều doanh nhân là những người năng động mà đối với họ tiền là kết quả của thành công chứ không phải là động cơ thúc đẩy. Nhưng cũng có những người lại chẳng màng đến. Và đôi khi tôi không hiểu hết được sự khác biệt đó.

Tuy nhiên, tôi không bằng lòng với thành công và đối với một chính trị gia tiến bộ thì điều đó là một dấu hiệu tốt. Tôi cũng thuộc mẫu người đó. Tôi muốn có một ngôi nhà khang trang không? Có. Tôi thích một khách sạn năm sao hơn khách sạn hai sao chứ? Đương nhiên rồi. Tôi hiểu rằng có nhiều cuộc sống đáng mơ ước hơn nữa chứ? Chắc chắn là thế. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng việc có được một cuộc sống sung túc, giàu sang lại khiến người ta thờ ơ lãnh đạm trước những khó khăn của đồng loại. Nhưng với tôi điều ngược lại thì hoàn toàn đúng: những gì tôi muốn có cho bản thân, thì cũng muốn người khác có được. Dù sao tôi thấy việc mong muốn có được những điều ấy không có gì là sai trái.

Khi đi cùng một nhóm doanh nhân, tôi cảm thấy rất thoải mái trong khi Gordon lại hoàn toàn khác. Ông ấy có thể phân tích được một doanh nghiệp tốt phải là một môi trường tốt cho kinh doanh là như thế nào và có thể bàn thảo về những vấn đề phức tạp của chính sách này từ đó tìm cách thúc đẩy môi trường kinh doanh đó; nhưng ông ấy không bao giờ “cảm nhận” được điều đó. Tôi dường như sinh ra để phục vụ công chúng nhưng nếu được chọn lựa con đường khác, tôi muốn làm kinh doanh và kiếm tiền. Đôi khi tôi lại tự hỏi: Liệu tôi có thành công không? Nếu giờ đây tôi thực hiện điều mình mong muốn, tôi nhất định sẽ làm được. Tôi là người phục vụ công chúng bằng cả trái tim. Nếu Gordon có sự lựa chọn khác thì ông ấy cũng sẽ là một người phục vụ công chúng có tầm cỡ. Điều đó không có nghĩa là ông ấy không thể làm như vậy trong kinh doanh – với khối óc và sự quyết đoán của bản thân thì ông có thể làm bất kỳ việc gì – nhưng đó chưa bao giờ là động cơ thôi thúc hay khiến ông quan tâm, hứng thú.

Do đó, với tôi thì việc đánh thuế cao không hẳn là vấn đề. Tất nhiên, bạn có thể viện dẫn rằng người giàu thì đương nhiên phải đóng thuế nhiều hơn và tôi đồng ý với điều đó, nhưng tôi muốn duy trì mức thuế cạnh tranh, kế thừa chính sách cơ bản của Thatcher/Howe/Lawson. Tôi muốn người giàu có luôn được nước Anh chào đón và trân trọng để họ có cơ hội phát triển kinh doanh, tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn và đóng góp công sức vào sự phồn thịnh của đất nước. Tuy nhiên, họ không phải là ưu tiên hàng đầu; bằng cách đó tôi muốn nói rằng họ sẽ không nhận được bất cứ quyền ưu tiên nào cũng như được lựa chọn quyền ưu tiên. Tôi thích để mọi chuyện được tự nhiên.

Tôi biết, nếu chúng tôi đưa ra mức thuế cao nhất đánh vào người giàu thì đó sẽ được coi là một tín hiệu, một lời tuyên bố về định hướng chính sách hay một chỉ dẫn có khả năng gây ảnh hưởng lớn đến công chúng. Gordon cho rằng nên đưa ra ý kiến về chính sách đó trước cuộc bầu cử, nên tôi đã thực hiện một cuộc thăm dò dư luận giả “bỏ túi” cho thấy có 70 - 80% trong số họ tán thành chính sách, tôi đã vô cùng thất vọng. Đối với tôi đó là báo động đỏ. Sau đó, Gordon cũng đã từ bỏ.

