← Quay lại trang sách

Chương 21 Ra Đi.

Chuỗi ngày tháng đó rất nặng nề, đặc biệt là với gia đình tôi, một đám mây bất an treo lơ lửng lúc nào cũng chực rơi xuống đầu họ. Gia đình, đặc biệt là gia đình trẻ, luôn mang một ý nghĩa vô cùng thiêng liêng và mật thiết nhưng lại tách rời một cách kỳ lạ với công việc của một Thủ tướng. Họ chứng kiến những sự kiện xảy ra, họ tham gia vào những khoảnh khắc vui buồn, nhưng luôn cảm thấy giống như kẻ ngoài cuộc, bởi rõ ràng họ không thể tham gia hỗ trợ chính sự khi cần.

Họ đứng ngoài những nỗi đau và áp lực khủng khiếp của một Thủ tướng nhưng không tránh khỏi những ánh mắt dò xét. Tuy họ nhìn thấy những điều bạn đang trải qua, nhưng ở một mức độ nào đó, mọi thứ vẫn kín bưng với họ và chính điều đó mang lại cho họ cảm giác trống rỗng lạ lùng, một chút lỡ cỡ, bởi họ là một phần không thể thiếu của cuộc đời Thủ tướng nhưng không bao giờ được tham gia hoàn toàn vào nó.

Khi chúng tôi mới đến Phố Downing, chúng tôi là gia đình trẻ nhất từng sống ở đó, kể từ thời Lord Russell vào những năm 1850 và 1860, khi ngôi nhà này được sử dụng vào mục đích cho các gia đình Thủ tướng. Thời đó, nó không được dùng vào mục đích công và cũng không thực sự là nơi làm việc. Ngày nay, Phố Downing là một con phố đông đúc, tấp nập, với những tòa nhà Chính phủ san sát nhau và hàng trăm nhân viên. Tính biểu tượng của địa chỉ nổi tiếng nhất ở Anh cho thấy nó là nơi trú ngụ của quyền lực. Giờ đây, nó được sử dụng chủ yếu làm văn phòng làm việc, tiếp đến là phục vụ mục đích gia đình.

Việc lũ trẻ có mặt ở Phố Downing một mặt rất tuyệt vời, nhưng mặt khác, nơi này hoàn toàn chưa chuẩn bị để đón chào chúng. Khi Leo đến đây, thằng bé là đứa trẻ duy nhất trong tòa nhà, điều này mang lại nhiều niềm vui cho mọi người và các nhân viên ở đây, họ rất yêu quý thằng bé, nhưng nơi này không phải là nhà trẻ. Mặc dù tôi chưa bao giờ đánh giá tính kỳ cục của việc lũ trẻ phải lớn lên ở phố Downing, nhưng chúng tôi vẫn xử lý mọi việc được êm xuôi. Ngoài ra, Chequers là nơi nghỉ dưỡng tuyệt vời, sau những ngày mệt mỏi ở phố Downing. Không có nơi đó, quãng thời gian tôi tại vị sẽ rất khác và tồi tệ hơn rất nhiều.

Tôi sống ở căn hộ Số 10. Chúng tôi sửa sang lại nhà bếp, điều vô cùng cần thiết, nhưng bất kỳ việc tu sửa nào cũng luôn nảy sinh những “chuyện ngồi lê đôi mách về chi phí xung quanh” – các nhà thầu phải làm việc với những quy tắc đặc biệt – và ”tiêu xài hoang phí”. Mọi người từng rất ngạc nhiên khi chúng tôi không có đầu bếp nhưng đó là do chúng tôi thích vậy. Căn nhà sẽ yên tĩnh và riêng tư hơn, mặc dù thư ký, viên chức Nhà nước và người đưa thư vẫn thường xuyên ghé qua. Tuy nhiên, những người làm việc ở Phố Downing đều rất thân thiện, thoải mái và giúp đỡ chúng tôi rất nhiều cũng như san sẻ gánh nặng trên vai tôi, một Thủ tướng. Họ không bao giờ bàn luận về việc đó; nhưng bạn có thể cảm nhận được sự giúp đỡ rất nhẹ nhàng và chân thành mà họ dành cho tôi.

Căn nhà Số 10 lớn hơn bạn nghĩ với một số phòng trống ở phía trên hai tầng chính, dành để làm phòng khách và phòng ngủ. Từ tầng thượng của căn nhà, bạn có thể bao quát toàn cảnh từ phố Downing đến quảng trường Horse Guards và công viên St Jame’s. Tôi thường tập thể dục bằng máy chạy bộ, máy đua thuyền và tập tạ. Nicky có một phòng riêng để bộ trống của thằng bé, cùng với những chiếc guitar của tôi và thỉnh thoảng chúng tôi lẻn lên tầng thượng chơi nhạc cùng nhau và không nghi ngờ gì nữa, tạo nên những âm thanh kinh khủng nhất.

Bằng cách nào đó và có lẽ chủ yếu là nhờ Jackie “phi thường”, người đã ở bên gia đình tôi từ năm 1998, gia đình trẻ chúng tôi đã vượt qua thời gian bên nhau trong những năm tháng mới về sống chung và chào đón sự ra đời của Leo và những năm đầu tiên của thằng bé ở trường tiểu học. Hơn lúc nào hết, bạn là chính mình khi ở bên gia đình – bạn thể hiện sự giận dữ tột cùng, yêu thương tột cùng, cảm thấy ngột ngạt tột cùng và tận tụy tột cùng. Bạn không thể thể hiện sự ích kỷ trong gia đình. Bạn có thể muốn như vậy, nhưng cuối cùng lại tự kéo mình khỏi những nhu cầu, cái tôi của bản thân để gắn bó với những người thân. Ở gia đình, hầu như không tồn tại khoảng cách, khác biệt, sự phân biệt tính cách rạch ròi – người này tốt, người kia xấu – mà chưa được khám phá, rất ít ảo tưởng và còn ít cả sự tưởng tượng hơn. Mỗi chúng ta ai cũng phải trải qua những khoảnh khắc tốt nhất và tệ nhất của đời người. Cuối cùng, quan trọng nhất là bạn phải tha thứ cho những kẻ xâm phạm đến mình để nhờ đó bạn cũng có thể được tha thứ. Và chỉ thỉnh thoảng, bạn cảm nhận được sức mạnh của gia đình trong những giờ phút quan trọng và rằng đó là thành tựu kỳ diệu của con người và với tất cả hạn chế, nỗi lo lắng, sự căng thẳng, nó đáng được trân trọng.

Chúng tôi có những ngày tháng gắn bó với ngôi nhà Số 10 phố Downing và trải qua một khoảng thời gian tuy có lúc khó khăn ở nơi đây. Nhưng sự căng thẳng khi sống ở đây đã phản ánh về con người chúng tôi theo những cách khác nhau.

Vai trò của người vợ/chồng của một chính trị gia cần sự suy ngẫm cẩn trọng. Trước đây, người đàn ông đảm nhận vị trí trụ cột và là lao động chính của gia đình còn người phụ nữ thì không. Ngày nay, phụ nữ cũng làm việc. Đối với những phụ nữ đi làm, mọi việc luôn rất khó khăn và Cherie, vợ tôi cũng vậy. Theo tôi, cô ấy đã chọn tiếp tục là người phụ nữ theo đuổi sự nghiệp của bản thân hơn là trở thành vợ của chính trị gia. Khi nhìn lại, tôi không chắc rằng điều đó có thể hay không, căn cứ vào mức độ “soi mói” của công luận ngày nay.

Cherie đã cố duy trì những hoạt động cũ nhưng điều đó rất khó. Có rất nhiều việc cô ấy không thể tiếp tục vì chúng khá nhạy cảm đối với chính trị. Cô ấy không nhận được sự ủng hộ ở Số 10 với tư cách là một người vợ “công chức”. Fiona, vợ của Alastair và một người bạn cũ Ros Preston thực ra đã làm rất nhiều điều tuyệt vời cho cô ấy, nhưng theo một cách kín đáo. Còn khi Gordon nhậm chức, vợ ông ấy, Sarah có một văn phòng riêng và cả nhân viên nữa, điều đó đương nhiên được cho là đúng và từ đó đã trở thành một tiền lệ.

