← Quay lại trang sách

Tái Bút.

Thuật ngữ “phương Tây” là một khái niệm hơi cũ, gợi nhớ lại những ngày thế giới còn bị chia cắt bởi Chủ nghĩa Cộng sản, nhưng lại là từ viết tắt cho kiểu quốc gia của “chúng tôi”: mở cửa, dân chủ, kiên định với kinh tế thị trường, tự tin về quân sự (tất nhiên là từ sau khi bức tường Berlin sụp đổ) và được dẫn dắt bởi một siêu cường duy nhất, nước Mỹ. Trong hầu hết 20 năm sau thời điểm 1989, phương Tây đặt ra chương trình nghị sự để các nước khác xem xét. Một số người ủng hộ chúng tôi và số khác thì phản đối, nhưng dường như chúng tôi là người chọn hướng đi cho toàn cầu, điểm đến của hành trình lịch sử thế giới.

Đúng là, những vết rạn nứt nhất định trong dinh thự đó đã bắt đầu xuất hiện. Thậm chí còn có cả những lỗ hổng kỳ quái trong những căn nhà phụ. Những lực lượng mới đang bận rộn xây cất thứ gì đó khác, không xa so với chỗ chúng tôi ở. Nhưng mô hình của chúng tôi vẫn thể hiện rõ vai trò của nó và thu hút được sự quan tâm. Tình hình cơ bản là vậy vào tháng 6 năm 2007 khi tôi rời nhiệm sở.

Ba năm sau đó đã chứng kiến một tiến trình giống như một cuộc cách mạng trong trật tự rõ ràng không thể bác bỏ. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã làm đổ vỡ một phần lòng tin vào sự đúng đắn của nền kinh tế thị trường. Chiến tranh ở Afghanistan vẫn còn treo lơ lửng. Tổng thống Obama, như chúng tôi năm 1997, đã đối mặt với những lựa chọn khó khăn của Chính phủ. Sự nổi lên của Trung Quốc đã trở thành một thực tại, hữu hình và sống động, một thực tế, không còn là một phỏng đoán trí tuệ thú vị. Quyền lực đang chuyển về phía đông. Những nước khác như Brazil và Thổ Nhĩ Kỳ cũng trưởng thành một cách tự tin, không còn phải xin phép để được góp mặt mà đã đương nhiên có vai trò trên trường quốc tế. Liên minh châu Âu đang gặp nhiều vấn đề và như một ngoại lệ, “khủng hoảng” thế giới không phải là cường điệu mà miêu tả đúng sự thực. Chúng tôi, các nước phương Tây vẫn giữ được nền dân chủ, nhưng chưa bao giờ chúng tôi ít kính trọng những người chúng tôi bầu ra như thế.

Chúng tôi đã nghĩ rằng, tất yếu, cách sống của chúng tôi cuối cùng sẽ giành chiến thắng. Giờ đây điều tất yếu đó đã bị phủ bóng. Lòng tin của chúng tôi giảm sút và sự tự tin đang lung lay. Hầu như lúc nào chúng tôi cũng cảm thấy yếu kém và đôi khi còn mệt mỏi. Chúng tôi từng nắm rất chắc tương lai của mình, nhưng dường như giờ đây sự kiểm soát đã trở nên lỏng lẻo hơn, để đi tìm những bậc thầy mới. Phần lớn các báo đài chỉ nói về: tình trạng bất ổn, sự sụt giảm, sự bất lực, những thách thức không được thỏa mãn, những lời hứa không được thực hiện.

Về cá nhân, tôi chưa bao giờ cảm thấy thất vọng hơn hay bị thôi thúc hơn đối với việc lãnh đạo. Tôi thích cuộc sống mới của mình hơn cuộc sống cũ rất nhiều và tìm thấy trong đó một mục đích lớn lao. Tôi đang chiến đấu vì quan điểm thế giới của tôi, nhưng theo một cách hoàn toàn khác khi còn ở trong văn phòng truyền thống. Tôi cố gắng tích lũy được những kiến thức rộng lớn hơn và sâu hơn về thế giới. Trung Quốc không còn là một bí ẩn, cho dù điều đó mới chỉ là một quan điểm có tính tương đối. Trung Đông vẫn luôn là khu vực hấp dẫn và đáng sợ. Tôi nhìn nhận nền kinh tế từ một tầm nhìn rộng hơn và khác biệt trong kinh doanh. Trong hai lĩnh vực chính mà tôi quan tâm – châu Phi và tín ngưỡng – tôi cảm thấy hoàn toàn hài lòng về mặt tâm linh và chính trị.

Tôi đang sống hết mình, nhưng cũng nhận thấy thế giới cũ của mình đang ở trong trạng thái tuyệt vọng và cảm thấy vừa sốc vừa kích động về điều này. Có lẽ đó là vì tôi đã rời khỏi nó và do đó nghĩ mình có thể nhìn nhận về nó rõ ràng hơn. (Điều này có thể là một ảo tưởng). Có lẽ đó là vì một số đảo lộn diễn ra theo chiều hướng đúng như tôi đã trình bày khi tại nhiệm: chính sách kinh tế tự do, cải cách thị trường về dịch vụ công và phúc lợi xã hội, can dự và can thiệp ở nước ngoài. Vì bất cứ lý do gì, chương mà tôi định viết như một lời tái bút này sẽ giống với một cương lĩnh hơn.

Tựu chung lại tôi rất không đồng tình với phần quan trọng của thuyết quyền lực Nhà nước, phản ứng theo trường phái Keynes trước khủng hoảng kinh tế; tôi tin rằng chúng tôi thể hiện sức mạnh và sự kiên định của mình ở nước ngoài, chứ không phải là sự yếu đuối hay thiếu chắc chắn, tôi nghĩ bây giờ là thời điểm Chính phủ tăng cường cải cách chứ không phải giảm đi; và tôi tin chúng tôi đang có cơ hội lớn để cạnh tranh với các thế lực đã và đang trỗi dậy mới của thế giới, đặc biệt là Trung Quốc, nếu chúng tôi thực hiện nhiệm vụ đó với niềm tin chứ không phải là sự sợ hãi. Nói ngắn gọn, chúng tôi đã trở nên quá yếu đuối, mong manh, rụt rè, luôn cảm thấy hối tiếc, đầy hoài nghi và hành động nửa vời. Lối sống của chúng tôi, các giá trị của chúng tôi, những điều khiến chúng tôi trở nên tuyệt vời, vẫn còn tồn tại, không đơn giản là di sản của chúng tôi với tư cách là một dân tộc, mà còn là sự báo hiệu cho tiến bộ của nhân loại. Các giá trị đó không phải là di sản của một nền chính trị hùng mạnh một thời; chúng là tinh thần còn sống mãi trong quan điểm lạc quan về lịch sử loài người. Tất cả những điều chúng ta cần là hiểu rằng chúng có thể được tái áp dụng trong những tình hình mới, mà không bị vứt bỏ như một vật dụng thừa.

Khủng hoảng tài chính năm 2008 vẫn tiếp tục phát huy tác động sâu và rộng của nó. Có lẽ nó sẽ in dấu trong lịch sử như một biến cố kinh tế quan trọng nhất kể từ những năm 1930. Chúng ta đã biết rõ những điều xảy ra và không cần phải nhắc lại nữa, tuy nhiên việc diễn giải chúng đang và cần là một vấn đề được đề cập tới trong các cuộc tranh luận lớn.

Giờ đây, xuất hiện trong hầu như tất cả các bi kịch, là lời khuyên truyền thống để chống lại thách thức. Đã có sự thất bại thảm khốc của “thị trường”, cần có sự cứu trợ của “Chính phủ” và sự phục hồi của hệ thống tiền tệ kiểu Keynes để chống giảm phát. Vào cuối năm 2008, các ngân hàng đã ổn định trở lại nhờ sự trợ giúp của Chính phủ, các hệ thống điều tiết bắt đầu được cải tổ để đưa ngành tài chính nổi loạn vào khuôn khổ; chi tiêu vượt doanh thu trở thành một chính sách kinh tế.