Công bằng mà nói thì Gordon đã có một quan điểm căn bản hơn về thuế đánh vào lợi nhuận thu được từ việc bán các khoản đầu tư hoặc tài sản, loại thuế đã hỗ trợ rất lớn cho các quỹ đầu tư tư nhân khổng lồ. Ông ấy chỉ cắt giảm tỷ lệ thuế xuống còn 15% cho những cổ đông nắm giữ khoản đầu tư của mình trong một khoảng thời gian tối thiểu theo quy định trước khi bán đi, vì thế những khoản đầu tư vào các công ty được phân loại theo thời gian và nhà đầu tư chỉ phải trả một khoản thuế ít hơn thuế thu nhập rất nhiều. Tuy nhiên, tôi cảm thấy việc thực hiện chính sách này chỉ như một tín hiệu về mặt chính trị đối với những người cho rằng Gordon không thân thiện với giới kinh doanh và đó là “sản phẩm” của những người núp đằng sau tư vấn cho ông ấy, chứ không phải một chính sách được khởi nguồn từ sự nhận thức sâu sắc và mang tính thuyết phục.

Cũng chẳng có vấn đề gì, trong lời tuyên bố đầu tiên về Ngân hàng Trung ương và về sự hình thành khoản ngân sách đầu tiên đó, Gordon thể hiện khá rõ quan điểm của Công Đảng mới. Tuy nhiên, dường như việc ông ấy khẳng định quan điểm cho rằng tôi đã bỏ ngỏ lĩnh vực kinh tế đã khiến cho những suy nghĩ về tôi bị sai lệch. Tất nhiên, điều đó nằm trong bản chất của chính trị nơi những hạt giống của sự sụp đổ có thể đã nẩy mầm từ một nơi nào đó rất sâu trong lòng đất. Hạt giống sẽ lớn dần theo thời gian và chồi lên mặt đất. Thậm chí, ngay cả trong những ngày đầu mới lên nắm quyền, sau giây phút nhận được cuộc điện thoại thông báo về sự ra đi của John, tôi đã không nhậm chức ngay, thì đã xuất hiện một cuộc chiến liên tục, cho dù việc nó có được giải quyết hay không lại là vấn đề khác.

Bất kể tất cả những chuyện này, thì sự hiện diện của một nhân vật lớn như thế chỉ đơn giản là để giải quyết vấn đề đó và vì vấn đề đó – một nhân vật đầy nhiệt huyết, tài năng và tầm ảnh hưởng chính trị không thể phủ nhận – là lợi thế vô cùng lớn của Chính phủ. Nếu có một cuộc va chạm thì đó ít nhất cũng là một cuộc va chạm của những người tầm cỡ. Nếu có căng thẳng thì họ cũng có khía cạnh sáng tạo của mình. Trên quan điểm bảo vệ quyết liệt tầng lớp trung lưu của tôi và sự trung thành đáng trân trọng với truyền thống Công Đảng của Gordon, chắc chắn có thể xây dựng một mối liên minh hiệu quả. Vì thế, từ sau ngày 1 tháng Năm năm 1997, mọi việc đã diễn ra đúng như thế.



Tôi có quan điểm có phần lạc quan kỳ lạ về sức mạnh của lẽ phải, về khả năng thuyết phục nếu xảy ra tranh luận. Đôi khi nó khiến tôi tin rằng nếu một mục tiêu chính trị là đúng đắn thì chắc chắn sẽ thành công. Nhưng rõ ràng là chính trị không giống như thế: Có những mục tiêu hoàn toàn chính đáng và có giá trị, tuy nhiên lại hoàn toàn không khả thi.