Cherie không phải lúc nào cũng tự xoay xở được và như tôi đã nói từ trước thì cô ấy có bản năng này khi chống chọi với quyền lực, đặc biệt là giới truyền thông, những người có vị trí quá thuận tiện để công kích hoặc trả thù, nhưng cô ấy đã làm rất tốt. Cô ấy dùng Phố Downing là nơi thích hợp để làm từ thiện. Và cô ấy cũng là một người cứng rắn, mạnh mẽ khi tôi yếu đuối, kiên quyết khi tôi chao đảo và dữ dội khi bảo vệ gia đình. Giới báo chí đã nói về cô ấy như vẽ một bức tranh biếm họa, có hàm chứa sự xúc phạm, nhưng cô ấy luôn chịu đựng và hầu như chưa bao giờ để điều đó làm gục ngã mình. Cherie ”ghét cay ghét đắng” phần lớn giới truyền thông. Cô ấy thừa nhận một số lời chỉ trích là đúng đắn. Nhưng đó thực sự là một cuộc đấu không cân sức.

Và sự thực là, sự công kích của giới truyền thông thường tùy hứng, hay nói đúng hơn là có chọn lọc. Như tôi biết thì cả hai người tiền nhiệm của tôi đều đã đi nghỉ tại nhà của những người bạn. Denis vẫn tiếp tục làm việc ngay cả khi bà Thatcher nhậm chức, nhưng không ai quấy rầy ông ấy cả. Bà ấy thực sự bị công kích về vấn đề con cái, nhưng nhìn chung vào thời đó, thì họ được tự do hơn. Còn giờ đây mọi người muốn biết mọi chuyện và tất cả những gì họ biết đều phủ yếu tố tiêu cực. Liệu sự công kích đó có mang tính cá nhân hay không, đều phụ thuộc vào việc liệu biên tập viên đó quyết định công kích hay không. Nếu những tờ báo như Daily Mail quyết định làm thế, thì những tờ khác cũng sớm theo gót, họ không muốn lạc lõng.

Dĩ nhiên, cuối cùng, chính cảm giác hồi hộp và hào hứng được ở đó và làm công việc của mình đã khiến không một yếu tố tiêu cực nào có thể ngăn bạn vươn đến ánh hào quang của những điều tốt đẹp. Nhưng bạn vẫn chỉ là một người bình thường và bạn nghĩ: Đúng, đó là một vinh dự lớn và đồng thanh nói: Các anh là những kẻ đáng khinh!

Người ta xử lý áp lực theo rất nhiều cách khác nhau, cả các Thủ tướng và phu nhân/phu quân của họ cũng vậy. Một số người uống rượu, một số dấn thân vào những hành động tội lỗi, một số bị tổn thương, một số tìm đến tôn giáo, một số tìm đến những tình bạn đặc biệt. Tuy nhiên, tôi không tin rằng có ai đó lại không phải đối mặt và giải quyết nó. Áp lực quá kinh khủng. Bạn luôn tưởng tượng ra những người có phẩm chất phi thường, mạnh mẽ, quyết đoán, không sợ hãi, không hoài nghi, sẵn sàng chiến đấu đơn độc, tự tin một cách tuyệt đối khi đứng giữa một núi công việc lộn xộn. Không có ai như vậy bởi mỗi chúng ta đều có mặt yếu đuối. Đôi khi đứng trước những khó khăn thử thách, tất cả sự tự tin, dũng cảm có thể hội tụ và họ có thể hành động phi thường, có thể hy sinh mà chẳng màng tới bản thân, nhưng không ai có thể có phẩm chất như vậy trong mọi thời điểm.

Và một lần nữa phải nói rằng, mọi người đều cần thư giãn, để cơ thể được nghỉ ngơi, rũ bỏ ánh hào quang của quyền lực, dù chỉ trong chốc lát. Và nếu bạn từng thấy một người mang đầy trọng trách mà không cần nghỉ ngơi, hãy cẩn thận. Sẽ có vấn đề xảy ra.

Cũng có những nỗi buồn nhất định đến với bạn, cố kết trong con người bạn và không bao giờ rời đi. Còn tôi là một người khá lạc quan. Tôi nghĩ cuộc sống là một món quà mà Thượng đế ban ơn và cần phải sống sao cho toàn vẹn; có mục đích và xứng đáng. Ai đó phải ngồi vào vị trí Thủ tướng và phải ra các quyết định, đã bao nhiêu lần tôi từng nói rằng được làm công việc đó là một đặc ân?

Nhưng dù đó là đặc ân thì theo thời gian bạn bắt đầu quan tâm đến kết quả của mỗi quyết định, chúng tốt hay xấu. Đặc biệt là khi những quyết định liên quan mật thiết đến sự sống hay cái chết. Tôi nhớ trong cuộc chiến tranh Kosovo, do sai lầm, lực lượng đồng minh đã ném bom vào một đoàn xe dân sự, làm một số trẻ em bị thiệt mạng. Từ khoảnh khắc đó, nỗi buồn đã khắc ghi trong tôi. Tôi nghĩ về cuộc sống mà những đứa trẻ đó đáng lẽ đã có – sự đau thương của cha mẹ chúng, cảm giác tôi sẽ phải trải qua nếu đó là con cái tôi. Giờ đây, đúng là bạn phải nghĩ về việc nếu bạn từ chối hành động thì ai sẽ là người thiệt mạng. Nếu chúng tôi đã làm những việc nên làm ở Bosnia hay Rwanda, nhiều mạng sống đã được cứu. Nhưng cũng không ít mạng sống bị cướp đi. Ở Iraq, chúng ta quên những đứa trẻ chết dưới thời Saddam và nhiều đứa trẻ khác sẽ còn phải chết nếu ông ta vẫn còn nắm quyền. Nhưng không thể rũ bỏ suy nghĩ rằng có những người vẫn còn sống nếu chúng tôi không tấn công bằng quân sự nhằm lật đổ ông ta. Những suy nghĩ đó không bao giờ dứt ra khỏi đầu óc bạn và trong bóng đêm tĩnh lặng, nó lại trở về dai dẳng và dữ dội cào xé tâm can bạn.

Tôi cũng xử lý các áp lực như mọi người nhưng buộc phải xử lý nó. Nó có thể tàn phá tôi, nhưng đó là việc phải làm. Nó vẫn lẩn khuất ở đâu đó. Mặc dù vậy, tôi luôn cố gắng vượt qua những con quỷ trong tôi bằng cách đối đầu với nó.

Những tháng cuối cùng tại nhiệm có sự pha trộn đặc biệt giữa sự tập trung và bàng quan. Tôi phải hoàn toàn tập trung, nhưng cũng biết mọi việc sắp kết thúc. Do đó, tôi hoạt động ở hai mức độ: tôi vẫn hoàn thành tốt công việc và ra quyết sách hàng ngày như thường lệ; đồng thời chuẩn bị tinh thần để sẵn sàng ra đi, suy nghĩ về những việc tôi muốn làm và băn khoăn không biết điều gì sẽ xảy đến trong tương lai.

Bài phát biểu của Nữ hoàng vào tháng 11 năm 2006 có chủ đề về luật và nghị định. Chúng tôi đã công bố việc cải cách Văn phòng Nội vụ và Bộ các vấn đề hiến pháp, giờ là Bộ Tư pháp – chứng minh nhân dân và các biện pháp mạnh điều chỉnh các hành vi chống đối xã hội.

Chương trình cải cách 10 năm của Chính phủ được biết tới chủ yếu trên phương diện điều chỉnh hiến pháp, cải cách giáo dục và y tế. Học phí, các trường đặc biệt, các học viện và các trường tín thác; sự lựa chọn, cạnh tranh, các bệnh viện cổ phần hóa, các chương trình điều trị ung thư và bệnh tim; tất cả các cải cách này và dĩ nhiên, cả việc chuyển giao quyền lực đã trở nên rõ ràng.