Về chính trị, đột nhiên Nhà nước rơi trở lại vào trạng thái báo động. Những cải cách được dẫn dắt bởi thị trường những năm 1980 và 1990 có vẻ như sai lầm. Tăng trưởng kinh tế bị xem là ảo vì dựa trên vốn vay nợ. Hơn hết, Chính phủ trở nên có uy lực hơn. Bạn có thể bắt gặp hiện tượng Schadenfreude, vui sướng trên sự đau khổ của người khác trong phần lớn ý kiến của các học giả và chính trị rằng, “thị trường” quá dễ bị tổn thương do bị tước hết quần áo.

Điều này khiến các chính trị gia tiến bộ, đặc biệt là cánh tả, quả quyết rằng chính trị đang trải qua sự thay đổi triệt để về định hướng, theo lập trường can thiệp và tăng cường vai trò của Nhà nước. Điều này có vẻ như phù hợp với những thay đổi trạng thái ở Mỹ (cho dù việc bổ nhiệm một số vị trí then chốt về kinh tế thực ra rất ôn hòa. Nó đánh dấu sự kết thúc của một kỷ nguyên bắt đầu từ 30 năm trước với triết lý chính trị và kinh tế Thatcher/Reagan.

Gỡ rối tất cả vấn đề này và đưa chúng vào khuôn khổ một phần nào đó là một nhiệm vụ khổng lồ. Nó cũng khó khăn hơn các nhiệm vụ khác rất nhiều, bởi nếu thách thức bất kỳ phần nào của vấn đề, chúng ta sẽ bị chỉ trích khá gay gắt, vì đó là những tư tưởng truyền thống đã ăn sâu bám rễ. Nhưng chúng ta cần khẩn trương tháo gỡ nó, đồng thời đi đến một quan điểm đúng đắn và xác đáng hơn.

Đầu tiên, “thị trường” không thất bại. Chỉ một phần trong đó mà thôi. Phần đó là các khoản vay dưới chuẩn bị chứng khoán hóa, cắt nhỏ, nhào nặn và bán trên thị trường mà không được trải qua quá trình đánh giá thực sự về các rủi ro tiềm ẩn hay các giá trị sai. Đó là sự vô trách nhiệm và gây ra những thiệt hại khổng lồ.

Những phần thưởng, những khoản lợi nhuận kếch sù thu được từ việc bán đi bán lại chứng khoán không chỉ xấu xa một cách hiện hữu mà còn không thể bào chữa được và tệ nhất là tạo ra thói quen “cứ làm đi” bất kể tác dụng dài hạn của việc đó là gì và góp phần tạo ra khủng hoảng. Tất cả điều này đều đúng và cần được điều chỉnh. Mặc dù vậy, những thực tiễn đó không định nghĩa hay đại diện cho toàn bộ ngành ngân hàng, chưa nói tới toàn bộ ngành tài chính, chưa nói tới thị trường.

Thứ hai, Chính phủ cũng sai lầm. Các quy định điều chỉnh sai lầm, các chính trị gia sai lầm, chính sách tiền tệ sai lầm. Các khoản tín dụng đã quá rẻ. Nhưng đó không phải là lỗi của ngân hàng, đó là hệ quả của sự kết hợp tưởng chừng như hoàn toàn vô hại giữa chính sách tiền tệ lỏng lẻo và lạm phát thấp.

Trách nhiệm gây ra cuộc khủng hoảng cần phải được chia sẻ. Nó không chỉ là của riêng thị trường, thậm chí không chỉ là của riêng ngành ngân hàng.

Thứ ba, thất bại ở chỗ thiếu hiểu biết. Chúng ta đã không phát hiện được khủng hoảng. Bạn có thể lập luận rằng, chúng ta đáng ra phải biết, nhưng thực tế thì không. Hơn thế, đó không phải là do các quy định điều tiết thiếu sót, theo nghĩa là chúng ta (tức Chính phủ) thiếu quyền can thiệp và không phải chúng ta không có quyền lực để ngăn chặn khủng hoảng cho dù chúng ta biết chúng sắp tới. Đây chính là điều sống còn để xác định các quy định điều tiết sẽ đi về đâu. Nếu các nhà điều tiết có nói với các nhà lãnh đạo rằng một cuộc khủng hoảng khổng lồ sắp nổ ra, chúng tôi (tức các nhà lãnh đạo) sẽ không nói: chúng ta chẳng thể làm gì cho tới khi có thêm quy định điều tiết. Chúng tôi sẽ hành động. Nhưng các nhà điều tiết đã không nói gì cả.

Thứ tư, những sáng tạo trong ngành tài chính trên thực tế hoàn toàn không tệ. Thực ra, nó luôn tốt; nó tăng tính thanh khoản và thúc đẩy hoạt động kinh tế. Nguy cơ của sáng tạo là những hệ quả mà chúng ta không hiểu và có những tác động không thể kiểm soát.

Thứ năm, khi một cuộc khủng hoảng nổ ra − và tôi ngờ rằng điều này có thể đúng trong bất kỳ cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nào ngày nay − hậu quả của nó sẽ lớn hơn trước nhiều lần, do tính tương tác và phụ thuộc cực điểm của nền kinh tế toàn cầu hiện đại. Nó tạo ra tác động tự thân, rồi tác động đó bị nhân lên qua một thế lực khó nắm bắt nhưng đầy quyền năng, đó là lòng tin.

Tôi không nói về lòng tin hão huyền không kết nối với thực tiễn. Những tính toán số học, về bản chất, quyết định nền tảng cơ bản cho lòng tin. Nhưng lòng tin bắt nguồn từ tâm lý xử lý số liệu (số học) và phụ thuộc rất lớn vào chính trị. Sự cân bằng xoay quanh sự tương tác giữa số học, tâm lý và chính trị. Do đó, số học vẫn còn không chắc chắn, chính trị không rõ ràng, tâm lý do đó có vấn đề và vì thế lòng tin bị xói mòn.

Khi nói chúng ta phải gỡ rối những lí luận truyền thống, ý tôi là: việc Nhà nước can thiệp vào thời điểm đầu của cuộc khủng hoảng là đúng. Nếu không làm vậy, chúng ta sẽ quá mù mờ về tư tưởng và xuẩn ngốc về thực tiễn. Nhưng sai lầm ở chỗ chúng ta đã theo đuổi một gói biện pháp bao gồm: bội chi ngân sách, điều tiết thị trường một cách hà khắc, coi các ngân hàng là tội đồ và vứt bỏ khả năng tái phát minh để ưu ái khả năng phục hồi của Chính phủ.

Điều thú vị và có lẽ dự đoán được là công chúng còn hiểu điều này hơn nhiều chính trị gia và các nhà phê bình. Và đó là lý do tại sao nhiều chính sách tả khuynh không được hiện thực hóa. Công chúng hoàn toàn hiểu sự khác biệt giữa việc Nhà nước bị buộc phải can thiệp để ổn định thị trường với việc Chính phủ đã trở lại như một “diễn viên chính” trong nền kinh tế chung. Vai trò của Chính phủ là ổn định tình hình, sau đó phải rút ra thật nhanh và hợp lý về mặt kinh tế. Xét cho cùng thì tiến trình phục hồi sẽ không được dẫn dắt bởi các Chính phủ, mà bởi các ngành, sự sáng tạo, trí tuệ và các doanh nghiệp. Nếu các biện pháp bạn tiến hành để đối phó với khủng hoảng làm giảm động lực của họ, hạn chế khả năng lãnh đạo, khiến họ cảm thấy bất an về môi trường họ đang hoạt động thì tiến trình phục hồi trở nên không chắc chắn.