Kinh nghiệm của tôi với những đảng viên Đảng Dân chủ Tự do trong những ngày đầu nắm quyền là một tình huống thực tế, minh họa cho quan điểm này. Vào những ngày nghỉ, tôi muốn họ tụ tập với mình. Tôi coi Roy Jenkins là một cố vấn. Dần dần, tôi yêu quý ông và thực sự nghĩ rằng ông là một người lý trí, can đảm, tao nhã và thông minh. Tôi cũng yêu quý và kính trọng Paddy Ashdown và nghĩ rằng họ có những thế hệ trẻ sẽ kế tiếp mình, làm nền tảng cho một Công Đảng mới. Tôi hiểu tại sao Đảng Dân chủ Xã hội (Social Democratic Party – SDP) được thành lập, tại sao nó lại thất bại và tại sao sự thất bại đó không phải là sự thất bại về một ý tưởng mà là sự thất bại của một tổ chức và sự thất bại của một phương thức hoạt động chính trị.

Đảng viên Đảng Tự Do được xem là tập hợp của một nhóm bao gồm những những người nghiêm túc một cách mơ hồ, những người không mấy nghiêm túc và những người hoàn toàn không nghiêm túc. Tôi có định kiến về những gã râu ria xồm xoàm, đi dép xăng đan và mặc áo màu mè đến chói mắt, những người mà tham vọng lớn nhất là trở thành hội viên trong các hội đồng địa phương và làm công tác vận động xuất quần chúng; những phụ nữ trong trang phục rộng thùng thình, khác người và chỉ nói về tầm quan trọng của giáo dục giới tính.

Sau khi Đảng Tự Do và Đảng Dân chủ Xã hội hợp nhất thành Đảng Dân chủ Tự do, thì những đảng viên Đảng Dân chủ Tự do mới của họ có cách thức hoạt động khá giống với kiểu chính trị “gượng ép”, tỏ vẻ hợp tác nhưng thực tế thì hoàn toàn trái ngược. Họ cũng khá giống với phe cánh tả và cánh hữu của hầu hết các đảng, chỉ hơn thế một chút, điều này lý giải cho những gì mà Rick nói về Louis ở Casablanca.

Điều đó có nghĩa là các nhà hoạt động của đảng này thiên về những điều kỳ quặc. Bây giờ, bản thân tôi cũng là một nhà hoạt động và thời trẻ, tôi còn là một nhà hoạt động tích cực – vì thế ở đây tôi cần phải cẩn trọng. Nhưng hoạt động chính trị không phải lúc nào cũng đòi hỏi chút ít tính chất của kẻ kỳ quặc. Tôi biết nhận thức này là cố chấp và có phần gây sốc nhưng bất cứ ai đã từng ngụp lặn trong môi trường của một chính đảng chính trị và là thành viên trong đảng thì sẽ biết rằng một môi trường sống lập dị là gì.

Đảng viên Đảng Dân chủ Tự do cũng có thể thiên về chủ nghĩa cơ hội thô thiển. Giờ đây, tất cả các nhà chính trị phải luôn chớp lấy thời cơ, việc nắm bắt cơ hội thường là những gì họ phải làm – nhưng trong một số chiến dịch địa phương thì đảng viên Đảng Dân chủ Tự do đã làm tốt điều này, đạt đến mức độ biến nó thành một hình thức khoa học hay nghệ thuật. Đặc biệt, trên quan điểm chính thức, họ tuyên bố về niềm tin vào sự bình đẳng giới và sắc tộc, họ vẫn đứng lên ủng hộ những phong trào bẩn thỉu nhằm vào đặc điểm cá nhân của đối thủ.

