← Quay lại trang sách

XVI - XX

Gần trưa, ban điều tra nhận được hai tờ trình, một của giám thị, một của cảnh vệ. Hai người này gặp nhau ngoài sân trại đều nhăn nhó phàn nàn sự không may của mình. Nhân dịp, viên giám thị yêu cầu chú cảnh vệ thuận lại đầu đuôi vụ phát giác cho hắn nghe. Đến đoạn nói phó trưởng ban quản trị đã có bằng chứng tù phong vương dùng giũa cắt xiềng, giám thị ngẩn mặt một cách lo sợ. Không dè hắn đã tạo điều kiện cho bọn phản động mang dụng cụ cắt xiềng cho tù 982. Nguy quá!

Không biết trong tờ trình, giám thị viết những gì mà giữa trưa, trong giờ nghỉ, có nhân viên xuống lò rèn gọi thiếu niên Hợi lên văn phòng, tối mịt cũng không thấy cậu ta về.

Sau bữa ăn chiều, thợ rèn mật trình cho giám thị biết sự vắng mặt của Hợi, giám thị gật đầu ra vẻ ‘’biết rồi’’, và nói:

- Không chừng, thằng phản động bé con đó còn làm nhiều người bị tội lây!

Gián thị hạ thấp tiếng:

- Rất có thể có một bọn ‘’phản động’’ hoạt động ngay trong trại. Phải coi chừng!

Tù thợ rèn là tay sai thân tín của giám thị, đảm nhiệm bóc lột tù cho hắn nên giám thị không nỡ giấu một vài tin quan trọng. Thợ rèn sợ hãi thất sắc, định hỏi thêm về Hợi nhưng giám thị đã dợm chân quay đi và nói:

- Chú mày kiếm một cái xiềng thật nặng dành sẵn cho nó!

Thật ra, đã có thời gian, trại giam không quan tâm đến tù trốn trại cho lắm. Vì theo kinh nghiệm, tù không chết trong trại giam thì chết trong rừng. Khỏi mất công vùi ngoài bãi.

Ở trại thì chết đói, chết bịnh, chết vì đòn tra tấn trừng phạt, vì lao động quá mức, suy nhược tinh thần và vì quá sợ. Trốn vào rừng cũng chết đói, chết vì thú dữ, rắn độc, vì quá cực nhọc, đi mãi đi hoài không tìm được đường về vùng quốc gia để sau chót lại rơi vào tay nhân dân, dân quân du kích hay bộ đội. Đi đến đâu, người tù vượt ngục cũng thấy vòng vây thắt lại quanh mình như thiên la địa võng, bay không thoát chui không lọt. Rồi kết cuộc, tù nhân thắt cổ tự tử trong rừng để thoát nợ đời. Lại cũng có người thối chí quá ra đầu thú để dân chúng trói tay, buộc dây dắt như dắt chó về nộp cho trại giam.

Nhưng dù sao, trong giai đoạn này, vụ tù vượt ngục trại giam bằng những phương tiện chuẩn bị trước cũng gieo rắc những nhận định không hay về toàn thể ban quản trị, cả về phương diện hành chánh lẫn chính trị. Tiếng xấu đó bay về đến trung ương sẽ gây hậu quả tai hại cho ban quản trị. Tất nhiên sẽ có những cuộc tuyên chuyển, cải đổi, trừng phạt và điều tra bí mật hoặc công khai. Trung ương lại còn cho cấp trên đến thanh tra nữa là khác. Mà nhân vật nào sẽ thanh tra các trại giam ở Liên Khu 3 và 4 nếu không phải là hung thần Lý Bá Sơ. Phải, chính tên cựu lý trưởng Sơ đi thanh tra. Thiếu gì kẻ sẽ mất mạng?

Vì vậy ban quản trị Trại Sản Xuất và Tiết Kiệm Đầm Đùn quyết định cho lùng bắt kỳ được 982, nhất là theo kết luận của cuộc điều tra sơ khởi, đây là một vụ vượt ngục trong một kế hoạch rộng lớn có chuẩn bị kỹ càng, có tòng phạm là tù trong trại một phần, phần khác do một tổ chức chính trị ‘’phản động’’ bên ngoài -có thể là đoàn thể Liên Tôn Diệt Cộng- yểm trợ. Qua những sự kiện trên, Thượng cấp còn thấy việc học tập của tù nhân chưa đem lại kết quả mong đợi, việc đôn đốc, kiểm soát, coi sóc tù nhân của nhân viên trại giam không được chu đáo, tạo dịp cho bọn ‘’Việt gian’’ lợi dụng các sơ hở.

Nhân viên được trao trọng trách theo dõi lùng bắt tên tù vượt ngục lại chính là tên giám thị hiểm độc, tàn bạo nhất đã đề nghị phong vương 982, ban quản trị trao nhiệm vụ cho hắn là giúp hắn có dịp chuộc tội lập công. Ngoài ra, về mặt tâm lý, 982 còn là tử thù của hắn vì đã mưu định giết hắn bằng nọc độc kiến bò nhọt. Vậy trao cho hắn nhiệm vụ lùng bắt 982 là hợp tình, hợp lý. Bắt buộc hắn phải cố sức đến cùng.

Nên, chỉ khi được lệnh của thượng cấp, giám thị Tùng lật đật vào một Bản cách trại giam hơn ba cây số. Dân Bản này là dân thiểu số người Mán, ở rải rác lưng chừng ngọn núi ngay bìa rừng.

Vì lý do riêng, giám thị khoái vào làng Mán là khác. Chiều hôm kia, không có công tác gì của trại và mặc dù trời mưa, hắn cũng lặn lội vào tận Bản này, mãi sáng qua mới trở về trại để đến nỗi bị phó trưởng ban quản trị cảnh cáo một trận nên thân. Chắc chắn còn bị kiểm thảo, trừng phạt là khác.

- Ối chào! Khỏi cần!!

Viên giám thị thốt ra một câu bực tức.

Là vì không còn ‘’trại sản xuất nào vất vả, nhọc nhằn, buồn thảm, tù chết nhiều vì đói, vì bệnh tật, tai nạn, và giám thị với các nhân viên khác các trại chết vì lây bệnh của tù nhiều hơn Trại Đầm Đùn. Tuyên chuyển về đây là cùng đường mạt lộ rồi, còn trại nào thảm hại hơn mà mà tống khứ đi nữa?

Nhưng giám thị Tùng vào làng Mán làm gì, mưu toan việc gì?

Tùng làm việc tại Trại Đầm Đùn đã hơn hai năm nay, quyền hạn của hắn trên thực tế đối với tù thật bao la, muốn đánh, muốn giết chỉ việc bịa ra chuyện này, vu cho chuyện nọ là tù đáp ‘’chuyến tàu suốt’’. Lâu dần, hắn bị ‘’méo mó nghề nghiệp’’, tính độc ác, tàn bạo trở thành một ‘’bản tánh thứ hai’’, đối với người dân trong vùng, hắn cũng có cử chỉ hách dịch, những hành động áp bức, dọa nạt. Con người ác tâm, lại làm việc tại một cơ quan chuyên làm điều ác độc, càng trở nên ác độc là lẽ thường.

Mới đây, một buổi dẫn tù đi làm, tình cờ hắn gặp một thiếu phụ Mán đi chợ. Thiếu phụ dân tộc thiểu số không đẹp gì nhưng lối phục vụ lòe loẹt, lạ mắt, dị kỳ đã làm tăng dáng vẻ hấp dẫn của thiếu phụ khiến tên ác nhân ngơ ngẩn. Nhất là cặp mắt của thiếu phụ sếch và sắc như dao cau lại long lanh đưa đẩy, thầy giám thị như bị lạc hồn mất vía. Sau đó, giám thị Tùng mở cuộc điều tra nho nhỏ, được biết thiếu phụ Mán ở Bản X...gần trại giam, mới lấy chồng được nửa năm, hương lửa đang nồng thì anh chồng bị rắn độc cắn chết. Thiếu phụ nọ góa, gậm nhấm nỗi cô đơn đau đớn từng đêm dài.