Điều này còn đúng hơn với ngành tài chính, cho dù có vẻ khá dị biệt. Dĩ nhiên nên có cải cách các quy định điều tiết, nhưng trên hết nên có các hệ thống giám sát ở cấp quốc gia và toàn cầu. Các hệ thống đó sẽ giúp chúng ta có thể hiểu thế giới tài chính mới này và dõi theo nó, để can thiệp khi nguy cơ lỗi hệ thống xảy ra. Điều không nên làm là dốc toàn lực dự đoán mọi cuộc khủng hoảng tiềm tàng, xây dựng trước những quy định hà khắc để ngăn ngừa chúng. Làm theo cách đó chúng ta có nguy cơ khiến hệ thống tài chính trở nên mệt mỏi, vắt kiệt phát minh sáng tạo, cố gắng đưa ngành tài chính trở lại với thế giới của năm ngoái, điều vừa không hợp lý vừa không hiệu quả về kinh tế.

Kết quả của việc này là do ngân hàng hoạt động ít đi, Nhà nước phải hành động nhiều lên. Hiện tại chúng ta đã đi từ chỗ cho vay vô trách nhiệm đến một tình trạng cực đoan khác là từ chối cấp tín dụng cho ngay cả các doanh nghiệp và khách hàng đáng tin cậy. Các dạng hoán đổi khả năng vỡ nợ tín dụng và chứng khoán phái sinh bản thân không phải là xấu. Ngược lại, nếu sử dụng và hiểu chúng thích đáng, chúng có thể vô cùng hữu dụng. Do đó hiểu chúng, giám sát và điều chỉnh chúng khi cần thiết, nhưng đối xử với chúng như chúng là hệ quả của sự tham lam. Hãy xem chúng đúng như bản chất, tức là các công cụ tài chính mới cần cẩn trọng khi sử dụng.

Tôi thiên về hướng tiếp cận các quy định điều tiết thị trường một cách thận trọng, không phải không cho ngành tài chính có quyền sửa sai vì họ là người mắc sai lầm, mà phải xem ngành tài chính là đối tác trong nỗ lực đạt được sự cân bằng giữa giám sát và điều tiết, hành động toàn cầu và hành động quốc gia, giảm rủi ro trong khi vẫn mở đường cho sáng tạo.

Còn bản thân Nhà nước và vai trò của Chính phủ cũng nên được xem là vật chất thích hợp cho cải cách. Vai trò của Chính phủ chính là một phần của vấn đề chứ không chỉ là một phần giải pháp.

Thực tế là những lo lắng về nền kinh tế đã chuyển từ hoạt động của ngành ngân hàng sang nợ Chính phủ. Do đó sẽ thực sự xuẩn ngốc khi lờ đi trách nhiệm của Chính phủ và Nhà nước đối với những gì đã xảy ra.

Khủng hoảng ở khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone) không tạo ra các vấn đề nợ Chính phủ; nó chỉ phơi bày các vấn đề đó ra ánh sáng.

Sự thật là sau một khoảng thời gian, thế giới phát triển đã thay đổi − nhưng còn rất miễn cưỡng − để hướng tới cải cách chế độ an sinh xã hội, dịch vụ công và các tổ chức Chính phủ. Dân số già đi, tốc độ sinh giảm, kì vọng lớn hơn và sự thay đổi điều kiện xã hội đang thách thức chúng ta một cách dai dẳng chưa từng thấy, trong nhiều thập kỷ. Khủng hoảng kinh tế đáng ra (và giờ đây vẫn có thể) là một khoảnh khắc mà thay vì lười nhác đưa ra một ý tưởng tăng chi tiêu Nhà nước, khoác áo một gói kích thích tài khóa và cho đó là giải pháp duy nhất cho vấn đề, chúng ta hãy tận dụng cơ hội để đẩy nhanh và đào sâu cải cách.

Tìm kiếm giá trị của tiền trong các dịch vụ như chăm sóc sức khỏe, mở cửa cho cạnh tranh trong các lĩnh vực như giáo dục, cải cách mạnh mẽ chế độ an sinh xã hội, để nó trở thành một mạng lưới thực sự an toàn cho những người cần nó và giúp những người có thể và cần “đứng trên đôi chân của mình” thành công hơn. Bên cạnh đó, ở mọi khía cạnh, cần biết đặt câu hỏi và tái đánh giá thay đổi. Nhưng không phải vì thế mà từ bỏ đoàn kết xã hội mà trái lại phải làm sao để đoàn kết hiệu quả hơn trong một thế giới đã biến đổi. Đó là điều chúng ta phải cổ vũ với tư cách những người tiến bộ và phải quán triệt với tư cách là các dân tộc.

Giờ hãy xem xét hai ví dụ: chi tiêu và lương hưu. Với ví dụ đầu tiên, không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta sẽ có thể nhận được giá trị tốt hơn nhiều, nếu chúng ta có thể chấp nhận thực tiễn là khu vực tư nhân đã được xem là chân lí bấy lâu nay. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn lúng túng và chưa hiểu rõ sự khác biệt về phạm vi và mục đích giữa dịch vụ công và dịch vụ tư. Thế là, chúng ta làm những việc giống nhau đối với cả khu vực tư và khu vực công, khiến các việc này vừa hiệu quả vừa thiếu hiệu quả. Việc chi tiêu trong 10 năm tôi tại nhiệm đã tiến được một bước dài, nhưng vẫn chưa tới gần được nơi cần đến và có thể đến.

Trong lĩnh vực lương hưu, tôi ủng hộ việc liên kết giữa thu nhập và lương hưu bởi sự đóng góp của Quĩ bảo hiểm quốc gia. Nhưng là một xã hội, chúng ta cần tự hỏi nghỉ hưu giờ đây thực sự là gì?

Trong thế giới phát triển của chúng tôi, mọi người vẫn còn sung sức vào độ tuổi cuối sáu mươi và còn hơn thế. Có thể tôi là một ngoại lệ, nhưng tôi sẽ xem ý tưởng ngừng làm việc ở tuổi 60 là gàn dở; và thực tế là kinh khủng. Giờ đây chúng ta có thể đổi hộp số, thậm chí thay đổi việc làm, do đó chẳng có nghĩa lí gì khi phân tích thế giới qua con mắt của ông tôi.

Tôi đã nhận ra từng bước một con đường hướng tới một mô hình Nhà nước mới và các dịch vụ mà Nhà nước cung cấp, biết được công nghệ có thể giúp tiết kiệm tiền ra sao thông qua các cách thức làm việc mới; sư linh hoạt trong ranh giới nghề nghiệp, việc thuê ngoài. Nhưng cuộc khủng hoảng đã làm nảy sinh yêu cầu phải đẩy nhanh tiến trình này.

Vấn đề liên quan mà tôi nghĩ đến là bội chi ngân sách. Một lần nữa tôi muốn nói rằng không nghi ngờ gì về việc các Chính phủ cần kích thích nhu cầu nội địa khi kinh tế suy giảm sâu và khủng hoảng tín dụng xảy ra năm 2009. Mặc dù vậy, có hai phẩm chất quan trọng cần có trong hành động này. Đầu tiên là khi tiến hành phân tích lịch sử về các gói kích thích kinh tế, tôi nghĩ chúng ta sẽ nhận thấy chính các biện pháp cụ thể và có mục tiêu rõ ràng nhất, chẳng hạn như các biện pháp kích thích ngành ô tô, lại là các biện pháp hiệu quả nhất.

Thứ hai là việc triển khai các gói chi tiêu đó cần phải được tính toán vô cùng cẩn trọng trong thực trạng kinh tế toàn cầu năm 2010.

Keynes là một nhân vật kiệt xuất, một nhà tư tưởng cách mạng, một ví dụ hiếm hoi của một trí tuệ lỗi lạc, một người có thể đưa ra những lời khuyên thực tế. Tôi cược là ông ấy sẽ rất ngạc nhiên khi biết lý thuyết của mình đã được vận dụng như thế nào ngày nay.

Vào những năm 1930, chi tiêu công đã chiếm 26% GDP ở Vương quốc Anh và 19% GDP ở Mỹ. Năm 1950, sau một cuộc chiến tranh thế giới, tỷ lệ này là 34% và 24%. Hiện nay, con số này là 47% và 45%.