Mặc dù, giống như một mớ bòng bong, nhưng khả năng lãnh đạo của họ rất tốt, trong hàng ngũ của họ có những cá nhân xuất sắc và có quan điểm chính trị gần giống với Công Đảng mới. Chúng tôi đã dẫn dắt Công Đảng tới điểm nhận ra rằng phần lớn những gì mà Đảng Dân chủ Xã hội trước đây nói đều đúng; một số thành viên vượt trội của họ đã rời bỏ và gia nhập hoặc tái gia nhập Công Đảng; và thực tế, tôi có tầm nhìn chính trị gần với một số người trong họ hơn là với nhiều người cánh tả cũ trong đảng của tôi. Cần phải thu hút họ tham gia Công Đảng. Liệu chúng tôi có thể tiến thêm một bước nữa là lôi kéo họ vào Chính phủ không? Một bộ phận truyền thống của Công Đảng – đặc biệt là John Prescott – sẽ cho đó là một ý tưởng ngớ ngẩn; nhưng đây là thời điểm hiếm có và có thể sẽ không bao giờ trở lại. Tôi sẽ thử xem sao. Paddy và vợ anh ta là Jane, cùng với Cherie và tôi thường xuyên ăn tối với nhau trước kỳ bầu cử. Chúng tôi rất quý mến và tin tưởng nhau. Paddy là người thực sự có phẩm chất lãnh đạo; và giống như tôi, anh ta không hề chùn bước trước vài trò lãnh đạo đảng của mình.

Trong bài phát biểu tại Hội nghị Đảng sau này, trước sự cảnh báo của Alastair và Bruce, tôi đã bày tỏ sự thán phục và ngưỡng mộ ngoại lệ của mình đối với Lloyd George, Keynes, Beveridge cũng như Attlee, Bevin và Keir Hardie. Tôi tin, một phần bằng trực giác, một phần đuợc củng cố bởi Roy Jenkins – rằng thế kỷ XX là thế kỷ của Đảng Bảo thủ bởi những cá nhân xuất chúng và tài năng đã cùng nhau làm việc thay vì tham gia các đảng khác nhau, chia rẽ và đấu đá nhau.

Theo tôi, việc làm cho hai cánh dân chủ xã hội tiến bộ này hòa hợp với nhau mang một ý nghĩa lịch sử. Điều này cũng xuất phát từ phương thức tiếp cận chính trị tổng hợp của tôi. Tôi đã mất một khoảng thời gian dài trước khi đi đến kết luận rằng hệ thống đảng phái này, mặc dù là cần thiết, nhưng xét ở một mức độ nào đó thì không hợp lý và phản tác dụng. Điều đó có nghĩa là sự khác biệt giữa hai cánh này sẽ bị thổi phồng lên hoặc là được hư cấu ra; nó ngăn cản những cá nhân nhạy bén hợp tác cùng nhau để đạt được những kết quả đúng đắn; những vấn đề phức tạp đòi hỏi những giải pháp thận trọng; nhằm làm giảm những cuộc chiến ngôn từ.

Khi nghe một số thành viên của Đảng Bảo thủ phát biểu trong các cuộc tranh luận tại Hạ viện những năm 1980, tôi cho rằng nếu mình là một quan sát viên khách quan, thì những gì họ nói hẳn sẽ mang lại nhiều ý nghĩa. Một khoảng thời gian lâu sau đó, tôi có trò chuyện và trao đổi quan điểm với một số thành viên Đảng Bảo thủ. Không có gì có thể biến tôi thành một thành viên Đảng Bảo thủ hay làm giảm bầu nhiệt huyết tôi dành cho chính đảng; tuy nhiên hành động đó đã cho thấy sự dại dột, thậm chí là sự vô ích của việc phản đối lợi ích của phe đối lập.