Ít ngày sau đó, hắn ta bèn lân la đi lại với gia đình thiếu phụ Mán, tính đợi dịp ép liễu nài hoa. Dân làng biết tiếng tên hung thần của trại giam, có ý ngại ngùng.

Tên giám thị đang sức trai, vợ con ở xa, nhưng cũng sợ phản ứng quyết liệt gây hậu quả không tốt, nhất là sợ tiếng đồn xấu đến tai thượng cấp. Hắn quyết định dùng cảm tình để đạt mục đích. Lâu dần, thiếu phụ nọ muốn đã xiêu lòng, chỉ phản ứng lấy lệ mà thôi. Vả lại, nói chung, tâm hồn người miền núi cao thường giản dị, họ hành động theo bản năng nhiều hơn lý trí.

May thay, đến lúc thiếu phụ nọ gần sa ngã trước sự đàn áp tinh thần và tấn công tình cảm của tên giám thị, có một thanh niên Mán, người cùng bản, đến hỏi thiếu phụ làm vợ. Giữa thời gian này, tên giám thị lại lần mò tới, thái độ hống hách không coi ai ra gì, tính gấp chuyện nài liễu ép hoa trước khi hoa trở nên có chủ.

Nhưng sáng nay, tên giám thị tới làng Mán trước hết vì công vụ. Hắn tới nhà ông chủ tịch xã cho biết nhiệm vụ của hắn.

Những ai có dịp tới những vùng núi cao rừng sâu, đều thấy đồng bào thiểu số quý nhất một thức vật, quý hơn gạo, hơn thịt hơn tất cả mọi thứ. Đó là muối ăn. Dân thiểu số làm ra được tất cả trừ muối. (Cũng có nơi biết cách đốt than củi ra tro rồi lọc lấy chất muối, nhưng kết quả không được bao nhiêu và muối thiếu ‘’độ’’ mặn cần thiết).

Với muối, đồng bào thiểu số có thức ăn ngon và nhất là có thể ướp thịt rừng, ướp cá, ướp các thứ củ, lá và làm nhiều thứ khác, không có muối không xong. Muối lại còn cần cho cơ thể dưới hình thức đồ ăn nữa.

Vậy, với 1 kg muối, người Mán có thể làm bao nhiêu việc ích lợi và cần thiết cho đời sống hàng ngày của họ.

Nay, Trại Giam Đầm Đùn treo giải thưởng ba ký lô muối, thật là một giải thưởng to lớn quá sức tưởng tượng. Một ký lô cũng đủ gây háo hức lắm rồi, huống hồ...Muốn được ba ký chất mặn đó, chỉ việc vào rừng, lùng kiếm tên tù vượt ngục. Công việc dễ ợt! Vì đường lối đi trong vườn, trong sân nhà mình. Chỗ nào có hang hốc, chỗ nào là khúc suối sâu, nơi nào có cầu treo, nơi nào cầu nổi chỉ có hai thân cây nổi lềnh bềnh, nơi nào thường có trăn có cọp hay rình bắt người, khu rừng nào thường gặp ma rừng ban ngày v.v...người địa phương đều biết rõ. Có những khu rừng đã lạc vào sẽ khó tìm đường ra lại không kiếm được hoa quả gì bỏ vào miệng, nhất nhất họ đều thuộc lòng và chỉ bảo cho bạn bè, con cháu, bà con trong Bản.

Hơn thế nữa, họ còn một phương tiện khác giúp họ đỡ tốn công, đó là những con chó săn. Mỗi gia đình Mán, Mường có nuôi một, hai hoặc ba con chó dùng vào việc đi săn. Không biết người Mán, Mường huấn luyện theo phương pháp nào mà chó săn rất tinh khôn tài giỏi. Nhờ khứu giác tế nhị và bén nhạy lạ thường, chó đánh hơi giúp chủ tìm ra nơi ẩn núp của thú rừng: Hươu nai, lợn rừng, cáo, chồn, trăn...và nhất là tìm người bị lạc trong rừng. Cho đàn chó ngửi hơi hướm, quần áo, đồ vật của người bị lạc rồi dắt chó vào rừng. Chó đánh hơi trong gió, dẫn chủ đi tìm, kết quả hầu như chắc chắn.

Giải thưởng ba ký lô muối gây xôn xao trong làng Mán. Tin được loan truyền rất mau và chưa tới nửa tiếng đồng hồ, năm người Mán đã từ ngoài nương, rẫy về, lật đật dắt chó lại xin đuổi bắt tên tù trốn trại. Tuy vậy, họ cũng đeo ‘’gùi’’ ở lưng, mang theo một cây ná, vài bó tên, (tên thường và tên độc) một cuốn dây luộc và con dao rừng cán dài, lưỡi sắc như nước và rất khỏe. Với con dao rừng này, họ dám chống cự cả với thú dữ. Họ sẵn sàng lên đường ngay, hy vọng chiếm giải thưởng.

Giám thị tập hợp những người Mán tình nguyện, cho biết những chi tiết cần thiết để hướng dẫn cuộc săn bắt. Đến đây, nẩy sinh một sự phiền phức, bất tiện cho Tùng. Nguyên do là mấy người Mán cần cho chó ngửi ‘’hơi hướm’’ của tên tù vượt ngục, có như vậy mới dễ kiếm. Muốn thế, giám thị phải đưa họ về Trại Đầm Đùn cho đàn chó tới lều phong vương đánh hơi...kỹ cái nón lá và hai cái tấm ván cùm. Giám thị không thể lưu lại Bản này một thời gian cần thiết đặng thi hành mưu định xâm phạm tiết hạnh thiếu phụ Mán. Dịp may, bao giờ gặp lại? Giám thị cau mặt suy nghĩ, vẻ bực mình. Sau cùng hắn nói:

- Thôi, mấy người hãy đi kiếm trong khu rừng gần đây, trong khoảng đường bán kính bốn, năm cây số trở lại là thấy tên tù trốn rồi. Nó bị đói, lại đau ốm yếu đuối, đâu có chạy xa nổi. Chưa quá hai đêm, một ngày mà!

Rồi hắn nhìn mấy người Mán, dọa nạt:

- 8 giờ sáng mai, mấy người ra trại, tôi sẽ kiếm cho mấy người những thứ còn giữ lại cái hơi ‘’thối’’ tên của tù phong vương. Làm việc phải có giờ giấc, kế hoạch. Bữa nay, tôi còn có công tác khẩn do trung ương ủy nhiệm, phải thực hiện gấp!!

Mấy người Mán không biết làm sao hơn, bàn nhau líu tíu bằng thổ ngữ của họ giây lát rồi dắt chó đi, mỗi bọn một ngả. Bọn ba người đi về phía Tây Bắc, nghĩa là đúng con đường 982 đã chạy qua. Còn bọn hai người dắt chó về phía Tây Nam Trại Đầm Đùn.

Nhưng đến đây mới xẩy ra một vụ ‘’trật đường rầy’’ khiến tên giám thị độc ác lại rơi vào trong tay những người hắn đang giết chết lần mòn.

Bọn người Mán đi rồi, giám thị Tùng ngồi nói chuyện với ông lão Mán, chủ tịch ủy ban nhân dân xã này. Lâu nay, có giấy tờ, công văn hoặc công tác, hắn thường vào trong Bản và có dịp giao thiệp với các chức việc.

Bản này gồm hơn chục nhà sàn, cất rải rác trên lưng chừng núi theo phong tục và thói quen của sắc dân thiểu số. Thành kiến của người miền xuôi đối với người Mán thường lầm lẫn khi cho họ là một sắc dân lạc hậu ngớ ngẩn. Sự thật, người Mán tương đối tiến bộ hơn các sắc dân thiểu số khác, họ biết văn tự và phần nhiều thông Hán tự. Mỗi nhà đều có bàn thờ gia tiên, ở gian giữa, thường treo hoành phi, câu đối chữ nho và bày biện, trang hoàng chẳng khác chi người dân quê miền đồng bằng Bắc Việt.