Dĩ nhiên là cần phải có một gói kích thích tài khóa do nhu cầu giảm mạnh năm 2009. Phân tích của Keynes là Nhà nước nên hành động để thúc đẩy nhu cầu, nếu hệ quả của sự suy giảm là một vòng xoáy đi xuống của tăng trưởng thu hẹp, chi tiêu bị cắt giảm và cứ như thế tăng trưởng cứ giảm đi còn cắt giảm cứ tăng lên. Nhưng chúng ta không bao giờ biết rõ tác động của năm 2008 sẽ là sự suy giảm dữ dội tăng trưởng trong nhiều năm. Bản thân sự suy giảm đó một phần là do sự suy sụp về tâm lý của thị trường sau vụ Lehmans, dẫn tới sự sụp đổ lòng tin, khiến mọi người quay lưng lại với thị trường, hủy các vụ đầu tư và rút lui vào “hầm trú ẩn”. Điều tôi nhận ra trong giai đoạn 2008-2009 là ngay cả những người có tiền cũng hoãn đầu tư. Khi thị trường ổn định, họ sẽ ra khỏi “hầm trú ẩn” và đầu tư trở lại. Vậy lúc này nếu Chính phủ không xử lý thâm hụt ngân sách, những người đóng thuế sẽ phải trả giá. Do đó, người dân sợ rằng, thâm hụt lớn sẽ dẫn tới “sưu cao thuế nặng” trong tương lai, vì thế họ suy giảm lòng tin, giảm đầu tư và giảm sức mua. Điều này cũng làm tăng nguy cơ suy thoái kéo dài. Vì vậy, việc tiến hành cẩn trọng hoạt động củng cố tài khóa là điều xác đáng.

Tôi hoàn toàn nhất trí rằng sẽ sai lầm khi rút ngay các gói kích thích tài khóa. Đây là đánh giá liên quan tới đúng - sai, không phải liên quan tới cánh tả - cánh hữu. Cần phải cân bằng những tác động đối nghịch của giảm thâm hụt: nhu cầu về tổng thể giảm bởi sự sụt giảm trong chi tiêu của Chính phủ; mặt khác, lòng tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp tăng do thâm hụt đã được kiềm chế. Đây là điều cần phải nghiên cứu thêm. Nhưng nếu chúng ta không đưa ra một đường lối thuyết phục để thoát khỏi tình trạng nợ nần, thì chính sự thất bại của kinh tế toàn cầu năm 2010, trái với những năm 1930, sẽ khiến chúng ta rơi vào một giai đoạn trì trệ kéo dài.

Ngày nay, một khác biệt lớn nữa là vị thế của các nền kinh tế đang trỗi dậy. Họ hoàn toàn là một phương diện mới. Họ cũng mong manh và dễ tổn thương, nhưng về cơ bản, họ không ngừng nỗ lực đi lên. Trớ trêu là, họ sẽ tiếp tục theo đuổi tự do hóa chính ở điểm mà chúng ta dường như đã đánh mất lòng tin.

Họ có nguy cơ không thực hiện được kế hoạch cải cách riêng của Chính phủ của họ (chẳng hạn như Ấn Độ) và/hoặc điều chỉnh thị trường, vì lợi ích của nó, thông qua các chính sách làm trì trệ tăng trưởng. Xem xét trường hợp của châu Âu tôi thấy, điều châu lục này cần là một gói các biện pháp: một kế hoạch giảm thâm hụt được tính toán cẩn thận; cải cách về cơ bản mô hình xã hội châu Âu, một nhu cầu được nêu bật bởi khủng hoảng chứ không phải do khủng hoảng tạo ra; các quy định điều tiết thị trường giám sát các rủi ro có tính hệ thống nhưng không hạn chế phát minh, sáng tạo và kìm hãm doanh nghiệp; và đối với khu vực Eurozone, luôn cần có sự phối hợp về tài khóa, chẳng hạn như một chính sách tiền tệ chung.

Nhưng đó là một gói các biện pháp. Chỉ thực hiện một phần này và không thực hiện phần khác của gói đó, chúng ta có nguy cơ đối mặt với một cuộc khủng hoảng tồi tệ hơn. Cụ thể là giảm thâm hụt và giảm các công cụ kích thích kinh tế, hay các cải cách cơ cấu chưa thực sự đúng đắn và sự thiếu cân bằng trong các biện pháp triển khai sẽ khiến gói này thất bại, hay chí ít là làm giảm đáng kể hiệu quả của nó. Hãy xem vấn đề của Hy Lạp hay Tây Ban Nha. Nếu họ có và tôi hi vọng họ có, các chính sách đáng tin cậy để giải quyết thâm hụt và sau đó là cải thiện tình hình tài chính của các ngân hàng có liên quan tới thâm hụt, đồng euro sẽ được bình ổn với các biện pháp cải cách trên diện rộng. Thị trường sẽ phục hồi và các cải cách, điều luôn cần thiết trong bất kỳ sự kiện nào, sẽ giúp cả hai nước nâng cao được năng lực cạnh tranh. Kết quả thu được sẽ không thay đổi các nền tảng cơ bản của nền kinh tế đã được phương Tây phát triển trong nhiều thập kỷ, nó chỉ góp phần điều chỉnh và cải cách các nền tảng này, để chúng làm việc hiệu quả hơn.

Nhận định này ngày càng có sức thuyết phục khi những nền kinh tế mới ngày càng có vị thế cao hơn trên trường quốc tế đang thực thi chính xác điều này. Họ theo đuổi chính sách kinh tế mở cửa hơn và nếu không làm như vậy họ sẽ bước đi những bước loạng choạng.

Trung Quốc đang mở cửa và phát triển bùng nổ nhờ làm như vậy. Ấn Độ cần giảm bộ máy hành chính và quyền lực Nhà nước, không phải là tăng. Sự thành công của tổng thống Lula ở Brazil một phần là vì ông tiếp tục thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô chống lạm phát của người tiền nhiệm Fernando Cadoso. Các nền kinh tế ở Trung Đông, như Ả Rập Xê Út, hiện nay đang chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh và dỡ bỏ các rào cản cho doanh nghiệp, chứ không phải xây dựng các rào cản này. Sẽ rất kỳ cục và xuẩn ngốc nếu chúng ta đi theo hướng ngược lại.

Mặc dù vậy, chúng ta có thể phục hồi lòng tin đối với nền kinh tế nhanh hơn lòng tin đối với an ninh. Tôi đã đưa ra những luận giải của tôi về vấn đề Iraq, vì sao nó xảy ra, điều gì đã sai và tại sao tôi vẫn tin rằng quyết định của mình là đúng. Giờ đây vấn đề Afghanistan cũng đang treo lơ lửng. Giống như ở Iraq, chúng tôi đã lật đổ chế độ bị ghét bỏ và làm vậy với những mục đích tốt. Công dân của quốc gia đó có vẻ như cũng có ý định đó, nhưng chúng tôi đã bị những người có ý định đối lập phản đối. Qua thời gian, vấn đề bị ngừng trệ do người ta tranh luận về việc ai đúng, ai sai và kết quả là chúng tôi rõ ràng không có khả năng đánh bại các lực lượng chống phá và giành được “thắng lợi” cuối cùng. Do đó, đồng minh của chúng tôi nản lòng, người dân của chúng tôi mất lòng tin và chúng tôi tự hỏi: “Khi nào và làm thế nào mọi việc sẽ kết thúc”.

Đây là một bức tranh có thể thay đổi nhanh chóng; và trong mỗi cuộc đấu tranh chính trị hay quân sự, tình hình có thể diễn biến khác đi mỗi tháng, thậm chí là mỗi tuần. Do đó, thử dừng lại và tìm hiểu rõ ràng bức tranh đó là một khó khăn ghê gớm. Tôi sẽ quay về các nguyên tắc cơ bản đầu tiên và cố gắng diễn giải nó thật đơn giản, thậm chí là sơ lược.

Bản chất của nguy cơ là gì? Nó không bắt nguồn từ những gì chúng tôi đã làm; phương Tây rõ ràng là không cố tình đối đầu. Đây là nền tảng quan trọng đầu tiên trong lập luận này. Nhưng cuộc tấn công 11/9 là một cú sốc lớn mà người dân của chúng tôi chưa từng thấy. Những quốc gia như Mỹ và Anh đã không đối xử không công bằng với đạo Hồi. Nhưng khi Hồi giáo mắc kẹt trong chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chống lại những người có chủng tộc và màu da khác nhau, thì thái độ trên đã trở nên lỗi thời.