Trên hết, tôi nhận ra rằng cuộc chiến vì quyền lực chính trị giữa Chính phủ và doanh nghiệp, Nhà nước và thị trường về bản chất là tàn tích của thế kỷ XX. Một Chính phủ có vai trò phù hợp hiển nhiên cần phải thực hiện những gì mà chỉ Chính phủ mới có thể thực hiện được, cũng như một khu vực tư nhân giàu tính cạnh tranh và giàu sức sống nhằm mục đích tạo ra của cải cho đất nước. Cùng nhau, mỗi đơn vị trong phạm vi của mình, đều quyết định sự phồn vinh của đất nước. Vì thế, tôi cho rằng trong khi các giá trị và mục đích có thể khác nhau và tách biệt hoàn toàn – và từ đó sản sinh ra những tư tưởng và đường lối chính trị thực tế – thì câu hỏi đặt ra là con đường nào dẫn tới các mục đích đó, câu hỏi này là vấn đề hoàn toàn mang tính thực tiễn: cái gì kiểm soát được thì cái đó mới đáng tin. Tại thời điểm đó, xét về khía cạnh các giá trị và mục đích cần đạt được, thì thật khó để các đảng viên Đảng Dân chủ Tự do quan tâm thấy được điểm khác biệt cơ bản nằm ở đâu. Vì thế chỉ còn quyết định cố gắng kết nạp họ.

Trong những giờ phút vui sướng tột cùng sau bầu cử, tôi đã nói với Paddy (lãnh đạo Đảng Dân chủ Tự do) và chúng tôi đã nhất trí với nhau rằng hãy còn quá sớm để đưa họ những đảng viên Đảng Dân chủ Tự do vào Nội các (mặc dù mỗi người chúng tôi đều tin tưởng vào đảng của mình, nhưng cả hai chúng tôi đều lo lắng về những phản ứng quá sớm mang tính cá nhân của các đảng viên khác sau bầu cử) và không giống như năm 2010 tôi đã giành một chiến thắng áp đảo. Nhưng chúng tôi đồng ý sẽ tiến hành quá trình hợp tác thông qua một hội đồng chính thức để cố gắng xây dựng một chương trình được thỏa thuận chung giữa hai đảng về cải cách Hiến pháp.

Paddy miễn cưỡng đồng ý vần đề này, ít nhất là cho đến khi Hội đồng Hiến pháp đã cân nhắc kỹ về những nội dung Hiến pháp cần sửa đổi. Tôi sợ rằng điều này có nghĩa là việc sửa Hiến pháp sẽ không diễn ra.

Nỗi lo sợ của tôi thể hiện rõ khi diễn ra sự kiện Đảng Dân chủ Tự do chấm dứt phản đối chính sách cải cách dịch vụ công của chúng tôi dựa trên những ý tưởng cơ bản thuộc nền tảng tư tưởng Công Đảng cũ – tuy nhiên, họ cố gắng trang hoàng cho hành động đó – rằng trong thời gian này chúng ta có thể thỏa thuận về nội và dung dễ dàng nhận được đồng thuận cho chính sách – hoặc nếu không dễ dàng thì nội dung đó cũng không động chạm đến cuộc sống hiện tại của cử tri – họ sẽ tránh phải thực hiện những thay đổi dễ gây tổn thương nhưng cần thiết liên quan đến trường học, bệnh viện, lương hưu và phúc lợi xã hội – những vấn đề có quan hệ mật thiết đến đời sống của cử tri. Mặt khác, về phía tôi thì câu hỏi là: Đây có phải là thái độ hợp tác thực sự? Cuối cùng, tôi sợ rằng không phải vậy, không phải do thiếu quyết tâm cao độ hay thiếu tin tưởng về phía Paddy – ông ta hoàn toàn trung thực về chuyện này – tôi nghĩ rằng vì họ thiếu những chính sách cần thiết làm nền tảng cho việc cầm quyền. Trong phân tích sau cùng thì Đảng Dân chủ Tự do dường như hài lòng hơn khi sắm vai nhà phê bình “trung thực”, chuyên châm chọc, moi móc và kích động nhưng lại không muốn chịu trách nhiệm về những lựa chọn khó khăn và chịu đựng sự dữ dội của thực tiễn chính trị. Sẽ rất thú vị để suy xét xem liệu có liên minh nào hình thành sau khi cuộc bầu cử năm 2010 diễn ra. Điều này rất có thể xảy ra vì Đảng Dân chủ Tự do khát khao có sự cải cách trong bầu cử. Nhưng nếu điều đó không xảy ra thì tôi nghi ngờ về sự tồn tại lâu dài của liên minh. Tuy nhiên có thể là tôi sai.