Động lực cho những cải cách về luật và nghị định, cụ thể là, các hành vi chống đối xã hội đã được tôi đề cập đến ở phần trước. Giống như vấn đề chứng minh thư. Nhưng các cải cách này chưa bao giờ được hoàn tất về phương diện phân tích và hình dung phản ứng của công chúng, theo cách mà các chương trình khác đã làm. Tôi tin rằng đây là một thiếu sót. Luật và nghị định – và trong vấn đề nhập cư – theo tôi là những điểm tối quan trọng và cơ bản hình thành nên Chính phủ và quan trọng với Đảng Lao động mới chẳng kém gì các học viện hay các lựa chọn trong Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS).

Bài phát biểu của Nữ hoàng và những hành động diễn ra trong những tháng sau đó, đã đưa chương trình hành động này tới một điểm mới trong chính sách. Nó bị nhiều bộ phận của giới truyền thông đem ra mổ xẻ, tranh cãi sôi nổi, bị Đảng Bảo thủ, Dân chủ Tự do và một bộ phận quan trọng của Đảng Lao động phản đối. Tôi biết Gordon sẽ bỏ rơi chương trình này khi ông ấy kế nhiệm, nhưng tôi muốn chương trình nghị sự được rõ ràng bởi tôi cảm thấy chắc chắn và bây giờ vẫn cảm thấy như vậy, rằng nó sẽ được phát triển trở lại.

Tôi đã bắt đầu việc tái tổ chức Văn phòng Nội vụ và Văn phòng Ngoại trưởng, ngay sau cuộc cải tổ năm 2003. Đó là việc khó khăn nhất, do nó khiến tôi mất đi Derry Irvine, một người tôi ngưỡng mộ và cũng là người thầy của tôi, nhưng tôi đã cố gắng cách tân phần nào cách thức làm việc quá đỗi lạc hậu của hệ thống tư pháp hình sự lúc đó. Việc đưa David Blunkett vào Văn phòng Nội vụ sẽ rất hữu ích bởi ông ấy có bản năng tuyệt vời về vấn đề tội phạm. Charlie Falconer và Peter Goldsmith đều tiếp tục giữ cương vị cũ. Chúng tôi đã tiến hành cải cách các vị trí lãnh đạo dịch vụ công và điều đó đã phần nào khuấy đảo Chính phủ, nhưng nó không thể được thực hiện dựa trên tình cảm. Phải có sự điểu chỉnh về thể chế và cơ cấu.

Vấn đề của tôi với cải cách này rất đơn giản: nó dẫn tới những ưu tiên không trùng khớp với ưu tiên của Chính phủ. Văn phòng Chánh án Thượng viện có ba vai trò riêng biệt: Chánh án Thượng viện là Chủ tịch của Thượng viện, người đứng đầu bộ máy tư pháp (Pháp viện) và là người đứng đầu về mặt hành chính ở các tòa án. Theo tôi thì rõ ràng các vai trò này khác nhau về bản chất. Vị trí được xếp cuối cùng – các tòa án – là mối quan tâm đầu tiên của tôi – bởi đó là nơi quyết định hiệu quả của hệ thống tư pháp hình sự.

Tương tự như vậy, Văn phòng Nội vụ trước đây đảm bảo tất cả các vấn đề hiến pháp mà họ có nhiệm vụ xử lý – đặc quyền của hoàng gia, nền quân chủ, tước vị, các vấn đề nghi lễ, quyền con người, hiến chương hoàng gia, sự bổ nhiệm, các vấn đề về giáo hội, hôn nhân và tiếp cận thông tin – nhưng điều quan trọng với tôi là vấn đề tội phạm và nhập cư. Tôi có thể nhận thấy rằng những nỗ lực chính trị và trí tuệ chỉ tập trung vào tầng lớp cao cấp mà không đoái hoài đến cuộc sống của những dân thường. Những người này cần được đảm bảo bằng một bộ máy kiểm soát nhập cư và chống tội phạm hiệu quả.

Bất chấp tổn thương từ việc thuyên chuyển Derry, bất chấp trở ngại và sự lộn xộn mà việc cải cách hiến pháp ở Văn phòng Thượng viện đem lại, kết quả chúng tôi thu được hoàn toàn đúng như mong đợi. Thượng viện đã có một Chủ tịch mới thông qua bầu cử và họ đã có lý khi chọn một phụ nữ, Helene Hayman; các chánh án được chỉ định bởi một ủy ban độc lập; và Văn phòng Thượng viện trở thành Bộ các Vấn đề Hiến pháp, tập trung vào thúc đẩy cải cách và điều chỉnh hệ thống tư pháp, cũng như cải cách và bảo vệ hiến pháp. Năm 2007, chúng tôi đã bổ sung chức năng quản lý các nhà giam và việc tạm giữ cho họ, điều này một lần nữa lại hợp lý, do việc chống tội phạm là một chuyện, quản lý các tiến trình của tòa án và tội phạm lại là chuyện khác và cách tốt nhất là việc này cần được quy trách nhiệm trong cùng một bộ, giống như hầu hết các Bộ Tư pháp nước ngoài.

Vậy là chúng tôi đã chuyển các vấn đề về hiến pháp khỏi Văn phòng Nội vụ, thay đổi Văn phòng Thượng viện và tăng cường điều chỉnh các vấn đề nhập cư, hộ chiếu và quốc tịch ở Văn phòng Nội vụ. Chúng tôi cũng cần đưa các vấn đề này vào một khuôn khổ pháp lý mang hơi hướng của thế giới hiện đại trong đó bao gồm các quy định về hành vi chống phá xã hội; các nỗ lực cải cách luật khủng bố; thắt chặt các quy định về tị nạn và nhập cư, loại bỏ ban hội thẩm trong các phiên xử gian lận phức tạp (việc này thường sụp đổ sau vài tháng do tính phức tạp của nó, khiến các thành viên của ban hội thẩm mất nhiều thời gian vô ích trong khi những người lao động không được hưởng các dịch vụ hội thẩm.) Các biện pháp liên quan tới ADN là một bước tiến vô cùng quan trọng. Các biện pháp này từng bị những người theo lập trường tự do dân sự phản đối quyết liệt, điều mà tôi cho là hoàn toàn sai lầm. Nhờ công nghệ mới về ADN, chúng tôi có thể so sánh ADN của kẻ tình nghi với ADN của những tội phạm và ADN thu thập được ở những vụ án trước đó, rồi xây dựng một cơ sở dữ liệu ADN. Kết quả của việc này thực sự ấn tượng. Những vụ án cũ đã được giải quyết và người vô tội được trả tự do. Nếu được mở rộng – và khoảng một nửa số vụ án để lại dấu vết ADN – thì sự thay đổi đối với toàn bộ hệ thống tư pháp hình sự sẽ rất lớn. Dĩ nhiên, các thông tin này phải được xử lý cẩn trọng và được bảo vệ, điều đó cũng khiến những kẻ giết người, những kẻ hiếp dâm và những kẻ hành hung người khác khó mà có thể thoát lưới pháp luật.

Chúng tôi cũng có một cuộc tranh cãi lớn khác về Luật Tài sản Tội phạm. Đây là một nội dung cải cách khổng lồ, điều chỉnh việc thi hành luật đối với tội phạm có tổ chức và đề cập đến người thực thi, chứ không phải tội phạm. Chúng tôi đã bắt đầu việc này vào tháng 4 năm 2005 bằng việc ban hành Luật Cảnh sát và Tội phạm có tổ chức. Nó dẫn tới việc thành lập Cơ quan về tội phạm có tổ chức nghiêm trọng (SOCA) vào tháng 4 năm 2006. Như thường lệ, nó đã vấp phải sự phản đối kịch liệt. Đảng Bảo thủ và Ủy ban Các vấn đề Nội vụ đã chỉ trích Luật 2005, do sự thiếu vắng một lực lượng biên phòng trong luật này, Đảng Dân chủ Tự do thì lo lắng về việc làm thế nào cơ quan này được cấp đầy đủ tài chính, còn Liên đoàn Cảnh sát thì phản đối cơ quan này vì sợ rằng họ có thể mất sự độc lập truyền thống mà các cảnh sát đã và đang được hưởng bao gồm lương và các điều kiện khác, còn giới truyền thông thì đặt câu hỏi về giá trị chung của tổ chức này. Nhưng nó đã lần đầu tiên cho chúng tôi quyền được tịch thu tài sản của tội phạm đã bị kết án hoặc bị tình nghi trên cơ sở hoạt động như một cơ chế ngăn ngừa.