Nói vài chuyện vẩn vơ, tên giám thị cáo lui lấy cớ đến thăm một người bạn trong Bản.

Thật ra, hắn lò dò đến nhà thiếu phụ Mán nọ ở mãi ngã ba hai con đường chính bò ngang lưng núi. Khi đó, ông bà già Mán đều đi khỏi. Ông già ra ngoài rẫy cuốc khoai, bà già ra suối giặt. Chỉ có thiếu phụ đang xay bắp một mình ở nhà dưới.

Con chó Vệt đã theo bà già ra suối nên tên giám thị vào đến trong nhà, thiếu phụ Mán vẫn không hay. Nàng vừa xay bắp vừa thì thầm hát một bài hát trữ tình phổ thông của người miền núi. Đến lúc quay lại nhìn phía sau, nàng từ bao giờ. Nàng càng lạ lùng và sợ sệt khi nhận ra người này có vẻ hách dịch, súng lục dắt cạnh sườn.

Nàng luống cuống, chắp tay chào và nói lí nhí trong miệng:

- Thầy hỏi ai?

Khách cười nói nham nhở:

- Tôi hỏi cô chứ còn ai nữa? Cô quên tôi rồi à? Noọng Slao??

Slao chợt nhớ ra. Bữa đó đi chợ gặp thầy giám thị này dẫn tù đi làm, thấy ta nhìn nàng bằng cặp mắt lẳng lơ, chờ cho bọn tù đi xa một quãng, thầy ta lại gần nắm lấy tay nàng rồi thì thầm vào tai những điều khó nghe một cách thô bỉ. Nhưng nàng gỡ tay ra được, nghiêng nét mặt phản đối.

Slao đã bớt hoảng sợ, gượng cười:

- Có chuyện chi đó, thầy...giám thị?

- Có chuyện quan trọng cần hỏi ông già. Và có chuyện vui đem đến cho Noọng Slao.

Noọng Slao vội vã đáp:

- Nếu có chuyện cần gấp, xin ‘’thầy đồng chí’’ ngồi đợi đây chút xíu, tôi ra rẫy gọi ông già về liền. Cũng gần thôi...

Giám thị gạt ngang:

- Khỏi cần! Không gấp lắm. Chừng nào ông già về cũng được.

Thiếu phụ ngần ngừ vài giây, chưa biết nên giải quyết cách nào cho tiện, đành phải đon đả với nhân viên chánh quyền. Hồi đó, tâm lý chung của sắc dân thiểu số và rất sợ người nhà nước. Ngày xưa họ sợ người Pháp và bọn quan lại tay sai, bây giờ họ sợ Việt Minh, sợ những đảng viên, sợ chính quyền. Uy quyền của đảng viên cộng sản thật vô hạn, họ đã thấy.

- Mời ‘’thầy đồng chí’’ lên nhà uống nước.

Giám thị cười:

- Đừng gọi tôi là ‘’thầy đồng chí!’’ Bỏ chữ ‘’thầy’’ gọi ‘’đồng chí’’ đủ rồi! Nghe không em Slao?

Noọng Slao không trả lời, thoăn thoắt đi trước dẫn khách. Giám thị Tùng ngắm cái thân hình đang vào thời kỳ phát triển đầy đủ nhất mà rạo rực.

Thật vậy, hai bắp chân chắc lẳn của thiếu phụ hàm chứa một sức mạnh dẻo dai. Từ cổ chân lên tới đầu gối quấn xà cạp xanh theo phong tục. Nàng mặc yếm hồng bó sát, ngực nàng vồng lên một cách tấm tức ngạo nghễ.

Ngoài cùng hết, nàng bận một tấm áo dài màu chàm ngắn cụt cỡn chưa tới đầu gối lại không có khuy cài nên nửa kín nửa hở. Tóc thiếu phụ chải ngược tết lại thành búi cao giữa đỉnh đầu có cài trâm bạc dài, mỗi nhịp cánh tay đong đưa, vòng bạc chạm vào nhau reo vui thánh thót như ân cần, mời mọc. Váy nàng rất chật lại ngắn, cao gần đến kheo chân, thêu chỉ ngũ sắc rất cầu kỳ ở mép vải.

Mầu sắc rực rỡ xôn xao trên thân hình thiếu phụ tạo nên một vẻ kỳ thú, gợi cảm đặc biệt đối với bộ óc mất thăng bằng của tên giám thị. Hắn nhìn soi mói, đờ đẫn vì thèm khát. Khi không, hắn mỉm cười như đang ‘’ăn’’ trước bằng tưởng tượng một món ăn thèm thuồng, vành môi nơi gần mép mấp máy trễ xuống để lột mấy cái răng nanh, trông hắn ngây ngô, kỳ cục như con dê đang...tủm tỉm.

Giám thị Tùng ở vùng này khá lâu nên biết thiếu phụ Mãn không còn đội chiếc mũ xếp nhiều cạnh bằng vải dầy nhuộn màu cánh sen là nàng đã qua thời kỳ con gái, nàng đã có chồng. Một ý nghĩ vẩn đục thốt làm cho mặt tên ‘’cường hào ác bá’’ nóng bừng máu chảy dần dật. Vợ con ở mãi ngoài Nam Định, hai năm nay không về thăm lần nào. Hơn nữa, bản tánh hung dữ lại ‘’xấu máu’’ hắn không dằn nổi sự nôn nao mặc dầu hắn vẫn nhớ phạm tội ‘’hủ hóa’’ mà không có vây cánh che chở, có thể mất mạng như không.

Lòng si mê như một tấm màn đen che kín lương tri khiến hắn biến thành một con thú. Khi thiếu phụ Mán mời hắn lên trên sàn ngồi ở gian giữa rồi nàng trở vào gian đầu hồi để sửa soạn gì đó, hắn đã lặng lẽ đi sát theo chân nàng tự bao giờ. Hoặc giả nàng có liếc thấy nhưng không biết đối phó cách nào nên làm như không thấy chăng? Trái lại, giám thị coi thái độ thụ động của nàng như một sự ưng thuận, một sự khuyến khích hắn tiến thêm một bước. Thiếu phụ bàng hoàng cất giọng run run vì xúc cảm, hỏi bâng quơ một câu -thật ra, nàng quýnh quá nên cũng không hiểu mình định nói gì- thì hắn đã đưa chân ngáng rồi lựa cách đẩy nàng ngã nhè nhẹ xuống sàn, một tay giữ chặt không cho thiếu phụ phản ứng rồi thuận tay kia, hắn cài then cửa.

Trước sự tấn công điêu luyện và đúng lúc của tên ‘’cường hào’’ khốn nạn, người thiếu phụ góa chồng bàng hoàng chống cự một cách vô hiệu.

...Lát sau, tên giám thị thảm nhiên mở cửa bước ra. Y sửa lại áo quần cho thẳng thắn, vừa cười vừa nói:

- Ngày mai tôi đem cho Noọng Slao một ký lô muối. Bằng lòng chưa?

Nói xong, vội quay đi cho được việc, hắn đã thấy sừng sững trước mặt một thanh niên Mán chạc tuổi hắn và đằng sau thanh niên là hai ông bà già mà hắn đoán là cha mẹ thiếu phụ. Cả ba đều hầm hầm tức giận. Ông già lên tiếng trước tiên:

- Thầy giám thị vào trong nhà tôi cưỡng hiếp con gái tôi hả?

Rồi quát lớn:

- Slao! Slao!!

Thiếu phụ từ trong phòng bước ra, vẻ ngượng ngùng rõ rệt. Đến lúc nàng ngửng lên, mọi người thấy nàng đầm đìa nước mắt. Bà già òa lên khóc theo một cách bất ngờ. Giám thị tái mặt nghĩ thầm:

- Nguy rồi! Chỉ chậm một phút mà thật tai hại!

Nhưng bỗng hắn hùng hổ trừng mắt hỏi:

- Có người báo nhà này giấu tù nhân vượt trại. Có không? Phải khai thật.