Quay trở lại năm 1997, khi sự liên minh hoàn toàn là hành động tự nguyện giữa các chính đảng, tôi nghĩ rằng đây là cơ hội để các chính đảng chỉ trích, phê phán nhau, từ đó việc đảng nào ra đi, đảng nào ở lại trở nên dễ hơn, cách thức tranh cử này thật hấp dẫn. Vấn đề ở chỗ họ lại ngồi trong các chương trình kiểu như hội thảo hay sự kiện được truyền hình rộng rãi và người dân đồng tình với họ bởi họ thảo luận những gì mà người dân muốn nghe – điều chẳng bao giờ thực sự làm thay đổi được gì cả. Tôi e rằng có thể điều này sẽ đưa họ đến chủ nghĩa cơ hội – thứ chủ nghĩa vô cùng hấp dẫn.

Tôi nhớ rất rõ khi còn là Bộ trưởng Nội vụ Đối lập (Shadow Home Secretary) năm 1993 và Ken Clarke giữ chức vụ Bộ trưởng Nội vụ trong Chính phủ. Tôi rất có cảm tình với Ken, ông ta là một chính trị gia có chính kiến và thẳng thắn. Các thành viên Đảng Bảo thủ thật thiển cận khi không bầu ông ta làm lãnh đạo cho dù tôi rất biết ơn họ về điều đó. Ông ta đã đưa ra rất nhiều đề xuất cải cách hệ thống cảnh sát. Một trong số đó được đánh giá là rất sáng suốt (như thay đổi những yêu cầu về nhận trợ cấp) nhưng có nhiều cải cách không mấy khả thi (như những quy tắc về phương thức làm việc của cảnh sát). Hầu hết các cải cách là hợp lý nhưng giới cảnh sát ghét cay ghét đắng chúng. Liên đoàn Cảnh sát – một tổ chức được tập luyện chỉn chu nhất mà tôi từng biết – đã tổ chức đại hội phản đối các cải cách đó tại sân Wembley Arena trong đó có hai điểm đáng chú ý: Thứ nhất là nguyên tắc tập thể của cảnh sát. Ủy ban Liên đoàn Cảnh sát ngồi trên khán đài, phía trước là các cảnh sát. Có đến 10 nghìn cảnh sát ở đó, tạo ra một cảnh tượng nghiêm trang đến đáng sợ. Toàn bộ đội ngũ cảnh sát chỉnh tề phía dưới răm rắp tuân theo mệnh lệnh từ Ủy ban Liên đoàn. Khi ban lãnh đạo vỗ tay, thì đám đông cảnh sát cũng vỗ tay; khi họ ngồi im, không một cảnh sát nào dám có động thái gì. Đó thật là một cảnh tượng nghiêm trang đến nghẹt thở.

Điều đánh chú ý thứ hai là bài phát biểu của Người phát ngôn Đảng Dân chủ Tự do, Robert Maclenna và sau này là Phát ngôn viên luật pháp của cảnh sát. Bài phát biểu đã phơi bày những vấn đề của Đảng Dân chủ Tự do. Hiện tại, vị trí chính thức của Đảng Dân chủ Tự do rất yếu thế. Về cơ bản, họ đề xuất các quyền tự do dân sự trong đó những hình phạt tồi tệ nhất chỉ là một lời khiển trách và cho rằng điều quan trọng nhất là phải cứng rắn với những hành động mạnh tay thái quá của cảnh sát – tất cả thật quá xa vời như khoảng cách hàng triệu kilômét từ trái tim đến khối óc của một cảnh sát Anh.