Chủ nghĩa cực đoan mà chúng ta e sợ là một vết nhơ trong thế giới Hồi giáo. Nó hoàn toàn tương phản với giáo lý đúng đắn của đạo Hồi. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng hành động của những kẻ cực đoan có liên hệ với tôn giáo của họ. Tôi cảm thấy, chúng ta luôn tránh né nhận định này, như thể nó sẽ làm xấu mặt cả thế giới Hồi giáo. Nhưng nếu điều đó đúng − và sự thực là như vậy − thì đó là vấn đề cần phải đối mặt, không chỉ bởi vì nó đúng mà bởi nếu không làm thế, chúng ta sẽ không phân tích được vấn đề và tìm ra giải pháp hợp lý. Nếu đó là vết nhơ trong đạo Hồi, thì câu trả lời phần nào cũng nằm trong đạo Hồi, việc xóa bỏ vết nhơ đó có thể chịu tác động của những người ở ngoài thế giới Hồi giáo như chúng tôi, nhưng nó chỉ có thể được loại bỏ bởi những người Hồi giáo.

Vấn đề lớn nhất là, một cách tự nhiên, chúng ta có xu hướng tin rằng cách tốt nhất để trao quyền cho những người trong thế giới Hồi giáo trấn áp phần tử cực đoan là xích lại gần và tìm tiếng nói chung với những người này. Hãy để tôi giải thích ý của tôi trong vấn đề này, bởi nó là cội rễ của thế tiến thoái lưỡng nan trong chính sách của chúng tôi hiện nay.

Lý luận truyền thống cho rằng lập trường của Bush/Blair là sai bởi đó là lập trường đối đầu trong khi chúng tôi đúng ra phải hòa thuận và cởi mở. Nhiều người chấp nhận rằng xung đột ở Afghanistan là hợp lý, nhưng ở Iraq thì không. Do đó, vấn đề Iraq “tạo ra” sự chia cách giữa phương Tây và thế giới Hồi giáo. Chính điều này khiến các đồng minh của chúng tôi gặp nhiều khó khăn hơn trong việc thu hút sự ủng hộ trong nội bộ thế giới Hồi giáo để trấn áp phần tử cực đoan. Tương tự như vậy, chính sách đối với Israel bị xem là phiến diện và củng cố lập trường rằng phương Tây rõ ràng là thù địch với Hồi giáo. Quan điểm về sự hắt hủi của Liên minh châu Âu với Thổ Nhĩ Kỳ cũng có nguồn gốc tương tự như vậy.

Bài phát biểu xuất sắc của tổng thống Obama ở Cairo vào tháng 6 năm 2009 đã mở ra khả năng cùng tồn tại hòa bình, đánh dấu một hướng tiếp cận mới và nếu ông Obama có được sự hỗ trợ và hợp tác cần thiết, đó sẽ là một phương hướng có thể kết hợp hiệu quả cả quyền lực cứng và quyền lực mềm. Tuy vẫn giữ lập trường cứng rắn ở Afghanistan, nhưng ông đã cởi mở và mềm mỏng hơn ở Cairo. Bài phát biểu này đã được tính toán cẩn thận. Bàn tay bằng hữu đã được chìa ra, ngay cả đối với Syria và Iran. Trong một chừng mực nào đó, nó giống một lời tạ lỗi và được thực hiện như thế. Thông điệp ẩn ý trong đó là: Chúng tôi đã thiếu tôn trọng và coi thường và giờ đây nếu không nói là nhún nhường, chúng tôi sẽ tôn trọng một cách sâu sắc. Nhưng hãy hợp tác với chúng tôi nếu bạn có thể. Vấn đề là: chính xác thì anh tôn trọng cái gì? Tôn trọng tín ngưỡng của đạo Hồi, tổng thống Obama sẽ nói thế và điều đó chắc chắn là đúng. Nhưng điều đó không nên được xem là tôn trọng phần lớn lý thuyết nền tảng mà nhiều người Hồi giáo rao giảng trong nền chính trị của họ ngày nay.

Đây là gốc rễ của vấn đề. Số lượng phần tử cực đoan khá nhỏ, nhưng lí luận của họ - trong đó coi Hồi giáo là nạn nhân của sự hắt hủi của phương Tây ở bên ngoài và sự lãnh đạo về tôn giáo thiếu hiệu quả ở trong nước – có tác động lớn hơn nhiều. Tác động đó thể hiện ở chỗ: phần lớn các nhà lãnh đạo chính trị hiện nay bị lôi kéo hậu thuẫn lí thuyết này do sợ đánh mất sự ủng hộ.

Tình huống này tạo ra hệ quả thực tiễn. Iraq và Afghanistan bị xem là những cuộc chiến của thế giới phương Tây. Với một vài sự khác biệt đáng chú ý, điều này không được hiểu là một cuộc đấu tranh vì trái tim và linh hồn của đạo Hồi. Nhưng kết quả của nó chắc chắn là điển hình của một cuộc đấu tranh như thế.

Tôi đã bị chỉ trích về vấn đề Israel và ý tưởng về việc làm thế nào để vấn đề này tiến triển, tôi đã đề cập đến trong các chương trước. Nhưng hãy tạm gác sang một bên chi tiết của tiến trình hòa bình. Do tôi đã bắt đầu bỏ nhiều thời gian hơn ở Palestine, tôi đã rất ngạc nhiên khi biết luôn dễ thu hút tài trợ cho phần tử “đối kháng” hơn gây quĩ cho tiến trình xây dựng Nhà nước Palestine, một tiến trình đòi hỏi sự kiên nhẫn, nhưng là một tiến trình cần thiết. Israel có thể và nên tăng cường hành động để thúc đẩy những thay đổi thiết thực trên thực địa, đó là ở Bờ Tây và dải Gaza. Điều này có thể đẩy mạnh tiến trình hòa bình. Mặc dù vậy, nếu Palestine chịu một sức ép rõ ràng, không mơ hồ, đòi từ bỏ hoàn toàn bạo lực, thì một thỏa thuận hòa bình sẽ đạt được trong vòng một năm. Thế giới Hồi giáo đã không có tiếng nói đủ trọng lượng để đề nghị họ làm như vậy.

Ngày nay, chính nước Mỹ là nước dẫn dắt cuộc đấu tranh chống Iran và tham vọng hạt nhân của quốc gia này. Nhưng hãy để chúng tôi nói thẳng: Iran là mối nguy tức thời cho các nước láng giềng Ả Rập hơn là mối nguy cho Mỹ rất nhiều. Dĩ nhiên họ cũng là mối đe dọa cho chúng tôi, nhưng điều này một phần là vì việc Iran có vũ khí hạt nhân sẽ ảnh hưởng lớn tới Trung Đông, chứ không phải vì Iran là một mối nguy trực tiếp. Vấn đề là: đánh bại các biểu hiện hiện hữu và đáng sợ của chủ nghĩa cực đoan về tôn giáo là không đủ. Thực ra tôi sẽ đi xa hơn: chủ nghĩa cực đoan này sẽ không bị đánh bại đơn giản bằng việc tập trung vào một mình chủ nghĩa cực đoan. Chúng ta phải tấn công lí thuyết của nó. Nó phải được xem xét, được hiểu và sau đó bác bỏ ở cả bên trong và bên ngoài thế giới Hồi giáo. Nó không nên được tôn trọng. Nó phải bị công kích, phủ nhận, chỉ trích trên các mặt chính trị, an ninh và tôn giáo. Nếu chúng ta bác bỏ lí thuyết này một cách tự tin và thuyết phục, nó sẽ giúp những người hiểu điều này nhưng vẫn còn miễn cưỡng mạnh mẽ hơn. Họ miễn cưỡng là vì họ sợ bị gạt ra ngoài lề, trở nên đơn độc bởi chúng tôi ở phương Tây, đồng minh ngầm hay công khai của họ, cảm thấy cuộc chiến đó quá khó khăn, quá mệt mỏi và trên hết là quá dài.