Câu hỏi của người đại diện pháp luật và là nhân viên của Trại Giam Đầm Đùn có một tác động ghê gớm khiến mấy người nhìn nhau, lo sợ. Bị giam ở Trại Đầm Đùn, chỉ có chết mất xác!

Thấy không khí đã bớt nghiêm trọng, giám thị bèn xuống giọng ‘’thân mật’’ hơn:

- Nếu mấy người không giấu tù nhân mà biết chỗ tù nhân trốn thì chỉ cho tôi bắt, cũng nhẹ tội. Với bà con quen biết trong Bản, tôi che chở cho.

Thấy ông già còn đang suy nghĩ, hắn bước lại gần, khẽ nói:

- Chỉ cho tôi bắt tên tù vượt ngục. Ông già sẽ được thưởng lớn. Dù sao, ngày mai tôi sẽ cho ông, bà một ký lô muối.

Ông già, bà già cùng lặng thinh. Hắn tấn công thêm, để giải quyết cho xong sự rắc rối:

- Tôi sẽ che chở nếu ông bà già là người ‘’biết chuyện’’. Tôi sẽ thưởng cho ông bà, cả ký muối với nhiều thứ khác...

Hắn thảm nhiên, đường hoàng bước xuống cầu thang sau khi đe dọa lần chót:

- Bây giờ, tôi về trại trình sự việc lên thượng cấp. Mai, tôi sẽ trở lại với lệnh trên.

Tên giám thị ra khỏi cổng, khấp khởi mừng thầm thoát khỏi nguy hiểm. ‘’Hủ hóa’’ là một tội rất nặng theo luật lệ của trại giam, đối với nhân viên cũng như tù.

...Ông già Mán lầm lì ngồi xuống sàn bỏ mồi thuốc vào điếu, kéo một hơi thật dài, nhìn khói tỏa, cau mày lại suy nghĩ...Đóm cháy hết, lửa bén đến tay mà không biết...

Trong lúc tên giám thị đang ‘’hủ hóa’’ với thiếu phụ Slao, bọn Mán năm người chia làm hai tốp, đi lùng tù 982 đặng giành lấy ba lô muối quý như vàng. Năm con chó, luôn luôn kéo thẳng sợi dây tiến vào rừng, thỉnh thoảng hướng mũi lên cao sủa bâng quơ mấy tiếng khiến đàn chim đậu trên cánh vỗ cánh bay ào ào.

Nhưng bọn người Mán thấy ngay lùng kiếm vớ vẩn như vậy chỉ trông cậy vào sự may rủi, chỉ trường hợp tù vượt ngục ốm yếu quá, không lết được đành ngồi trong một bụi rậm hay nấp trong hang hốc nào đó, chờ chết hay chờ bị bắt lại, họ mới tìm được. Con đường rừng trăm ngàn ngả khác nhau, nơi thưa cây, quãng rậm rạp, biết tù vượt trại nấp ở đâu mà kiếm nếu không nhờ chó đánh hơi.

Chi bằng quay lại Trại Giam Đầm Đùn trước đã, cho chó săn ngửi cái ‘’hơi’’ của tù 982 còn để lại nơi nằm ngồi trước hoặc ở đồ vật như cùm, chiếu, quần áo chẳng hạn.

Có làm như thế mới chắc chắn thu được kết quả.

Bàn nhau như trên, bọn thợ săn thứ nhất gồm ba người quay trở lại trại giam.

Trước cổng trại, một người lính cảnh vệ hung hăng cầm ngang cây súng trường, chặn mấy người Mán, quát:

- Đứng lại!

Bọn người Mán đứng khựng lại, bán tính giây lát rồi một người tiến lên, trình bầy sự việc. Tên cảnh vệ không hề nghe nói về chuyện này nên lại chòi canh cho người phụ tá vào trình sự việc với văn phòng. Lát sau, một giám thị ra dẫn ba người Mán nói chuyện, anh ta cũng là dân thiểu số, có quen biết mấy người có cho săn.

Sau đó, giám thị được lệnh của phó trưởng ban quản trị trại dẫn mấy người Mán và đàn chó xuống lều phong vương. Được dắt lên sàn lều cho đánh hơi thật kỹ hai tấm ván cùm, chiếc nón lá và chỗ ăn nằm của 982, đàn chó hiểu công tác trao cho chúng, vừa đánh hơi vừa rít, và kích thích đặt biệt. Khi xuống bãi cỏ, chúng kéo căng sợi dây tiến ngay lại hàng rào, nơi 982 đã đào ngạch để chui. Nhưng lỗ này đã được lấp kín.

Những tù nhân đang lao tác trong trại thấy mấy người Mán dẫn cho đến lều phong vương, biết rằng việc truy tầm 982 đã tới giai đoạn kịch liệt.

Họ đưa mắt cho nhau thay lời. Một tù nhân già đang gánh nước tưới mấy mẫu cà, không thấy bóng giám thị, buộc miệng than thầm với người bạn đồng cảnh, râu cũng đã bạc trắng:

- Đằng nào cũng chết, chết mẹ nó trong trại cho đỡ vất vả! Trốn làm gì?

May thay, những lời phê bình mất ‘’lập trường’’, như thế không lọt vào tai giới chức.

Thợ rèn đang quai búa trên đe, thấy người và chó đứng lố nhố trên sàn lều phong vương, bất giác nghĩ đến thiếu niên Hợi bị gọi lên lên văn phòng rồi bị giữ, hoặc bị nhốt xuống xà-lim, bặt tin và mất tích luôn.

Lát sau, ba người Mán đi ngang lò rèn, vòng ra cửa sau trại vào rừng cho tiện đường.

Tiếng chó sủa mỗi phút một xa...Rồi mất luôn. Đàn chó đã dẫn chủ vào trong rừng đuổi theo tên tù trốn.

Ba người Mán và ba con chó tiến về phía Tây Bắc, theo đúng con đường 982 đã lần mò đi qua, vào đến khu rừng thưa thì đã quá trưa được một lúc. Còn có bốn tiếng đồng hồ để tìm kiếm, họ chỉ đi theo một đường vòng cách trung tâm trại không quá 4 cây số.

Vào đến rừng, họ tháo dây cột, mấy con chó được tự do chạy qua chạy lại, đánh hơi trên mặt đất hay hướng mũi lên cao bắt hơi trong gió.

Đến xế chiều, mấy người Mán ‘’hú’’ gọi nhau, cùng quay về Bản. Không có kết quả. Không gặp dấu vết gì khả nghi, cũng không gặp người nào đi rừng để hỏi thăm về hành tung tên tù trốn trại.

Ngày thứ hai, cả năm người Mán dắt chó đi hết về phía Tây Bắc. Kinh nghiệm cho biết trong mười người tù vượt ngục có đến tám người trốn về mạn rừng Tây Bắc để tìm đường về vùng Bỉm Sơn, Đồng Giao để bỏ thây trong miệng cọp hoặc rơi vào tay bộ đội thường xuyên di chuyển dọc theo Quốc Lộ 1, từ Thanh Hóa ra Ninh Bình, Nam Định.

Bữa nay, chuẩn bị lương thực ăn hai ngày đường, họ dậy sớm quấy bột ngô thành một thứ bánh đúc hoặc cho gạo nếp và nước vào ống giang bịt kín, đốt ống cho chín gạo thành cơm nếp rồi gói theo muối, ớt để ăn đường. Ngoài ống tre đựng nước, con dao rừng, tên độc, tên thường và cây ná là những thứ không thể thiếu khi đi rừng, họ còn mang theo một bó ‘’dây luôc’’ nhỏ mà rất chắc, dài tới vài ba chục thước, phòng khi phải quăng dây lội qua con suối nước chảy xiết, hoặc trói giữ tên tù trốn trại.

Con dao rừng không rời tay, họ ngước nhìn những ngọn cây rậm rạp, ngó kỹ những hốc, những hang, mỗi lần ngờ trong bụi có người nấp, họ ‘’suỵt’’ chó sục vào đánh hơi.

Cho tới quá trưa, vẫn không có kết quả. Tên tù trốn không để lại tăm hơi dấu vết gì.