Toàn bộ ý tưởng cải cách nảy ra sau các cuộc gặp trực tiếp của tôi với các cảnh sát và dân cư ở những vùng chìm ngập trong tệ nạn ma túy và mại dâm. Những tay buôn bán ma túy hay ma cô có thể mang theo mình hàng nghìn bảng hoặc lái những chiếc xe thời thượng. Dĩ nhiên, không thể chứng tỏ số tiền đó là tài sản của tội phạm, nhưng để cho chúng tiếp tục làm như vậy sẽ để lại hai hậu quả khôn lường. Thứ nhất và dễ thấy nhất là chúng có thể thực hiện những hành vi tội phạm dễ dàng hơn. Thứ hai, kém rõ ràng hơn nhưng theo tôi rất quan trọng, đó là điều này sẽ trao cho chúng một vị thế đặc biệt trong cộng đồng đó. Thanh niên học theo chúng. Mọi người sợ chúng và tệ hơn, một số ngưỡng mộ chúng. Chúng như những “con chó đầu đàn”. Sức ảnh hưởng và tác động của chúng lên cộng đồng thật kinh khủng. Luật mới trao cho cảnh sát quyền tịch thu tài sản – tiền hoặc bất động sản – sau đó, sẽ có một cuộc điều tra xem tài sản đó có hợp pháp không. Dĩ nhiên, điều này đi ngược lại quy định bằng chứng thông thường – người ta hoàn toàn có lý do để phản đối và điều đó có thể hiểu được – nhưng tôi cảm thấy đạo luật này hoàn toàn cần thiết trong tình hình đời sống hiện tại ở các khu vực đó.

Sau khi có cơ sở pháp lý, chúng tôi đã có thể dựa vào đó để xúc tiến. Dần dần, chúng tôi tăng quyền cho cảnh sát và khuyến khích cảnh sát bằng cách cho phép họ giữ lại một số phần trăm nhất định trong tài sản tịch thu từ các hoạt động tình nghi tội phạm. Chính sách này gần như vượt phạm vi chấp nhận được của Bộ Tài chính, nhưng cuối cùng họ đã đồng ý và cho dù chúng tôi luôn tranh cãi về tỷ lệ phần tài sản được sung vào Bộ Tài chính, bao nhiêu phần trăm được chuyển tới Chính phủ, thì các nguyên tắc cơ bản đã được chấp thuận.

Bài diễn văn 2006 của Nữ hoàng đã mở rộng hơn nữa phạm vi quyền lực này: ban hành một Nghị định Ngăn ngừa Tội phạm Nghiêm trọng mới, nhằm ngăn chặn các tội phạm có tổ chức, dù là cá nhân hay tổ chức, bằng cách đặt ra những hạn chế đối với chúng; quy định thêm các tội danh khuyến khích hay hỗ trợ hành vi phạm tội có chủ đích, khuyến khích hoặc hỗ trợ hành vi tội phạm khi biết rằng điều đó có thể phạm pháp; tăng cường việc thu hồi tài sản của tội phạm bằng cách mở rộng quyền điều tra và tịch thu tài sản của tất cả các cán bộ điều tra về tài chính được thừa nhận. Tôi còn muốn đưa cải cách này đi xa hơn nữa, nhưng chúng tôi đã khai phá một vấn đề mới, liên quan đến luật về hành vi chống đối xã hội; và một khi những thành viên Chính phủ khác nghĩ ra và cố gắng đáp ứng nhu cầu của công chúng, họ có thể quay trở lại chương trình nghị sự này và hoàn thiện nó.

Sợ hãi và bất an là những yếu tố tồi tệ trong cuộc sống hàng ngày của quá nhiều người. Giảm thiểu chúng, chúng ta sẽ cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống. Việc triển khai được chương trình nghị sự này, đặc biệt là các vấn đề về hành vi chống phá xã hội, là một trong những thành tựu mà tôi lấy làm tự hào nhất. Tất nhiên không thể phủ nhận sự thỏa hiệp với tình hình tự do dân sự. Tôi cũng rất quan tâm đến yêu cầu bảo vệ người vô tội trước việc bị buộc tội nhầm.

Lần thứ hai trong sự nghiệp chính trị của mình, tôi đã có lý do đúng đắn để cảm ơn Chúa về sự độc lập của bộ máy tư pháp và tòa án Anh: một lần trong cuộc điều tra Hutton; và sau đó là phán quyết về việc “đổi tiền lấy danh”, sự độc lập này đã được thể hiện rõ. Trong cả hai trường hợp, người luật sư đều phải chịu áp lực kinh khủng và đôi khi hoàn toàn không phù hợp phải làm điều đại bộ phận giới truyền thông mong muốn; và trong cả hai trường hợp, họ đều ra quyết định dựa trên bằng chứng. Vì vậy tôi hiểu rõ giá trị của các cơ quan có thẩm quyền độc lập và công bằng, giúp quyền lực được kiểm soát, qua đó bảo vệ người vô tội và ban bồi thẩm trước sự sợ hãi hay thiên vị.

Mặc dù vậy, tôi cũng có thể thấy rằng, những người dân thường không có bất kỳ sự bảo vệ nào ở một số vùng, thị trấn hay thành phố có nguy cơ bị tổn thương rất cao theo những cách mà hệ thống lạc hậu của chúng ta không thừa nhận. Tôi đã thấy nhiều khu vực phi luật lệ, nơi người ta hành xử không theo luật pháp bởi vì họ biết mình phải làm như vậy. Luôn có sự khắc nghiệt nhất định trong khía cạnh này. Nhưng hãy tin tôi, nếu đặt điều đó trong một cuộc trưng cầu dân ý, mọi người sẽ biết chọn loại hình xã hội nào để nuôi dưỡng gia đình.

Vậy là chúng tôi đã đạt được những bước tiến trong chương trình nghị sự về luật và nghị định và ngay cả trong những ngày cuối cùng tại nhiệm, chúng tôi cũng vẫn thi hành được một số cải cách.

Chúng tôi không thành công mấy với các quy định về sòng bạc. Đúng là một thiên tiểu thuyết dài kỳ! Mặc dù vậy, đây là một ví dụ thú vị về cách tâm trạng của công chúng được hình thành.

Chúng tôi đã và vẫn đang gặp vấn đề với một số thành phố biển cổ của nước Anh. Vào thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, mọi người thường lũ lượt kéo đến đó, cho dù đó có phải là mùa hè hay không, để thư giãn với những máy đánh bạc, thử những trò giải trí bình dân, hòa mình trong bầu không khí lễ hội. Họ vẫn ưa chuộng những loại hình giải trí cũ nhưng hấp dẫn. Sau đó vào thập kỷ 1960, xuất hiện các kiểu kỳ nghỉ trọn gói và du lịch bằng đường không. Tôi còn nhớ kỷ niệm du lịch ở Benidorm, thời kỳ địa điểm này đang cất cánh trong những năm thập niên 1960. Tôi rất thích nơi đó. Đó là lần đầu tiên tôi đi bằng máy bay. Sau khi đã được tận hưởng chút hương vị Tây Ban Nha – Tapas, Ducados và Rioja (mặc dù lúc đó tôi vẫn còn ở tuổi vị thành viên, nhưng không sao) – thì việc nghỉ ngơi ở Anh có vẻ như khá tẻ nhạt và không thời thượng. Dần dần, các thành phố biển xuống cấp và khi bước vào kỷ nguyên mới, những mảnh đất này trở nên tiêu điều đồng thời phải đối mặt với một tương lai mù mịt; hoặc không có tương lai. Blackpool là một ví dụ điển hình.