Điều này khiến tôi quay trở lại với vấn đề Afghanistan cho dù tôi sẽ nói điều tương tự về Iraq. Điều xảy ra ở Afghanistan thực ra rất đơn giản. Kẻ thù của chúng tôi nghĩ rằng họ có thể cô lập chúng tôi. Và không chỉ có kẻ thù nghĩ như vậy, cả các bạn của chúng tôi nữa. Do đó những người bình thường sẽ nghĩ: tôi nên xây dưng hòa bình với những người ở lại, không phải với những người sẽ ra đi. Bây giờ, dĩ nhiên là chúng tôi đang mường tượng khung thời gian rút khỏi Afghanistan và chuyển giao trách nhiệm vào tay người Afghanistan là hợp lý và sự thực chúng tôi đang làm thế; nhưng việc này phải bắt nguồn từ một lập trường mạnh và chúng tôi phải biết chắc người Afghanistan thực sự có khả năng gánh lấy trách nhiệm.

Khó khăn của của cuộc chiến hiện nay là định nghĩa “nó” là gì. Sau ngày 11/9 cụm từ “cuộc chiến chống khủng bố” đã được sử dụng. Mọi người không tin tưởng nó, phần vì nó quá bộc trực, phần vì quá hạn chế. Vì vậy chúng tôi từ bỏ khái niệm này. Nhưng nếu điều chúng ta đang chiến đấu không phải là một cuộc chiến, thì đó là gì.

Nguy cơ đã đủ rõ: Vũ khí hủy diệt hàng loạt ở trong tay của những kẻ muốn tiến hành hủy diệt hàng loạt. Nếu chúng có thể có được những thiết bị hạt nhân bẩn thỉu này, chúng sẽ sử dụng nó. Nhưng nguy cơ không dừng lại ở đó. Phong trào này cũng có khả năng hủy hoại các Chính phủ và chiếm các quốc gia, mà một số Chính phủ và quốc gia đó có vai trò cực kỳ quan trọng đối với lợi ích chiến lược và an ninh của chúng tôi, không đơn giản chỉ là lợi ích ích kỷ của bản thân chúng tôi mà còn là lợi ích của cộng đồng toàn cầu. Điều đó giải thích tại sao vấn đề Iran lại quan trọng. Việc Iran sở hữu bom hạt nhân nghĩa là các nước khác trong khu vực cũng có thể có khả năng tương tự. Điều này sẽ làm thay đổi đột ngột cán cân quyền lực trong khu vực và cả trong thế giới Hồi giáo. Và một cuộc chiến tranh ở Afghanistan đã thực sự nổ ra.

Chúng ta cần liên kết những gì xảy ra như vụ đánh bom ô tô mới nhất ở Kabul hay Baghdad với những gì được rao giảng ở Pakistan, hay về quyền phụ nữ ở Yemen. Chúng ta cần phải mở các đợt phản công trên phương diện tôn giáo và không chỉ dừng lại ở phản công trên phương diện chính trị hay quân sự. Iraq chỉ là một phần của bức tranh này, cũng như Afghanistan; cũng như các vụ thảm sát ở Philippines, Bombay, Kashmirr, Chechnya và Karachi − ở bất kỳ đâu hệ tư tưởng này phủ sóng, cho dù xa xôi đến đâu.

Vậy câu trả lời cho câu hỏi:”Chúng ta sẽ duy trì trong bao lâu” là “Cho đến khi vẫn còn nhu cầu đánh bại chủ nghĩa cực đoan”. Đôi khi nó có nghĩa là đánh, đôi khi lại có nghĩa là thuyết giảng.

Đôi khi, nó có nghĩa là tạo lập hòa bình, như với vấn đề Israel/Palestine (vấn đề này không phải là căn nguyên của chủ nghĩa cực đoan mà là một công cụ quyền lực trong tay những kẻ cực đoan). Nhưng chủ nghĩa cực đoan cần phải bị tấn công và đánh bại ở mọi cấp độ, mọi khía cạnh, mọi nơi chốn, giữa những dân tộc khác nhau và bối cảnh chính trị khác nhau.

Chúng ta cần huy động và ủng hộ các lực lượng hiện đại hóa trong thế giới Hồi giáo, những người theo đuổi tinh thần cùng tồn tại hòa bình. Nhưng trên tất cả, những người này cần chúng ta mạnh mẽ, thể hiện sự kiên định, chứng tỏ rằng chúng ta dành hết tâm sức vào cuộc chiến này. Điều mà họ sợ và nỗi sợ này lớn hơn nhiều nỗi sợ của chúng ta, là chúng ta yếu.

Chúng ta cần sự thuyết phục trong những lập luận của Obama (hay Clinton) và sự đơn giản trong cách tiếp cận của Bush (hay Reagan). Chúng ta cần trí tuệ, những tính toán, sắp xếp xuất sắc kết hợp với sự cứng cỏi để có thể đương đầu. Bây giờ là thời điểm thích hợp để làm điều đó. Từ những năm sau sự kiện 11/9, chúng ta đã học được rằng, chúng ta chưa đập tan được các nguy cơ và chúng ta không thể làm điều đó một cách nhanh chóng. Nó vẫn treo lơ lửng, đe dọa chúng ta. Câu hỏi đặt ra là: chúng ta đã biết mình không có lựa chọn nào ngoài việc đánh bại nó và do đó, vấn đề duy nhất là làm thế nào?

Khi làm việc này, chúng ta cần làm sống lại niềm tin vào lối sống và các giá trị của lối sống đó. Cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít không đơn giản là vấn đề an ninh quốc gia. Trong những trận chiến đó, chúng ta biết chúng ta đang chiến đấu vì cái gì: Không chỉ vì tự do của dân tộc chúng ta, mà vì cả tự do của nhân loại. Chúng ta biết rằng, sự bạo ngược và chủ nghĩa cực đoan là những kẻ thù của loài người, không phải của từng quốc gia riêng lẻ. Tiến hành những cuộc chiến đó, chúng ta không chỉ lấy cảm hứng từ mong muốn chiến thắng, mà còn từ niềm tin, từ đam mê đấu tranh vì sự tiến bộ và tống khứ lực lượng của bóng đêm về với bóng đêm, nơi mà nó thuộc về.

Chúng ta cần tinh thần và đam mê đó ngay bây giờ. Khi đọc các tin tức về đánh bom xe hơi ở các con phố đông người, thì cho dù sự việc đó xảy ra ở đâu trên thế giới, chúng ta không nên nản lòng hay tuyệt vọng; chúng ta phải giận dữ, phẫn nộ và trên hết phải quyết tâm.

Mỹ và châu Âu nên hợp tác với nhau trong vấn đề này. Cùng nhau, chúng ta cần đối đầu với nó; cần vươn tay ra và thuyết phục các quyền lực mới tham gia mặt trận của chúng ta. Không có thách thức nào đối với thế giới ngày nay có thể được giải quyết dễ dàng nếu Mỹ và Liên minh châu Âu chia rẽ. Không có thách thức nào về kinh tế và đương nhiên không có mối nguy nào về an ninh. Dĩ nhiên cấu trúc quyền lực địa chính trị đang thay đổi. Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Nga và đến một lúc nào đó, cả Indonesia, Mexico và các nước khác đòi được đối xử bình đẳng như một đối tác. Nhưng rõ ràng các quốc gia đó không hoàn toàn chia sẻ lợi ích hay quan điểm chung. Mỗi liên minh một khác, nhưng sẽ không có liên minh nào có thể hoạt động hiệu quả hơn liên minh giữa châu Âu và Mỹ. Không cơ hội nào dễ dàng nắm bắt, không thách thức nào dễ giải quyết.

Tôi thấy sự vô tâm đối với sự suy giảm trong quan hệ xuyên Đại Tây Dương, ở cả hai bờ, khá choáng váng. Người ta cảm thấy đó là điều thuộc về một kỷ nguyên đã qua. Như thế là người ta đã hiểu sai cách thế giới biến đổi; hay có lẽ là họ đang thử lật ngược vấn đề để xem xét.