Gần chiều, mấy người Mán ngồi nghỉ bên một gốc cây cổ thụ, giở lương thực ra ăn. Bỗng có tiếng động cơ máy bay ì ì lại gần rất mau. Liền sau, ba chiếc phi cơ khu trục của quân đội Pháp đã ầm ầm bay sát ngọn cây. Cả người lẫn chó đều rúm lại vì sợ hãi. Mấy người Mãn vừa nép mình vào thân cây bưng chặt lấy tai, máy bay đã mất dạng. Ít lâu nay, phi cơ Pháp thường bay rà rà trên các vùng thôn quê, các vùng đồi núi để khủng bố dân chúng, nhất là để oanh kích các toàn bộ đội và những đám dân công đào đường, hoặc gánh lương thực, đạt dược, võ khí tiếp tế cho bộ đội ở Khu Tư.

Ăn xong, ba người Mãn lại tiếp tục công việc lùng kiếm. Họ đi được gần hai cây số trong rừng, bỗng mấy con chó sủa lên dữ dội rồi xăm xăm chạy về đám cây um tùm phía trước một cách bất ngờ. Am tường địa thế, mấy người Mán biết gần đây có một cái am nhỏ bằng cây đã xiêu vẹo, cất trên một khu đất bằng phẳng. Nhưng bên trên khoảng đất lại là một tàn cây rậm rạp, lá cành đan kẽ với nhau làm thành một mái lá thiên nhiên xanh um, những loại cây hoang đã leo lên các thân cây, cành cây, bắt gặp nhau trên lưng chừng không, quấn quít che kín khiến ánh nắng không lọt xuống được, mặt đất quanh năm suốt tháng ẩm ướt.

Theo tục lệ của dân thiểu số địa phương, mỗi khi đi qua miếu này họ thường vào làm lễ, van vái. Nhiều người đã kể lại những chuyện hiển linh khó hiểu của Thần Rừng. Còn bộ đội nhân dân khi qua khu rừng này, vẫn ngồi nghỉ trên khoảng đất phẳng phiu quanh miếu, hoặc mang lương thực ra ăn, trước khi tiếp tục chuyển đi. Những toán dân công, đông cả mấy ngàn người, chuyển vận võ khí cho bộ đội trấn giữ miền rừng núi, cũng dừng lại nơi đây một vài tiếng đồng hồ để giải lao hay ăn uống.

Ba người Mán huýt gió gọi chó, xòe bàn tay đập nhè nhẹ vào đầu mấy con, vật ra hiệu im tiếng. Rồi họ dừng lại nghe ngóng động tĩnh. Thấp thoáng sau những bụi rậm rạp gần miếu như có bóng người. Họ bàn nhau giây lát, rồi chia làm ba mặt, tiến lại gần miếu. Bỗng có tiếng quát khiến mấy anh Mán giật nẩy mình.

- Đứng lại!

Từ sau một gốc cây cổ thụ, một anh bộ đội tư thế cận chiến đột nhiên xuất hiện. Ba anh Mán bị mấy anh bộ đội chận lại cùng lúc. Rồi thì đám dân công từ phía sau ùa đến, nhanh nhẹn lần khám trong mình ba anh Mán đứng chung một chỗ sừng sộ hỏi:

- Mấy người đi đâu? Làm gì ở trong rừng mà dắt theo chó? Đưa coi chứng minh thư.

Mấy người Mãn sợ hãi móc túi lấy chứng minh thư. Xong, họ trình bày công việc của họ bằng thứ tiếng Việt Nam chưa sõi lắm. Anh bộ đội vốn i tờ nên càng không hiểu, bàn nhau trói ba người Mán dẫn đi theo, khi đến Bản gần nhất, sẽ trao cho ủy ban xét xử gian ngay. Thời thế này, không biết đâu mà tin được, nhất là trong sắc dân thiểu số, nhiều phần tử, tỏ ra chống đối, vẫn còn thái độ lạc hậu lưu luyến chế độ cũ. May thay, trong đám bộ đội có một người Mán, nhờ người này thông ngôn, anh cán bộ chỉ huy mới hết nghi ngờ và trả lại tự do cho ba người Mán đi công tác.

Lát sau, đoàn dân công lên đường xuyên rừng đi về phía Nam. Bọn người Mán lại tiếp tục tiến lên Tây Bắc, đi vòng sang cánh rừng bên mé trái vì họ suy tính rằng tên tù vượt ngục không bị bộ đội và đoàn dân công phát giác thì chắc chắn hắn không đi cùng một con đường với đoàn dân công.

Đến gần chiều, họ vào một Bản tìm nhà người quen ngủ trọ và dò la tin tức. Sáng hôm sau, họ lại lên đường sau khi chuẩn bị lương thực.

Xế chiều ngày thứ tư trong cuộc tìm kiếm, bọn người Mán lại vào Bản, kiếm nhà thân thuộc ngủ đêm. Họ rất mệt mỏi, bực tức vì công việc chưa mang lại kết quả. Hay tên tù đã chết gục ở bờ bụi khe hốc nào đó, hoặc bị thú rừng bắt ăn thịt rồi cũng nên? Tính ra từ đây về Trại Đầm Đùn, xa đến mười cây số.

Dù vừa đi vừa chạy, tên tù vượt ngục cũng khó lòng vượt xa quá quãng đường này, vì không thuộc đường lối trong rừng. Vả lại, hắn không dám cứ đi thẳng đường mà đi như vô tội. Còn phải tránh né những Bản, những làng, những người đi lại trên con đường mòn, những người kiếm củi trong rừng hoặc làm rẫy, đi săn v.v...Không tránh né, lẩn trốn sẽ bị lộ tung tích ngay, khi đã lộ tung tích, chỉ trong nửa ngày, một ngày sẽ bị túm đầu liền. Chính dân làng tự động đến vây bắt, không cần phải có lệnh.

Tuy mệt mỏi, bọn người Mán vẫn hăm hở như thường. Ba ký lô muối là một phần thưởng lớn lắm, giúp người dân thiểu số bao nhiêu ích lợi quan trọng thiết thực. Ngày mai, họ sẽ lùng kỹ càng hơn nữa trong mấy khu rừng rận, nếu không kết quả, họ sẽ quay về Trại Đầm Đùn hỏi tin tức. Biết đâu trong khi họ lùng kiếm một nơi, tên tù vượt ngục đã bị bắt ở một nơi khác, dẫn về trại rồi không chừng. Chứ không lý nào!

Đêm đó, ba người Mán ngồi quanh bếp lửa trên nhà sàn nọ, đem câu chuyện đi lùng bắt tù vượt ngục ra bàn với chủ nhân. Bất ngờ, họ được nghe kể một vụ trộm vừa xẩy ra trong Bản khiến họ càng nôn nao chờ sáng.

Từ bao lâu nay, không xẩy vụ trộm cắp nào trong vùng.

Lúc bấy giờ vào khoảng bốn giờ chiều.

Một thiếu phụ ra suối giặt, khi trở về nhà thấy cổng ngõ mở chốt tự bao giờ. Con chó vệt thấy người lạ trong vườn, đuổi theo táp một miếng vào cổ chân khiến kẻ gian ngã lăn quay. Hắn ta hươi cây gậy đuổi chó rồi tập tễnh chạy vào rừng, mất dạng luôn.

Đồ đạc, vật dụng, không mất gì ngoài một miếng cơm nếp và bánh đúc ngô, kẻ gian lục lọi trong nồi lấy ra ăn tại chỗ, cơm và ngô còn vãi trên sàn chưa kịp nhặt cho sạch.

Người ta kết luận rằng kẻ gian chỉ vào nhà kiếm thức ăn vì đói chứ không chủ tâm trộm đồ vật.

Ba người Mán thầm đoán kẻ trộm bất đắc dĩ rất có thể là tên tù vượt ngục. Không kiếm được thức ăn trong rừng, y phải liền vào nhà dân chúng kiếm bữa qua cơn đói.