Một vấn đề khác là sự bùng nổ của các loại hình đánh bạc khác nhau – đặc biệt là đánh bạc trực tuyến – bên cạnh các sòng bạc truyền thống. Trong nhiều năm, chúng tôi và các thành phố này đã được nhiều công ty giải trí lớn, chủ yếu là Mỹ tiếp cận, họ muốn xây dựng những khu phức hợp giải trí khổng lồ, bao gồm cả sòng bạc và một loạt các dạng giải trí khác như: rạp chiếu phim, trung tâm thể thao, v.v…

Tôi nghĩ chúng tôi nên tạo điều kiện cho họ làm vậy. Đó sẽ là một khoản đầu tư lớn của khu vực tư nhân. Và thực tế không có lựa chọn nào khác. Các thành phố biển đã xếp hàng đợi các vụ đầu tư đó. Manchester cũng muốn được rót vốn và đã có những kế hoạch kỹ lưỡng để tái phát triển trung tâm thành phố trên cơ sở đó. Họ sẽ được quản trị bằng những quy định nghiêm ngặt và các nhà điều hành hàng đầu thế giới đã quen với việc tuân thủ chúng một cách có trách nhiệm.

Do đó tôi đã bật đèn xanh. Và thế là có một làn sóng phản đối khổng lồ. Các nhóm tôn giáo chống lại ý tưởng này vì cho rằng nó sẽ tăng cường hoạt động đánh bạc, tờ Daily Mail phản đối nó như thường lệ, cho rằng đó là hợp đồng tham nhũng và chĩa mũi dùi vào những công chức liên quan. Không ai để ý rằng bất kỳ điều gì bạn có thể làm trong một sòng bạc, bạn cũng có thể thực hiện với một máy đánh bạc, một trung tâm cá cược, hay đánh bạc trực tuyến, ít được đảm bảo hơn nhiều.

Với sự quả quyết, mạnh mẽ của một người phụ nữ, Tessa đã ủng hộ ý tưởng này và chúng tôi có thể phát triển nó, nhưng rồi với làn sóng phản đối mãnh liệt của Nhà thờ và giới báo chí, nó đã bị vùi dập, chúng tôi mất một phiếu ở Thượng viện và đối mặt với một lựa chọn lố bịch là Blackpool, hoặc Manchester, phải cắt giảm số lượng “siêu sòng bạc” đề xuất, đây là công cụ thu hút phần lớn số tiền đầu tư. Sau khi tôi rời nhiệm sở, Gordon đã bỏ rơi cả Manchester. Đó thực sự là sự tủi hổ cho những nơi sẽ không có một dạng đầu tư rõ ràng nào khác. Đó là dạng tồi tệ nhất của cái gọi là chủ nghĩa đạo đức – phe phái và sự vô trí. Do đó, mọi người có thể đánh bạc thỏa chí, thỏa túi tiền, nhưng không phải ở một khu liên hợp của một thành phố mới, với một sòng bạc, trung tâm giải trí, trung tâm thể thao và các cửa hàng cửa hiệu.

Mặc dù vậy, ngay cả với vấn đề này, tôi vẫn giữ lại được một chút hài lòng, vì đã đào xới vấn đề, làm những gì tôi nghĩ là đúng đắn, không hùa theo làn sóng dư luận trừ phi tôi nghĩ họ có những lý lẽ vững chắc mà tôi nên nghe theo.

Vào tháng 2 năm 2007, chúng tôi phải sống trong nỗi sợ hãi về dịch cúm A. Bệnh dịch này có thể rất trầm trọng. Virus H5N1 đã được xác nhận ở một trang trại nuôi gà tây ở Holton, Suffolk. Liên tục có các hội nghị diễn ra bàn về việc phòng ngừa, trong trường hợp dịch cúm trở thành một cuộc khủng hoảng toàn diện. Với dịch cúm, bạn phải vạch một ranh giới cẩn thận chưa từng thấy giữa việc phản ứng thái quá và phản ứng chưa đủ. Những người là nạn nhân của phản ứng thái quá này sẽ phải đối mặt với nhiều thủ tục hành chính phiền hà.

Chúng tôi đã nhất trí tiếp tục phát triển hệ thống vũ khí hạt nhân phòng thủ độc lập. Bạn có thể nghĩ rằng tôi đã chắc chắn khi ra quyết định này, nhưng thực ra tôi lại rất miễn cưỡng. Tôi có thể thấy rõ dư luận chung và những chỉ trích thực tế nhằm vào tên lửa đánh chặn Trident55 thế nào, nhưng trong những phân tích cuối cùng, tôi đã nghĩ rằng, nếu từ bỏ hệ thống này, vị thế quốc gia có nguy cơ sẽ bị hạ thấp và trong một thế giới chẳng lấy gì làm chắc chắn như hiện nay, đó là một rủi ro lớn cho quốc phòng. Tôi không nghĩ đây là vấn đề “phòng thủ quá mức” đối chọi với “phòng thủ yếu hay hòa bình”. Đơn giản là, trên thực tế, cả hai khả năng đều có thể xảy ra. Chi phí khổng lồ, sau chiến tranh lạnh, vũ khí phòng thủ ngày một ít đi và không tồn tại để sử dụng cho mục đích quân sự. Liệu tôi có nên quyết định chi thêm tiền để mua thêm máy bay trực thăng, cầu không vận và thiết bị chống khủng bố? Đó không phải là một ý tưởng gàn dở. Trong bối cảnh lực lượng quân đội Anh có thể được kêu gọi chiến đấu, chúng ta sẽ biết rõ điều gì quan trọng nhất. Chúng tôi cũng có thể sử dụng vũ khí hạt nhân phòng thủ một mình, mà không có Mỹ – và hãy để chúng tôi đặt hy vọng vào tình huống trong đó Mỹ thậm chí không dọa sử dụng chúng – nhưng đây là một bước đi lớn để đưa vấn đề này vượt trên năng lực của quốc gia.

Sau khi xem xét rồi tái xem xét kỹ lưỡng, tôi đã chọn phương án tiếp tục sử dụng hệ thống đó. Nhưng nếu quyết định ngược lại, thì đó cũng không phải là điều xuẩn ngốc. Tôi đã có một cuộc thảo luận hoàn hảo và đúng đắn về vấn đề này với Gordon, người cũng phân vân tương tự như tôi. Cuối cùng, chúng tôi đều nhất trí, vì tôi đã nói với ông ấy rằng: hãy tưởng tượng việc đứng trước Hạ viện và nói “Tôi đã quyết định bỏ nó. Liệu chúng ta có nói vậy không”. Trong trường hợp này, thận trọng, tuy tốn kém như thường lệ, nhưng sẽ giúp ta thành công.

Chúng tôi đã đồng ý với nhau về tiến trình chính sách cho thời gian tới ngay sau hội nghị ở Nội các vào cuối tháng 10. Tiến trình này có cái tên hơi to tát và phô trương: “Đường tới tương lai”. Mục đích là sử dụng quãng thời gian 9 tháng còn lại để tạo ra bầu không khí đoàn kết, gắn kết nhóm Blair và Brown với nhau và để việc lên nắm vị trí lãnh đạo của Gordon được xem là sự tiếp nối và cải cách với hình thức là Lao động mới.