Tôi đứng dậy và phát biểu. Thật sự mà nói, tôi cũng hơi ngần ngại, bởi tôi nghĩ một số điểm cải cách rất nhạy cảm, nhưng tôi đã nắm bắt và kiểm soát được tình huống để tránh sự tức giận nhằm vào những gì mà người ta cho là có sự bất công và tôi đã được cổ vũ kịp thời.

Sau đó là đến lượt Robert. Giờ hãy nói vài lời về ông ta. John Smith thường gọi các bài phát biểu của Robert ở Hạ viện là “vũ khí” để giải tán đám đông chỉ bao gồm một người. Việc mô tả Bob như một người phát ngôn kém cỏi đã không cho người ta thấy hết bản chất của sự “sống lâu lên lão làng”. Nếu bạn dưới quyền ông ta ở Hạ viện với tư cách là người phát ngôn tiếp theo và phải tuân theo ông ta, thì bạn có thể lỡ mất cơ hội của mình chỉ vì ông ta đã làm cho bạn rối trí. Hơn nữa, ông ta cũng là người thông minh và lịch sự nhưng điều đó cũng không khiến mọi người yêu mến ông ta nhiều hơn.

Vì vậy, thật ngạc nhiên khi tôi nhìn thấy Bob đứng lên phát biểu trước 10 nghìn cảnh sát, những người mà tôi đoán là không thể tưởng tượng được sự tẻ nhạt khi phải nghe ông ta nói. Tôi chỉ có thể mô tả bài phát biểu của ông ta cứng nhắc như một chiếc máy biết nói mà lần đầu tôi “được” nghe. Ông ta biết những gì họ muốn nghe. Ông ta đã đọc các tài liệu mô tả về những điều ngang trái chưa từng có của những đề xuất cải cách. Ông ta hướng ánh mắt vào 10 nghìn gương mặt đang mong đợi ở phía dưới và ông chỉ trích Chính phủ không những đã thờ ơ, mà còn tỏ thái độ thực sự xúc phạm ngành cảnh sát. Đến lúc ông ta tả xong bức tranh về một đất nước với những cảnh sát tội nghiệp bị hạn chế, bị đè nén trong khi những kẻ tội phạm thì tự do hoành hành và tất cả những điều đó như là một phần của một âm mưu thận trọng và độc ác của Bộ Nội vụ, thì Ủy ban Liên đoàn, 10 nghìn cảnh sát và thậm chí cả những nhân viên lo âm thanh, ánh sáng cho buổi nói chuyện cũng đứng lên giận dữ, la mắng om sòm và đòi hỏi nhiều hơn từ Bob – người bạn tốt nhất của lực lượng cảnh sát.

Tuy nhiên, những gì diễn ra đã mô tả tất cả các vấn đề của Đảng Dân chủ Tự do. Khi mọi sự đã được thu xếp thì họ hài lòng với vai trò của nhà phê bình hơn là vai trò của diễn viên. Thời gian trôi đi và tôi dần bị thuyết phục rằng chúng tôi cần có những giải pháp cơ bản cho vấn đề dịch vụ công và phúc lợi xã hội, đấy là chưa tính tới các vấn đề về an ninh và trật tự, những vấn đề này bao giờ cũng vậy, luôn có sức hấp dẫn tự nhiên với phe đối lập. Giấc mơ đạt được giải pháp cho các vấn đề này để từ đó hợp nhất cánh dân chủ xã hội giờ đã bị phai nhạt. Paddy là nhà lãnh đạo thực sự cam kết với ý tưởng hợp nhất các lực lượng tiến bộ. Charles Kennedy, một anh chàng rất tao nhã, nhưng lại không có cùng cam kết đó. Vấn đề Iraq là đỉnh điểm của sự bất đồng và đã trở thành một điểm tựa lớn của Đảng Dân chủ Tự do trong các chiến dịch vận động và tuyên truyền, kéo theo đó là mối quan hệ của chúng tôi dần trở nên khó khăn hơn. Đó là điều đáng tiếc nhưng khó tránh khỏi. Trước hết, tôi nghĩ r