Sáng hôm sau, chuẩn bị lương thực đầy đủ, đợi mặt trời lên ngọc cây, ba người Mán lại vào rừng tiến hành công tác, trong lòng háo hức như nắm chắc kết quả trong tay.

Họ xông vào một khu rừng rận, cành cây đan kẽ nhau trên cao như một tấm ‘’trần’’, đây đó một khoảng ánh nắng lọt xuống nhấp nháy lay động. Đêm hồi hôm, trời mưa, cỏ cây ướt nhẹp. Vắt rừng này nhiều quá chừng, bám đầy cẳng chân người và mình chó. Mấy con vật, bùn lấm lên tận tai, luôn luôn dừng lại gãi cho rớt vắt bám chặt dưới bụng. Tuy nhiên, sáng nay chúng bị kích thích mạnh nên sục sạo, hướng mũi lên ngọn cây đánh hơi, rồi sủa những tiếng ‘’báo động’’. Bọn người Mán nhận định ra tiếng sủa đặc biệt, thì thầm bảo nhau:

- Con ‘’cẩu’’ nó bắt được ‘’hơi’’ không chừng!

Thốt nhiên, ba con chó băng băng đến một cây đa cổ thụ gần con suối nhỏ xanh như rêu. Họ tất tả đuổi theo chó, lăm lăm con dao rừng, nhìn nhớn nhác. Đến bên gốc cây đa ba con chó nhất tề dừng lại, trõ mõm sủa ran.

Nhưng trên cây vẫn không thấy gì khác lạ.

Ba người Mán đi vòng quanh gốc cây, lựa chỗ nhìn lên quan sát, sợ cành lá um tùm che kín không phát giác được tên tù vượt ngục chăng? Nhưng vẫn không thấy bóng người. Trên cây, có trăn độc, thú dữ nên chó đánh hơi lầm?

Ba con chó bị khích thích quá độ, cứ chạy quanh gốc cây sủa tới tấp không ngớt. Tiếng sủa vang tận vách núi. Một đàn chim rừng vỗ cánh bay ào ạt trên ngọn cây bên kia bờ suối. Bọn thợ săn bàn nhau:

- Hay chúng ta leo lên cây để kiếm cho kỹ?

Rồi một người xum xoe sắn tay áo, sắn ống quần, kiếm chỗ trèo.

Một người khác đã nhận thấy dấu vết đặc biệt trên cây, nhưng không muốn cho hai người kia biết, kiếm cớ ngăn cản và nói:

- Nếu trên cây có người ẩn nấp, tất chúng ta đã tìm thấy. Trái lại, chỉ nghe chó sủa mà không thấy người, không chừng trên cây có rắn độc. Ta cần đề phòng cho kỹ kẻo nguy hiểm...

Hai người kia phân vân, tay vẫn không rời con dao rừng, tiếp tục bước vòng quanh gốc cây, mắt ngước nhìm cành lá um tùm không chớp. Vẫn không thấy gì khác lạ. Nhưng khi nhận ra thái độ đặc biệt của người thứ ba, hai người đưa mắt ngầm cho nhau, tỏ vẻ ngờ vực. Trong khi đó, ba con chó tự chúng tập trung lại cùng một chỗ, hướng thẳng mũi lên ngọn cây liên tiếp sủa dữ dội. Đám lông trên gáy và dọc theo xương sống đến đuôi dựng đứng lên, cho biết chúng đã khám phá ra có ‘’vật lạ’’. Không thể báo động lầm được!

Đột nhiên, người Mán lớn tuổi bảo hai người kia:

- Hai chú đứng dưới đất, đợi tôi leo lên cây, coi có gì khác không?

Anh ta dựng con dao rừng trong gùi rồi không đợi trả lời, thoăn thoắt nắm những rễ rủ của cây đa, leo lên nhanh như khỉ. Nhưng lên cao khoảng hai đầu người, anh ta bỗng dừng lại, chăm chú quan sát.

Đúng lúc đó, trên cành cây có tiếng sột soạt khác lạ tại một khoảng rậm rạp nhất. Rồi một hình thù gì không rõ rệt, loay hoay nhấp nhổm trong đám cành lá chằng chịt tối thui, chợt hiện ra rồi lại chợt biến đi hai ba lần khiến mấy người Mán ngơ ngác, chưa đoán ra là cái gì.

Đàn chó lồng lộn nhầy chồm lên sủa dữ dội hơn nữa, vang rân cả khu rừng.

Trong đám cành lá, cái hình thù không rõ rệt kia bỗng vươn dài rồi đứng lên. Một cái gì như một cánh tay vạch lá, để lộ bộ mặt người mà không phải mặt người. Nhìn kỹ thấy một bộ mặt trơ xương, hai gò má nhô lên nhọn hoắc, đất cát, nhựa cây bôi lem luốc trên mặt như người rừng với bộ râu đen thui. Bộ mặt ấy thò ra khỏi đám lá, ngó quanh quẩn rồi mệt nhọc buồn bã nhìn xuống mấy con chó đang sủa dữ dội hơn lúc nào hết.

Hai người Mán đứng dưới gốc cây vẫn sững sờ, không rõ có phải con mồi họ lùng kiếm không? Đúng lúc đó, cái hình dáng người đứng trên cây liệng một cái bọc xuống cỏ, rồi một giọng yếu đuối chán chường hổn hển cất lên, nghe thăm thẳm xa xôi như từ hang hốc nào vẳng tới:

- Các ông ơi! Tôi đây này! Tôi xuống cho các ông bắt. Không phải leo lên cây làm gì, mất công vô ích...!

Một tia nắng bỗng chiếu chênh chết vào giữa mặt con người dị dạng nọ...Tức thì ba cái miệng cùng la lên một lần:

- Bắt lấy nó! Bắt lấy nó!!

XVII.

Vượt trại giam được ba đêm hai ngày, 982 lâm vào một tình trạng thập phần nguy nan, không thể nào tả xiết. Cơn đói phát hiện cấp bách từng phút từng giây đến nỗi anh tù vượt ngục không lo bị bắt bằng lo gục xuống chết bất ngờ giữa rừng vì đói.

Cả ngày hôm qua, 982 chỉ kiếm được một nắm lá và ít rau vớ vẩn bỏ miệng. Trên mép suối sát mặt nước, có mấy cây rau dền và một búi nhỏ cây càng cua. 982 lật đật vặt hết, nhúng xuống suối rửa sạch rồi vẩy mạnh cho ráo nước, cuộn lại từng miếng nhỏ, cho vào miệng, nhai ròn rã. Rau mày ăn sống không có gia vị, ngai ngái tanh tanh rất khó nuốt. 982 xuýt xoa tiếng: Phải chi có mấy hạt muối thì đỡ quá.

Ngốn rau xong, 982 mở bao tải lấy mấy trái ổi xanh, nhá luôn, bất kể rắn như đá và chát lè. Tuy đói phát run người, 982 cũng chỉ nhá hết ba trái ổi là bứ họng.

Chiều hôm qua đi ngang một sườn đồi, 982 gặp một rẫy trồng khoai mì nhưng chưa cây nào cao quá một thước thì làm gì đã có củ! Vừa tiếc vừa bực, anh ta hái hai nắm ngọn và là non khoai mì bỏ vào bao bố, tuy chưa biết có ăn được không?

Ngày thứ hai qua trong một cơn đói liên tục, rấm rứt liên miên. Sáng sớm ngày thứ ba, khi thái dương vừa mọc, 982 ngồi trên một tảng đá, ngó ngọn đồi ở bìa rừng. Lưng chừng đồi, mấy căn nhà sàn cao lênh khênh của dân thiểu số lờ mờ trong sương như cảnh trong tranh.

Những cảnh vật trước mắt mờ dần rồi nhòe hẳn. 982 hoảng sợ trừng mắt trầm tĩnh tinh thần nhìn cho kỹ nhưng vô hiệu, anh vẫn thấy chập chờn, những hình thù không rõ rệt rung rinh lúc biến lúc hiện. Đúng vậy, 982 lại bị hoa mắt vì quá đói. Anh co hai đầu gối vào sát bụng vòng tay ôm thật chặt, cố nén chặt bao tử lép xẹp. Đó là cử chỉ bóp bụng tù nhân thường làm khi bị cơn đói hành hạ.