Về bản chất, tôi cho rằng, ông ấy luôn nghĩ chương trình này được thiết kế để kiềm chế và phong tỏa ông ta; nhưng bằng việc đưa Pat McFadden, người của tôi và Ed Miliband, người của ông ấy, cộng tác xử lý việc này từ đầu, tôi cố gắng khiến ông ấy an lòng. Tôi vẫn hy vọng có thể thuyết phục ông ấy. Tôi hiểu rằng, ít nhất một số lý do phản đối chương trình cải cách là lý do chính trị; nhưng một khi lên nắm quyền, một khi ông ấy thực sự phải xử lý các vấn đề, tôi nghĩ, mọi việc sẽ khác và ông ấy có thể sẽ hiểu tôi không thúc đẩy chương trình này để gây tác động hay ấn tượng nào. Chính kinh nghiệm và trực giác đã khuyên tôi rằng không có giải pháp nào tốt hơn có thể giải quyết những thách thức mà đất nước đang phải đối mặt. Trái với năm 2004, giờ đây chúng tôi đã có những bằng chứng thực tế rõ rằng rằng các cải cách đã phát huy tác dụng: chúng tôi đã có một giai đoạn tăng trưởng kinh tế dài nhất trong hơn 200 năm, với 2,5 triệu việc làm mới; trong lĩnh vực y tế, không ai phải đợi quá 6 tháng để được điều trị; ở các trường học, chất lượng được nâng lên ở khắp nơi và chi tiêu cho giáo dục trên mỗi học sinh tăng gấp đôi; và trong lĩnh vực tư pháp tội phạm, số tội phạm đã giảm 35%.

Thêm vào đó, giờ đây giữa chúng tôi cuộc cạnh tranh đã kết thúc: ông ấy đã thắng, ông ấy sẽ kế nhiệm. Điều duy nhất quan trọng và quan trọng với cả hai chúng tôi, là ông ấy sẽ kế thừa sự nghiệp của tôi và dự án Lao động mới sẽ được xây dựng một cách bền vững; để đảng không bao giờ quay trở lại lề lối cũ, khi mà quyền lực chỉ bùng nổ trong một thời gian ngắn còn cả các giai đoạn dài thuộc về phe đối lập, để nước Anh thoát khỏi lời nguyền của nền chính trị thế kỷ XX; và để những tư tưởng tiến bộ được thúc đẩy một cách công bằng, nếu không nói là sẽ chiếm thế thượng phong nhờ sự ủng hộ của số đông như tư tưởng bảo thủ từng đạt được.

Với tất cả bản năng chính trị của mình, tôi biết rằng, chỉ thông qua việc kiên định theo đuổi con đường Lao động mới, với nhiệt huyết trong tim thay vì những tính toán chiến thuật, chúng tôi có thể hy vọng thành công. Như tôi đã nói, tôi tin rằng nếu chệch hướng, ông ấy sẽ thất bại.

Nhưng tôi sợ rằng Gordon không nhận ra điều đó. Ông ấy vờ như ủng hộ chính sách trong chương trình “Đường tới tương lai” và thỉnh thoảng cũng tỏ ra hào hứng, nhưng tôi biết rằng, ở hậu trường, phe của Gordon, ngoại trừ Ed Miliband, đã không ngừng chê bai, phỉ báng, coi đó là một dự án hão huyền và khinh rẻ nó. Và tôi cũng biết rằng họ không có sự lựa chọn. Tôi thường xuyên nói với Gordon và phe phái của ông ấy rằng: Được, tôi hiểu các anh không đồng tình với những phân tích của tôi; hãy cho tôi biết ý tưởng của các anh. Và điều tôi nhận được là gì? Một mặt, họ thực sự bối rối khi cố tránh né những lựa chọn và những câu hỏi khó nhằn đặt ra về các vấn đề chính sách, dù muốn hay không. Mặt khác, họ không muốn bộc lộ suy nghĩ của mình. Cuối cùng họ tự thuyết phục bản thân rằng nguyên do của điều này là họ nên tiết lộ những tư tưởng cấp tiến của mình vào thời điểm diễn ra chuyển giao quyền lực. Như tôi đã bắt đầu nói với Gordon, điều đó cũng ổn thôi, miễn là anh biết anh sẽ muốn tiết lộ gì, nhưng tại sao anh không thảo luận với tôi và thử nghiệm nó, ít nhất là như thế?

Về các kế hoạch cải cách đảng, một lần nữa với khá nhiều lý do, ông ấy lại muốn giữ chúng cho riêng mình. Còn về phần tôi, tôi có hai mục tiêu. Thứ nhất, đơn giản là hoàn tất việc huy động tài chính cho đảng. Tôi nghĩ hoàn toàn có thể đạt được một thỏa thuận với Đảng Bảo thủ để cho phép chúng tôi tiến hành những cải cách hợp lý. Ngài Hayden Phillips, một công chức kỳ cựu trước đây, đã được bổ nhiệm làm Chủ tịch ủy ban phụ trách vấn đề này năm 2006, đã tiếp cận nó một cách thực tế và đầy trí tuệ. Báo cáo năm 2007 của ông đã đề xuất áp mức trần cho phần quyên tặng của cá nhân và chi tiêu cho chiến dịch tranh cử, cùng với việc tăng lượng và diện tài chính lấy từ ngân quỹ của Nhà nước. Tôi nghĩ đó là một gói chính sách thỏa hiệp tốt.

Jack Straw là Bộ trưởng phụ trách việc đó. Chúng tôi đã tiến hành thảo luận về vấn đề này khá lâu nhưng tôi không thể thuyết phục Gordon đồng ý về một gói thỏa hiệp. Theo tôi thì Gordon nghĩ rằng ông ấy sẽ đạt một thỏa thuận tốt hơn khi lên nắm cương vị Thủ tướng, nhưng đã mất cơ hội hạn chế chi tiêu của Đảng Bảo thủ và tôi có dự cảm rằng, trong kỳ bầu cử thứ tư, không có sự tham gia của Michael Levy và tôi, số tiền chúng tôi thu hút được sẽ ít hơn nhiều. Xét cho cùng thì đây là việc trong nhà, nhưng sẽ có tác động rõ ràng tới việc tranh cử.

Vấn đề thứ hai liên quan đến đảng có ý nghĩa nền tảng hơn nhiều. Đôi lúc tôi tin rằng Đảng Lao động phải chọn lựa hành vi chính trị của mình, theo cách để đảng làm việc, tương tác với công chúng và thực hiện chiến dịch tranh cử. Về cơ bản, tôi đã đi tới một quản điểm rằng, phương pháp chính trị truyền thống đã lỗi thời, chẳng hạn như các đảng, với những đảng viên, những nhà hoạt động xã hội, các ủy ban tổng thể, ủy ban thực thi và tất cả cấu trúc của các chiến dịch vận động chính trị thế kỷ XX. Có những sự thực hiển nhiên về các đảng phái chính trị chính ở Anh và các nơi khác đáng để phân tích. Chúng tôi có ít thành viên hơn số lượng NGO hoạt động ở địa phương, bắt rễ ở tận cấp cơ sở và chỉ giải quyết một vấn đề như các nhóm bảo vệ các loài chim, viện trợ, bảo tồn thiên nhiên và môi trường. Các cách thức chúng tôi tương tác với công chúng ủng hộ sẽ bị một chuỗi siêu thị hạng hai coi là cổ lỗ sĩ. Tình hình sử dụng công nghệ mới của chúng tôi thì thực là thảm hại – chiến dịch tranh cử của Obama rõ ràng là một đột phá, nhưng thực tế, ngay cả ở chiến dịch của Kerry năm 2004, Đảng Dân chủ Mỹ đã bỏ xa các đảng tiến bộ nhất ở châu Âu. Tôi cũng thường thảo luận với George Bush về cấu trúc chiến dịch tranh cử của ông ấy. Chiến dịch này đã được những chính trị gia nòng cốt của George như Karl Rove phát minh và đã mở ra một hướng đi mới trong việc tiếp cận và vận động những người ủng hộ đảng.

Tất cả những chiến dịch thành công hiện đại, bao gồm cả chiến dịch của Sarkozy ở Pháp năm 2007, đã tận dụng hiệu quả các phương thức hiện đại và theo tôi, điều đó có ý nghĩa quyết định, làm mờ ranh giới giữa những phần tử cốt lõi ủng hộ đảng – những nhà hoạt động xã hội – và sự ủng hộ của công chúng ở phạm vi rộng lớn hơn.