Người ta nói rằng các quyền lực mới đang nổi lên, do đó, chúng ta cần tìm kiếm các mối quan hệ sâu sắc hơn với các quyền lực này và vì thế giảm các mối quan hệ cũ. Nhưng chính vì quyền lực tương đối của châu Âu và Mỹ đang thay đổi, trong bối cảnh các quyền lực mới bước lên vũ đài, việc hợp tác giữa châu Âu và Mỹ càng có lý hơn.

Có thể chúng ta chưa lĩnh hội tầm quan trọng thực sự của sự trỗi dậy của Trung Quốc (hay Ấn Độ). Giờ đây, tôi thường xuyên đến thăm Trung Quốc. Có rất nhiều câu hỏi về việc Trung Quốc sẽ thế nào trong tương lai cần có câu trả lời và ngay cả những người liên hệ mật thiết với Trung Quốc cũng sống trong tình trạng mơ hồ, không thể biết chắc điều gì sẽ xảy ra; nhưng có một số điều chúng ta biết: Trung Quốc đang mở cửa với một tốc độ phi thường. Sức mạnh kinh tế và chính trị, vốn đã rộng lớn của Trung Quốc, hiện chỉ là một phần nhỏ so với sức mạnh của họ trong tương lai. Người dân của nước này thông minh, kiên định và có lòng tự hào dân tộc sâu sắc. Sự đa dạng về dân tộc, chủng tộc, sự đa dạng trong các phần khác nhau của đất nước, quy mô hầu như không hình dung nổi của thách thức đối với sự phát triển − tất cả những điều này có thể hiểu được. Nhưng ý chí khắc phục thách thức sẽ không bao giờ rơi xuống vực sâu tối tăm nữa, đó là những điều xác định phẩm chất của đất nước và sự lãnh đạo của Trung Quốc.

Chúng ta cần đề nghị Trung Quốc hợp tác, vì lợi ích của cả hai bên. Và các đối tác mạnh luôn luôn tốt hơn các đối tác yếu. Một phương Tây bị chia rẽ, tranh giành quyền lợi với các quyền lực mới, là điều vô lý.

Đối với châu Âu, sự tương phản giữa lựa chọn và thách thức là lớn nhất. Sau tất cả những tranh luận về Hiệp ước Lisbon, giờ đây châu Âu phải đưa ra những quyết định rất thẳng thắn. Vấn đề không nằm ở tiến trình, điều châu Âu thích tranh luận tới suốt đời. Đó là vấn đề về định hướng chính sách. Nếu châu Âu muốn mạnh hơn, có khả năng hợp tác với Mỹ, Trung Quốc và các nước khác và trở thành một đối tác hấp dẫn, họ phải tập trung vào những quyết định nền tảng nhất định.

Thứ nhất, cần phải tìm hiểu thật kỹ lưỡng về cuộc khủng hoảng kinh tế nhằm tái định nghĩa mô hình xã hội của nó, phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ, tự do hóa thị trường và từ đó có được những lợi ích từ sự gắn kết của châu Âu. Cần phải kết hợp ngân sách với các ưu tiên, thay vì kết hợp các ưu tiên với ngân sách.

Thứ hai, cần phải tạo ra một chính sách phòng vệ của riêng châu Âu trong đó tập trung vào khả năng đấu tranh. Châu Âu cần số lượng đáng kể về lực lượng quốc phòng, cộng với sự hậu thuẫn về hậu cần và công nghệ, với ý chí, ham muốn và khả năng tham gia vào các chiến dịch chống lại quân nổi dậy và khủng bố. Điều này đỏi hỏi không chỉ sự tổ chức và hợp tác, mà còn đòi hỏi một cuộc tranh luận trong xã hội chúng ta về phương thức tiếp cận sự can thiệp của quân đội và đặc biệt là những thương vong mà chúng ta chắc chắn sẽ phải đối mặt nếu tham gia. Không có cách nào khác để chuẩn bị cho điều này ngoài việc chuẩn bị cho những người đàn ông và cả phụ nữ đối mặt với những rủi ro, sẵn sàng thực hiện chúng và được khen thưởng một cách thích hợp.

Thứ ba, châu Âu sẽ đạt được rất nhiều lợi ích về kinh tế, cũng như về mặt lãnh đạo, bằng cách áp dụng một chính sách năng lượng chung. Một mạng lưới thống nhất không phải là điều không thể thực hiện và những khoản tiết kiệm được sẽ rất lớn. Chẳng hạn, những sự khác biệt về chính sách năng lượng hạt nhân có thể được vượt qua bằng việc chấp nhận có sự khác biệt như vậy, nhưng sẽ có rất nhiều lĩnh vực có thể hợp tác. Điều này sẽ giúp giảm đáng kể chi phí cho các doanh nghiệp và cho người tiêu dùng.

Thứ tư, châu Âu có chung biên giới và phải đối mặt với một mối đe dọa chung phổ biến về tình trạng nhập cư bất hợp pháp và tội phạm có tổ chức. Ở đây không chỉ bao hàm các quy định của Hiệp ước Schengen liên quan tới các vấn đề tị nạn và nhập cư. Nó còn bao hàm cả việc hợp tác xây dựng hiến pháp và chính sách thực tế. Trên hết, nó bao gồm một phương pháp tiếp cận đã được thống nhất rằng: chúng ta vẫn là những xã hội tự do về chủng tộc, song quyết định áp đặt các luật lệ và trật tự vào một hệ thống, bởi nếu không, hệ thống không có trật tự cho việc ra quyết định và thực thi cho phép đối tượng nào có thể nhập cư sẽ là mầm mống cho sự bài ngoại.

Thứ năm, châu Âu từng là nơi có các trường đại học hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, số lượng các trường đại học châu Âu nằm trong top 50 hay top 100 trường đại học hàng đầu thế giới hiện nay là sự khiển trách rất lớn đối với khả năng hiện đại hóa của chúng ta. Mỗi quốc gia sẽ muốn quyết định chính sách riêng của mình, nhưng châu Âu có thể hưởng lợi rất nhiều bằng cách thống nhất một số nguyên tắc quan trọng cho nghiên cứu, cải cách và hợp tác, ít nhất là trong tầng lớp xuất sắc nhất và sử dụng thỏa thuận đó để xây dựng nguồn vốn trí tuệ mà châu Âu cần để cạnh tranh. Các nền kinh tế thành công ngày nay phụ thuộc vào các tổ chức kinh doanh thành công giáo dục bậc cao. Hãy tới California và bạn sẽ hiểu làm thế nào và tại sao Thung lũng Silicon tồn tại.

Đây chỉ là 5 định hướng chính sách, song chúng có thể đem lại bao nhiêu sự khác biệt cho châu Âu, không chỉ cho nền kinh tế, mà còn đối với vị thế, sự tự tin về tương lai. Cần chấm dứt suy nghĩ như một nước nhỏ và hãy bắt đầu hành động giống như một nước lớn. Đây không phải là vấn đề về các nước châu Âu lớn và nhỏ, mà thực tế, tất cả các nước ở châu Âu ngày nay đều nhỏ so với các cường quốc mới nổi. Đó là lý do chúng ta cần châu Âu phải lớn hơn và mạnh mẽ hơn và do đó có thể tạo ra ảnh hưởng cũng như định hình các sự kiện. Đây không phải là một phân tích sinh ra bởi một bài học phức tạp về chính trị, đây là một bài học rõ ràng, hiển nhiên kể từ sau cuộc họp đầu tiên của người Neanderthal (người tiền sử) trong hang động. Những ai có quyền lực, hãy tính đến. Những ai không có quyền lực, không cần tính đến điều này. Tuy nhiên, điều ngớ ngẩn nhất là có quyền lực mà không biết, hoặc có thể có quyền lực mà quá nhút nhát dẫn tới không nỗ lực để đạt được điều này.