Nhưng không lý nào chịu chết đói! Nếu không kiếm được thức ăn trong rừng thì kiếm trong Bản, chung quanh Bản, sợ gì? Chỉ sợ đói chớ không sợ người, khỏi sợ bất cứ thứ gì!

Trong cơn đói, 982 trở nên bất cần, hết sợ bị bắt lại.

Anh ta vụt đứng lên, xăm xăm băng ngang cửa rừng tới ngọn đồi. Được một quãng, anh chợt đứng sững nhìn xuống cổ chân. Những vết trầy trụa đã tấy lên, đang làm mủ. Nếu không giữ gìn, rất dễ bị sâu quảng. Mà sâu quảng thì què, thì chết! Khỏi có lết được nữa!

982 bừng bừng nổi giận. Họa vô đơn chí là như vậy.

- Nhưng ta phải sống bằng bất cứ giá nào!

Anh ta tự nhủ sẽ làm bất cứ điều gì để giành sự sống. Nhưng đi được một thôi đường, khi gần tới Bản, 982 cũng ngập ngừng, vòng ra những bãi đất dưới thung lũng. Gần Bản phải có rẫy. Trước khi vào Bản ta hãy ra rẫy, may ra kiếm được củ khoai, củ sắn chăng?

Lát sau, 982 men theo mấy lùm cây đến gần một ruộng mía. Gió rừng thổ, lá khô chạy xào xạc như người chạy. 982 ngồi thụp xuống dưới bụi rậm, hồi hộp lạ thường. Trước mắt là ruộng mía tươi tốt. Những ngọn lá mía bị làn gió thổi rạp, mềm mại như những giải lụa. Anh ta mừng quá đỗi là mừng, bất giác rãi ứ đầy miệng. Nghe ngóng giây lát, 982 chép miệng rồi nôn nả lom khom chui vào giữa rộng mía, ngó từng gốc cây để lựa.

Là vì mía hãy còn non quá, mới có khoảng hai, ba đốt nhô lên khỏi mặt đất.

- Thây kệ, non cũng nhá liền...

982 lựa hai, ba cây lớn nhất, nhổ phắt lên, đập gốc mía cho rớt hết rồi xách ra khỏi ruộng, cuống cuồng chạy vào rừng. Tới đây, anh nấp sau bụi rậm, rút dao chặt cụt ngọn định đưa lên miệng nhai bỗng nghe có tiếng la ở phía nhà sàn xa rồi thấp thoáng có những người mặc quần áo chàm vác gậy và dao chạy lại nơi anh ta nấp.

982 hoảng sợ cắm cổ chạy, vừa ngó phương hướng vừa ngó chừng bọn người rượt theo. Chạy được khoảng cây số thì kiệt sức, anh ta bèn ngồi thu mình sau một gốc cây lớn ngó dáo dác tìm những bóng người đuổi theo. Không thấy gì, anh ta đưa mía lên miệng nhai cho đỡ thèm.

Mặc dầu mía còn non, nhưng chất nước mía đã ngọt, mát, thấm đến đâu, 982 tỉnh người đến đấy, chẳng khác chi người bệnh nặng gặp được thuốc tiên.

Anh ta còn đang nghĩ bụng sẽ quay trở lại ruộng mía vào lúc xâm xẩm tối chợt thấy bốn năm người mặc quần áo chàm đang sục sạo trong bụi cây ở đàng xa. Hết hồn hết vía, 982 xách bao bố, dắt nhanh con dao rồi bất kể gai góc sình lầy, đâm đầu chạy thẳng một thôi dài mới dám dừng lại thở. Chất nước ngọt bổ dưỡng của mấy khúc mía coi như tiêu tan hết vì cuộc chạy tốn sức vừa rồi. Hai chân tóe máu lên láng lúc nào không biết. Hèn gì trong khi chạy 982 có cảm giác nhột nhột ở hai mu bàn chân!

Đêm xuống, trời bỗng lạnh khác thường! Gió rừng thổi ào ào. Ngồi trên cây, 982 run bần bật. Anh ta chụp bao bố qua đầu xuống đến vai, quấn chặt lại cho ấm, chỉ để thò đầu ra ngoài, rồi lấy chiếc áo cánh rách chùm lên đầu, hai tay áo buộc dưới cằm. Đêm đó, 982 nghe thấy tiếng nói mớ và rên hừ hừ của anh nên hốt hoảng tỉnh dậy mấy lần.

Sáng ngày thứ năm, 982 thức thật sớm. Trong rừng, còn tối thui. Đến tiếng đồng hồ sau mới nghe tiếng gà rừng gáy rồi trời sáng rõ. 982 vừa lộ vẻ nhọc mệt vừa lộ vẻ tàn nhẫn, dữ tợn. Hôm nay, anh quyết định làm hai việc phi thường. Nếu không, sẽ bỏ mạng trong rừng.

Trước tiên, anh sẽ đường hoàng đi trên đường mòn. Gặp người, sẽ xin ăn, không cho thì cướp, nếu cần, dùng dao. Không lẽ bó tay chịu chết.

Thứ hai, vào trong Bản ăn trộm. Trộm thức ăn, quần áo và đồ vật khác nếu được, nhất là cái ‘’bùi nhùi’’ đánh lửa và con dao rừng. Đi rừng mà thiếu dao sắc, khỏe, có cán dài, là không được.

Ăn trộm được ngũ cốc sống vào rừng đốt lửa nướng chín làm lương thực ăn đường rồi đi một mạch về Chi Nê, Nho Quan. Chứ vượt ngục đi trốn trong rừng mà cứ lẩn quẩn, ngơ ngác mất hồn mất vía vì đói, trước sau gì cũng đến hậu quả thảm khốc là chết gục, hoặc bị bắt lại.

Chi bằng, liều trong hoàn cảnh nguy nam thập phần này.

982 hăng hái mở hầu bao bốc một dúm gạo sống nhai từng miếng nhỏ. Cần có chất gạo cho cơ thể mới đủ sức thực hiện ý định. Đây là lần đầu tiên, 982 đành ăn gạo sống sau mấy ngày nhịn đói trong rừng.

Nhai gạo xong, tìm một vũng nước mưa đọng trong hõm đá 982 ngắt lá làm môi, múc nước bốn năm hơi. Rồi xách bao bố lững thững ra con đường mòn. Có chất ngũ cốc trong bao tử, 982 tỉnh táo đôi chút.

Mặt trời đã lên cao, chim chóc ríu rít hót rộn rã trong rừng.

982 nhìn mặt trời để định hướng phương hướng như anh có thói quen mỗi lần lên đường sau chặng nghỉ. Rồi lầm lũi đi về khoảng rừng thưa cây, đoán thế nào cũng gặp đường mòn, tay xách chiếc bao tải đã buộc gọn thành một gói nhỏ, tay kia chống gậy cho khỏi trơn, con dao găm gài ngang thắt lưng lẩn sau vạt áo cánh, sẵn sàng...

982 hầm hầm tức giận. Giờ phút này nước đến chân, anh mới thấy rõ mấy ngày qua không có ngay kế hoạch phấn đấu để giành sự sống mà chỉ trông chờ ở sự may rủi tìm được thực vật, hoa quả trong rừng, thật là ngu dại! Tất nhiên, không tìm được là bị lả, bị kiệt sức. So với lúc mới ra đi, sức chịu đựng của 982 đã giảm sút rõ rệt.

- Ta chết đói trong rừng, chết nhục nhã, có đứa nào thương ta đâu? Thế tại sao ta không thí mạng để cướp mà có, giết mà sống?

Trước kia, ta tranh đấu cho ‘’thiên hạ’’ nên mới khổ, mới bị tù tội như thế này. Giây phút này, ta chiến đấu cho sự sống còn của chính bản thân, cho khỏi chết đói như con chó hoang. Sao không được?!