Tôi thường nói với những người thân tín của mình rằng: sau 10 năm có mặt trong Chính phủ, giờ đây chúng ta đang rơi xuống điểm thấp nhất, xét về mặt chính trị. Chúng tôi đã mất một lượng ủng hộ nhất định – đó là điều dễ thấy. Đó có thể là những người đã vội vàng đến với chúng tôi vì nhiệt tình, trước giai đoạn tháng 5 năm 1997, giờ rơi rụng đi. Nhưng hãy nghĩ về năm 2005: một chiến dịch tranh cử thực sự chông gai, chúng tôi vấp phải những làn sóng công kích khổng lồ, nhưng nhiều cử tri của Lao động mới vẫn trung thành với chúng tôi và ở một số ghế, chúng tôi đã tăng được đa số. Điều đó có nghĩa là, ở ngoài kia đúng là có những người ghét chúng tôi, nhưng cũng có những người rất mực gắn bó. Hơn thế nữa, nhóm sau này không đến với chúng tôi trong vội vã, vì nhiệt huyết tức thời, gia tăng rất nhanh về số lượng nhưng rồi cũng giảm rất mạnh, mà ngược lại họ là những tín đồ. Họ biết về những vấn đề còn tồn tại hay sai lầm, nhưng họ đã quyết định gắn bó với chúng tôi dù điều gì xảy ra.

Cứ cho là một số cử tri, có lẽ là nhiều người, hậu thuẫn chúng tôi bởi họ không muốn có sự lãnh đạo của Đảng Bảo thủ. Điều này cũng dễ hiểu thôi. Nhưng ngay cả khi chỉ có 1 trong 10 người là tín đồ thực sự (có lẽ thực tế tỉ lệ phải là 4 hay 5 phần 10), thì cũng đã có hơn 1 triệu người rồi. Giờ đó là một nền tảng chính trị. Chúng tôi có thể nhận diện họ. Một số là những chủ thể hưởng lợi mới trong Đảng Lao động mới. Họ có thể đến từ một “danh mục” hoàn toàn mới, những người mà nhờ các chính sách của chúng tôi, đang làm những công việc như điều phối thể thao, trợ giảng, chủ doanh nghiệp nhỏ hay những chuyên gia trong các ngành mới, những người đặt cược vào tầm nhìn về một nền kinh tế mới – những người theo trường phái “thân châu Âu”, những người ủng hộ chính sách ngoại giao can thiệp và những người tham gia vào các chiến dịch vận động ở cộng đồng địa phương về ngăn chặn các hành vi chống xã hội, v.v…

Nói theo cách khác thì bên cạnh những người bỏ chúng tôi mà đi, tôi có thể nhận thấy một số lượng khổng lồ tiềm năng những người ủng hộ chúng tôi, họ không mở cờ dong trống nhưng gắn bó với chúng tôi bởi một niềm tin vào một nền chính trị hiện đại và nền chính trị tiên tiến khác biệt. Đó là những người chúng tôi cần tham dự vào công việc của đảng, không phải vì lợi ích của họ mà vì lợi ích của chúng tôi. Trong dài hạn, sự thành công hay thất bại của việc ra quyết sách, chọn ứng cử viên tốt, áp lực thay đổi đến từ cấp dưới, đều phụ thuộc vào phẩm chất, tình cảm, bản năng và thái độ của những người tham gia trong đảng.

Tự hạn chế mình trong những chính sách lỗi thời hay những nền tảng nghiệp đoàn, chúng tôi sẽ có cấu trúc đảng này; mở rộng cánh cửa, để Đảng được hít thở bầu không khí tươi mới, được những tín đồ thực sự mang lại và chúng tôi sẽ có một đảng hoàn toàn khác, một đảng có khả năng quản trị đất nước trong những thời kỳ dài, một đảng với một liên minh ủng hộ sẽ duy trì được sự tồn tại của Chính phủ, một đảng sẽ ngăn chặn sự tái diễn của những sai lầm khiến nước Anh phải trải qua 18 năm lãnh đạo của Đảng Bảo thủ và chỉ có 19 năm lãnh đạo của Chính phủ Đảng Lao động, tính đến năm 1997, trong toàn bộ lịch sử của chúng tôi (5 năm trong số đó chúng tôi đã phải tồn tại trong liên minh yếu ớt với Đảng Tự Do).

Trong những chừng mực nhất định, đó là mô hình đảng mà tôi đã luôn thúc đẩy trong những năm qua, khi mở rộng cơ chế kết nạp thành viên trong khu vực bầu cử của tôi và khi chúng tôi thực hiện những cải cách về việc chọn lựa ứng viên tranh cử và lãnh đạo đảng. Giờ đây, công nghệ mới và các hình thức tranh cử mới là công cụ cho phép chúng tôi làm như vậy. Tầm nhìn của tôi là xóa bỏ những ý niệm thủ cựu về cấu trúc và cơ chế thành viên của đảng, đối đãi với những người ủng hộ mình như các thành viên trong những quyết định then chốt và không chỉ sử dụng công nghệ mới để phát triển và mở rộng một đội ngũ những người ủng hộ mới mà còn để hỗ trợ việc tương tác với những người ủng hộ và với chiến dịch tranh cử theo một cách thức khác.

Tôi nhận thấy rõ rằng, ngày nay, những người trong đảng sẽ không ủng hộ đảng vì những lý do giống nhau, hay có những lợi ích tương tự nhau, hoặc đều hào hứng với các chủ đề như nhau. Một số người có thể ủng hộ chúng tôi vì chính sách viện trợ châu Phi, những người khác thì vì cải cách dịch vụ y tế hay các chính sách điều chỉnh hành vi chống xã hội. Thanh niên sẽ có những mối quan tâm khác người cao tuổi. Việc họ sống trong cùng một khu vực địa lý có thể quan trọng trong một cuộc bầu cử cụ thể này hay trong các chiến dịch địa phương nào đó, nhưng thực ra yếu tố địa lý không có nhiều ý nghĩa.

Chúng tôi đã có một cơ hội lớn để tái xây dựng đảng theo hướng hiện đại. Ngoài ra, một số điều chỉnh chắc chắn sẽ xảy ra. Các nghiệp đoàn đã được sáp nhập. Cụ thể, sự kết hợp giữa TGWU và Amicus vào tháng 5 năm 2007 đã tạo ra một tổ chức khổng lồ có tên Unite. Trong tương lai, họ có thể có một nửa quyền bỏ phiếu ở đại hội đảng, cùng với Unison, nghiệp đoàn dịch vụ công. Các cấu trúc nghiệp đoàn vẫn còn khá sâu trong quá khứ. Các tổ chức này vẫn còn bị lũng đoạn bởi những nhà vận động xã hội. Sẽ không tốt cho đảng nếu lại phụ thuộc vào họ. Do đó, vì nhiều lý do, một số từ bên ngoài, một số ở bên trong, nhưng tất cả đều để phù hợp với một thế giới đang biến đổi – cải cách không chỉ hợp lý mà còn là điều cần thiết nếu chúng tôi muốn bảo tồn những lợi ích khổng lồ mà dự án Lao động mới mang lại.

Tôi có thể hình dung được những tranh luận trong đảng hiện nay sẽ đi về đâu. Cả Jon Cruddas và Douglas Alexander đã viết những cuốn pamfơlê. Jon đã tự giúp mình nổi tiếng nhờ cuốn sách này. Đó là một lập trường chính trị thông minh. Trong những phân tích chính trị tổng thể của ông – Lao động mới đã từ bỏ tầng lớp lao động và do đó từ bỏ nền tảng của chúng tôi – ông đã bổ sung một chương trình cho đảng. Tuy được khoác áo ngôn ngữ hiện đại, nhưng rốt cuộc cuốn sách này vẫn là nỗ lực xây dựng một liên minh cánh tả trong tầng lớp trí thức Guardian và những người vận động xã hội của nghiệp đoàn. Mặc dù vậy, nó khá hấp dẫn, ông ta đủ thông minh để khiến nó hấp dẫn, hâm nóng lại và cập nhật tư tưởng Tony Benn từ những năm 1980. Tư tưởng này có điểm hấp dẫn công chúng, nhưng không có triển vọng nghiêm túc nào có thể đạt được sự dung hòa, một khi những hạn chế chính sách của nó được phơi bày.