Vậy nước Anh đang ở đâu trong tất cả các vấn đề này? Ở đây tôi không muốn nhắc lại những gì tôi học được từ giai đoạn 1997-2007. Thay vào đó, hãy để tôi tập trung vào giai đoạn 2007-2010. Đầu tiên, tại sao Đảng Lao động lại thất bại trong cuộc bầu cử năm 2010?

Tôi e rằng câu trả lời cho điều này đã rất rõ ràng. Đảng Lao động đã giành chiến thắng khi nó là Lao động mới và đã thất bại khi không còn như vậy. Điều này không phải do bản thân Gordon Brown. Sự thực là ông ta không phù hợp với hình thức giám sát chính trị hiện đại trong đó tính cách bị phê phán tỉ mỉ. Ông ta chưa bao giờ cảm thấy thoải mái với vai trò là một chính trị gia bình thường. Như tôi từng nói, ông ta không cần thiết phải như vậy. Ông ta có nhiều thế mạnh: được coi là một người làm việc cần mẫn, trái tim được đặt đúng chỗ, thông minh và toàn tâm toàn ý cho đất nước. Nếu ông ta vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách Lao động mới, sẽ khó khăn để giành chiến thắng đối với các vấn đề cá nhân, song không phải là không thể đạt được. Song, việc rời bỏ chính sách này đã đem lại sự thất bại. Trong cuộc bầu cử năm 2005, chúng tôi chắc chắn sẽ không bao giờ thất bại, song trong cuộc bầu cử năm 2010, chúng tôi lại không thể giành được chiến thắng một khi quyết định chiến lược mang tính chất định mệnh đã được đưa ra để từ bỏ vị trí của chính sách Lao động mới.

Tại thời điểm này, một số người có thể sẽ gãi đầu thắc mắc. Có phải chúng ta đã từ bỏ Lao động mới? Không phải Gordon theo đuổi chính sách Lao động mới, đặc biệt là sau sự trở lại của Peter Mandeson sao? Câu là lời trả có và không. Đây là lý do.

Kỳ lạ là cuộc khủng hoảng kinh tế lại chính là cơ hội. Ban đầu chúng ta đương đầu với nó. Gordon đã hành động với những gì tốt nhất, thông minh nhất, hoàn toàn kiểm soát, đảm bảo duy trì các biện pháp. Kế hoạch đối với các ngân hàng là đúng đắn. Tuy nhiên, ông ta đã áp dụng hoàn toàn cái gọi là quan điểm của Keynes về vai trò Nhà nước. Alistair Darling là một Bộ trưởng Tài chính xuất sắc, song (tôi mạo hiểm phỏng đoán rằng) ông đã không có cơ hội được thực hiện chính sách theo mong muốn của mình. Năm 2009, ngân sách cho thấy sự trở lại của thuế và chi tiêu, với mức thuế suất cao nhất được đẩy lên tới 50%. Năm 2010, sự tăng lên của Bảo hiểm quốc gia là con đường để giải quyết tình trạng thâm hụt và quyết định đã được đưa ra dựa trên việc cắt giảm đầu tư. Các chương trình học thuật và các dịch vụ công cộng giảm sút. Tình trạng phạm tội và những hành vi chống xã hội đã bị đánh giá thấp tới khi tình hình trở nên quá muộn. Chương trình thẻ căn cước, trên thực tế là câu trả lời duy nhất cho vấn đề kiểm soát nhập cư, đã bị thu hẹp lại.

Chúng ta cần phải làm gì? Như tôi đã gợi ý trong bài phân tích về nền kinh tế trước đó, theo quan điểm của tôi, đáng lẽ chúng ta nên thực hiện một con đường vượt khủng hoảng kinh tế của Lao động mới: đó là giữ thuế suất thuế trực tiếp ở mức cạnh tranh, tăng thuế giá trị gia tăng và các loại thuế gián tiếp khác một cách từ từ, để giải quyết tình trạng thâm hụt, đồng thời tận dụng cuộc khủng hoảng để đẩy nhanh tốc độ cũng như quy mô cải cách.

Tôi cho rằng chương trình như vậy là đúng đắn xét về kinh tế, đồng thời rõ ràng về mặt chính trị. Những gì đã xảy ra năm 2010 đó là chúng ta đã phá vỡ liên minh. Trong hơn 13 năm qua, chúng ta đã thực hiện đầy đủ những gì cần thiết để tránh đổ vỡ. Tại một số khu vực, sự ủng hộ dành cho chúng ta được củng cố, song nền tảng cơ bản để chúng ta có được sự ủng hộ ở Hove, Hastings, Crawley và Dorset lại thiếu vắng. Có thể họ không chắc chắn về các thành viên Đảng Bảo thủ, song một điều có thể chắc chắn, chúng ta đã trở thành Đảng Lao động cũ. Thật nực cười, các nhà bình luận thường không thấy như vậy, (các phương tiện truyền thông đã bị ám ảnh bởi các cuộc tranh luận trên truyền hình) và từ các bản tin, bạn có thể nghĩ vấn đề thuế và chi tiêu không phải là những vấn đề lớn. Song ẩn bên dưới, với công chúng, họ đã có câu trả lời dứt khoát. Những người bỏ phiếu hiểu rằng, bất kỳ ai được bầu cũng sẽ phải thực hiện các biện pháp khắc khổ. Những người đóng thuế là những người đầy mong mỏi, những người nhất trí với Đảng Lao động về sự cảm thông trong xã hội, nhưng lại là những người cần chúng ta nhạy cảm với những khao khát được dụng đồng tiền của chính họ, đã nghĩ rằng Đảng Bảo thủ có thể đã là một sự lựa chọn dễ dàng hơn đối với họ. Khi Đảng Bảo thủ đưa ra bằng chứng về việc khoảng 30 CEO phản đối việc tăng Bảo hiểm quốc gia, tôi biết rằng cuộc chơi đã được bắt đầu. Một số nhà bình luận chờ đợi Đảng Lao động trả lời. Tôi đã gọi điện cho Peter và hỏi liệu chúng ta có câu trả lời nào không. Và anh ấy trả lời là không. Điều quan trọng mang tính chính trị là như sau. Trường hợp của Đảng Lao động vào năm 2010 đó là Đảng Bảo thủ đã đặt sự phục hồi vào tình thế rủi ro. Nếu 30 CEO, những người tuyển hàng ngàn lao động trong các công ty có giá trị tài sản lên tới hàng tỷ bảng, nói rằng chính Đảng Lao động đặt sự hồi phục vào tình thế rủi ro, thì người bỏ phiếu sẽ tin ai? Câu trả lời: họ sẽ tin vào chính những CEO đó. Một khi làm mất họ, cái bạn mất sẽ không chỉ là một vài phiếu bầu. Bạn sẽ mất uy tín về kinh tế. Và một chút kiến thức của các học giả kinh tế cũng sẽ không tạo nên sự khác biệt.

Điều mà công chúng không tiếp tục làm là bầu ra một Chính phủ mà họ mong muốn. Họ không chắc chắn về phe Bảo thủ, do đó họ đặt một Đảng dân chủ Tự do bên cạnh và kêu gọi họ đoàn kết với nhau. Họ bầu cho cái mà họ coi là một phiên bản của Đảng Bảo thủ của một Chính phủ ôn hòa (họ có nhận được điều này không là một vấn đề khác). Đã có rất nhiều sự đồn đoán về khả năng có một liên minh giữa Đảng Lao động và Đảng Dân chủ tự do. Theo quan điểm của tôi, điều này không bao giờ xảy ra. Người dân sẽ nổi dậy và các phiếu bầu sẽ không ở đó. Nỗi sợ hãi về một cuộc khủng hoảng chưa xảy ra dường như đã khiến việc bị thất bại dường như là một sự ân xá. Nhưng điều đó chỉ có nghĩa là chúng ta đang sống để chiến đấu vào một ngày khác.

Mối nguy hiểm cho Đảng Lao động hiện nay là chúng ta đang trôi dạt, thậm chí là di chuyển một cách dứt khoát về bên trái. Nếu thật sự như vậy, chúng ta thậm chí s?