Douglas đã và luôn là một người thông minh. Tôi đã cố gắng thuyết phục ông từ bỏ phe Gordon, nhưng không thành. Đó là một điều đáng xấu hổ. Ông ấy và em gái Wendy, một người dễ thương và cũng rất thông minh, liêm chính, là một sản phẩm kinh điển của giáo hội Trưởng lão Scotland đầy khuôn phép. Cha của họ là một cha sứ và bản thân ông này cũng đầy tài năng. Douglas lọt vào tầm ngắm của Gordon trước khi ông là Nghị sỹ và ngay lập tức bị Gordon giành giật lấy. Ông ấy có khả năng dùng ngôn từ tuyệt vời, thực sự là một tri thức hạng nhất và đáng ra đã có thể (và có lẽ vẫn sẽ có thể) là một nhà lãnh đạo xuất chúng.

Nhưng “lời nguyền” của Gordon là biến những người này trở thành những người đồng mưu, chứ không phải là những nhà tư tưởng tự do. Douglas, Ed Balls và những người khác giống tôi những năm thập niên 1980, cho tới khi dần dần bức màn che phủ trước mắt tôi rơi xuống và tôi nhận ra nó giống một hệ thống thờ cúng tôn giáo hơn là nhà thờ chính thống.

Douglas đã viết quyển pamfơlê này với những phân tích rất tuyệt vời về những sai lầm, nhưng những giải pháp mà ông đưa ra theo tôi là để tránh những câu hỏi khó và sa vào một mớ lộn xộn.

Tôi đã bổ nhiệm Hazel Blears, với tư cách là chủ tịch đảng, phụ trách một ủy ban đổi mới đảng. Tôi biết Hazel ủng hộ tôi rất nhiệt tình. Cô ấy là một người vận động tranh cử tuyệt vời, một nhà hoạt động xã hội với những hiểu biết về hạn chế của các phong trào hoạt động xã hội. Tuy nhiên, dù cô ấy đã đấu tranh mạnh mẽ với những chính sách tuyệt vời, thì sự thực là Gordon kịch liệt phản đối việc vị lãnh đạo sắp ra đi quyết định tương lai của vị lãnh đạo sắp kế nhiệm. Điều này hoàn toàn có thể hiểu được trừ việc ông ấy không hề có tầm nhìn nào để thay thế, việc tôi vẫn luôn nói với ông ấy; và việc thiếu vắng một tầm nhìn rõ ràng sẽ chỉ khiến tổ chức đảng bị tụt lùi.

Trong tất cả những năm đã qua, chúng tôi đã nghĩ chúng tôi đã có những quan điểm hoàn toàn giống nhau về chính trị, đảng và cuộc đời, cho dù trên thực tế, chúng tôi có những cách nhìn khác nhau một chút ở một số điểm nhưng không phải không chia sẻ được. Có sự gắn kết đủ để cho phép cả hai chúng tôi lượng thứ cho nhau và vào lúc đó chúng tôi thừa nhận đó là sự lượng thứ, nó đã trở thành một phần trong ưu điểm độc đáo của đảng và việc từ bỏ nó là quá tai hại. Nhưng đó là điều hoang đường.

Tiến trình nghị sự chính sách diễn ra tốt hơn và cuối cùng đưa ra được một số kết luận và phân tích không tồi. Về an ninh, tội phạm và pháp lý, chương trình “Đường tới Tương lai” phác thảo những tiến bộ trong việc xử lý tội phạm và căn nguyên của nó, nhưng nêu bật tác động của sự thay đổi nhanh chóng đối với xã hội, đó là tác động lên tỉ lệ tội phạm, an ninh và sự cố kết cộng đồng. Tài liệu này cũng cho rằng tiến trình cải cách không ngừng cần căn cứ vào ba yếu tố chính: ngăn chặn hiệu quả hơn; phát hiện tội phạm và thi hành luật tốt hơn; đồng thời cải cách hệ thống pháp lý liên quan đến tội phạm bằng cách áp dụng các nguyên tắc cơ bản trong cải cách dịch vụ công.

Văn bản này cũng chỉ ra những thách thức mà nước Anh phải đối mặt trong một thế giới toàn cầu hóa nhanh chóng và làm thế nào để lợi ích của nước Anh được đảm bảo tốt nhất, cùng tồn tại với các giá trị tiến bộ chung, trong một thế giới mà các Chính phủ làm việc một cách hòa bình trong khuôn khổ luật pháp quốc tế. Nó cũng vạch ra cách để nước Anh vẫn duy trì ảnh hưởng và quyền lực, nhưng giờ đây phải sử dụng cả quyền lực cứng và mềm. Sẵn sàng can dự nếu cần thiết – sử dụng hành động quân sự khi phù hợp – nhưng cũng tiến hành các hành động toàn cầu để giải quyết các vấn đề như đói nghèo và biến đổi khí hậu; thừa nhận rằng chính sách đối ngoại của Anh được thúc đẩy bởi các giá trị – công lý và dân chủ – trong một thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Đảm bảo tất cả mọi người được tiếp cận với tiêu chuẩn sống bình đẳng và có những giá trị toàn cầu chung nhất định và thừa nhận biến đổi khí hậu đang là một vấn đề ngày một quan trọng và chỉ có thể xử lý thành công nếu hợp tác trên cấp độ toàn cầu.

Về gia đình, tài liệu này thừa nhận tầm quan trọng trong vai trò của các gia đình trong xã hội, dù cấu trúc của họ là gì. Chính phủ cũng thừa nhận rằng sự thành công của các gia đình không thể hiện ở diện mạo bên ngoài mà ở sự gắn kết giữa các thành viên sống trong đó và rằng Chính phủ vẫn còn có vai trò trong việc đảm bảo tất cả các gia đình được đối xử công bằng và được tiếp cận các lựa chọn giống như các gia đình khác. Tầm nhìn mà tài liệu này vạch ra là để: hỗ trợ các gia đình thực hiện quyền của mình, nhằm quản lý công việc của riêng họ trong khi sống đúng với trách nhiệm mà họ có; tạo ra sự cân bằng giữa công việc và gia đình bằng cách giúp những người sống nhờ phúc lợi sang làm việc kiếm sống, cải thiện chất lượng chăm sóc trẻ em và hỗ trợ sự gắn kết trong gia đình; và giải quyết vấn đề các gia đình bị tách biệt khỏi xã hội, bằng cách xử lý nguyên nhân và hậu quả của việc gia đình bị loại trừ khỏi xã hội, một vấn đề đã trở nên sâu sắc hiện nay.

Về vai trò của Nhà nước, tài liệu này giới thiệu ý tưởng một Nhà nước chiến lược và có quyền năng, để đối phó với sự phát triển không ngừng của các xu hướng trong nước và toàn cầu. Tài liệu vạch ra 6 đặc trưng chủ chốt của Nhà nước này: chú trọng mạnh mẽ vào kết quả; xử lý vấn đề thiếu an ninh; trao quyền cho người dân; quyền và nghĩa vụ; xây dựng lòng tin; và một trung tâm chiến lược nhỏ hơn.

Cuối cùng, tài liệu này kết hợp thách thức đôi là an ninh năng lượng và biến đổi khí hậu, vạch ra một khuôn khổ chính sách toàn diện để đạt được các mục tiêu của chúng tôi, bao gồm: thúc đẩy các thị trường năng lượng cạnh tranh; nỗ lực hướng tới một khuôn khổ quốc tế hậu 2012 mạnh; đặt giá carbon phản ánh thiệt hại nó mang lại; thúc đẩy việc chuyển sang phát triển các công nghệ mới thông qua các tiêu chuẩn chất lượng, các chương trình khuyến khích phát triển và hỗ trợ; dỡ bỏ các rào cản đối với việc thay đổi hành vi, sự lựa chọn và đầu tư; và đảm bảo rằng Vương quốc Anh và các nước khác có thể thích nghi với những tác động của biến đổi khí hậu.

Quả thực, chúng tôi đơn giản là đưa ra tất cả các yếu tố này và thúc đẩy thực hiện chúng, tôi nghĩ chúng sẽ phát triển thành một chương trình nghị sự t