Chuẩn bị tinh thần bằng những ý nghĩ trên, 982 vững bụng hơn rất nhiều.

Giờ phút chót, 982 chủ trương dùng sức mạnh giành sự sống. Nghĩa là để vượt qua cơn đói khổ cực. Rừng, thiên nhiên không cho thức ăn bỏ vào cái bụng lép xẹp, buộc lòng cướp của đồng loại, vậy.

Đang suy nghĩ, tự biện luận với mình, anh ta giật mình đến thót một cái, ngồi xuống nấp sau một bụi rậm. Từ phía lùm cây trước mặt, lố nhố có ba người đàn ông tiến lại gần đi hàng một. Cả ba đều đội nón lá, mặc quần áo ka ki kiểu cán bộ cao cấp, lưng đeo ba lô giầy cộm.

Tới trước bụi cây 982 đang nấp, tình cờ làm sao, người đi giữa dừng lại đốt thuốc lá. Hai người kia cũng dừng theo và khi người nọ đưa cho mỗi người một điếu, hai người kia lễ phép cám ơn rồi xin lửa mồi thuốc, 982 tái mặt vì sợ. Nếu họ đi vòng ra sau bụi cây chừng năm thước thôi, thế nào 982 cũng lộ nguyên hình là tên tù vượt ngục đang bị săn đuổi. May thay, họ chỉ dừng lại nói chuyện vài giây. Cả hai người cùng võ trang súng lục, một người rõ ràng là cấp chỉ huy của hai người kia, dắt hai khẩu súng lục, một khẩu rất lớn.

982 ngạc nhiên hết sức khi chợt nhận ra ‘’người chỉ huy’’ có bộ mặt rất quen, nhất thời vì hoảng hốt anh không nhớ ra là ai.

Người nọ lạnh lùng hỏi:

- Còn chừng bao nhiêu cây số?

Một người lễ phép trả lời:

- Thưa đồng chí, chừng 13, 14 cây số nữa.

- Gần đây, có ‘’căn cứ’’ nào của ta không?

- Dạ có...trong làng Mán, cách trại 3 cây số.

Người chỉ huy ngẫn nghĩ rồi hỏi:

- Ở khu này, ta có ‘’tiểu tổ’’ nào không?

- Dạ, có...cách đây chừng hai cây số, trong một xóm nhỏ...gần làng Mường X...

- Vẫn liên lạc điều hòa chứ?

- Vẫn điều hòa...

Người chỉ huy ngẫm nghĩ giây lát, rồi nói:

- Nhân đi qua, ta vào liên lạc trước, báo tin vài hôm nữa ta sẽ đưa về đây nghỉ ngơi ít ngày, những anh em bịnh tật, ốm đau. Rồi mới đưa đi sau. Cho họ bố trí trước. Giấy tờ, chứng minh thư hợp lệ ta đã có đủ hết.

- Dạ...

Bàn tính xong, họ tiếp tục đi hàng một như trước, 982 chưa dám ló đầu ra vội, ngồi một lúc thật lâu cho hoàn hồn. Anh ta băn khoăn quá, cố bới trong trí mà vẫn chưa nhớ ra ‘’người có bộ mặt rất quen’’ đó là ai? Hắn là giám đốc một trại giam nào chăng? Câu chuyện họ nói có ý nghĩa như thế nào?

982 bỗng buốt đến nhói một cái ở chân, lật đật cúi xuống coi. Có mấy con vắt bám vào những vết thương ở chân anh ta hút máu. Cau có, 982 nắm chặt ngang mình con vắt, nhưng mình nó trơn quá, đành phải nhổ nước miếng vào mới bứt ra được. Nước miếng anh khô đặc như cơ thể anh thiếu cả nước. Tư tưởng giành sống lại dồn dập trong đầu. Gần đấy có một tảng đá cao, anh ta thụt xuống ngồi nấy, mắt lom lom nhìn ngược, nhìn xuôi trên đường mòn.

Từ xa, một người đàn bà thiểu số gánh một gánh thóc hay gạo gì đó. Khi thiếu phụ tới gần, 982 thấy mụ còn ‘’địu’’ một đứa nhỏ sau lưng. Đầu đứa nhỏ nghiên về một bên, lắc lư theo nhịp bước. Anh ta cuống cuống nhìn phía trên, phía dưới. Đường vắng tanh không một bóng người! Chỉ có lá cây xào xạc. 982 tự hối thúc: ‘’tấn công luôn đi, không thì chết đói’’.

Nghĩ vậy, 982 bật lên như chiếc lò xo, nhẩy phắt xuống đường dữ tợn như tên cướp thực thụ, chắn ngang lối đi, vung cây gậy trong tay ra hiệu ngừng lại. Thiếu phụ Mường thất kinh, la lên một tiếng, đứng sững nhìn 982, lắp bắp không thành tiếng:

- Cái gì? Cái Gì?

Thiếu phụ nói tiếng Việt khá rõ ràng. 982 quát lớn, để tự trần tĩnh hơn là dọa nạt đối phương:

- Đứng lại, tôi hỏi...

Thiếu phụ ngó sững kẻ cướp đường, chừng như thấy bộ vó của y không đáng sợ, liền đặt gánh xuống thật lẹ, rút ngay con dao rừng đặt trên đòn gánh mà lúc đầu 982 không thấy, lăm lăm cầm tay. Coi bộ thiếu phụ sẵn sàng đối phó bằng khí giới. 982 phân vân khó nghĩ, nhìn thẳng vào mặt thiếu phụ. Mụ ta cũng nhìn vào mắt anh, cặp mắt mụ sếch, sáng quắc, dữ tợn. Khi thấy kẻ lạ gầy còm, mặt mày lơ láo như đang có bịnh, râu ria lờm chởm, thiếu phụ đoán chừng không phải kẻ cướp nên tỏ ra bớt hung hăng. Tuy thế, mụ ta vẫn gắt gỏng, lăm lăm con dao rừng:

- Muốn cái gì?

Lạ thay, trong phút giây, bao quyết tâm hung hãm biến đâu hết. Giọng nói bỗng trở nên nhọc mệt, 982 chậm rãi gần như phân trần:

- Tôi đi làm rừng xa, bị bệnh, phải trở về quê gần Nho Quan, Vì lạc đường, không tìm được nhà bà con. Tôi...đói quá. Xin cho tôi một miếng ăn, làm phúc...Tôi đói quá, cô ơi!!

982 không nói sai, anh đang đói thắt ruột thắt gan. Nhưng anh ta muốn nói những lời tử tế trước khi đi đến chỗ quyết liệt. Hai tay ôm bụng, thoáng trong một giây, mồ hôi anh vã ra đầm đìa trên mặt, trên cổ, khiến anh ta đưa ngón tay gạt mồ hôi, vẩy xuống đất. Thiếu phụ nhìn 982 từ đầu đến chân rồi hỏi:

- Đói...hả? Tôi không...

Chưa nói hết câu, thiếu phụ chừng nhớ ra, cúi xuống giở mẹt đậy thúng. Thúng đựng toàn thóc...thóc! 982 thất vọng quá, thở dài. Thiếu phụ quay lại thúng sau, giở mẹt, 982 sáng mắt lên khi thấy một củ khoai lang luộc nằm giữa thùng thóc. Thiếu phụ chìa củ khoai cho 982, rấm rắn nói:

- Có một củ khoai để dành cho thằng nhỏ này ăn khỏi đói. Nó chưa ăn. Thôi, ông ăn đi. Tôi gần về đến nhà rồi.

982 run run đưa tay ra chụp lấy củ khoai lang, miệng lí nhí ‘’cám ơn’’ rồi bẻ luôn củ khoai bỏ nào miệng nuốt. Hai hàng nước mắt 982 bỗng trào ra. Không biết anh ta khóc vì tủi thân, vì đẩy lùi được thần đói một ngày, hay thoát nhúng tay vào máu một cách vô ích? Củ khoai ngọt lừ như mật ong, chưa kịp nhai đã nuốt hết, chỉ nhấp nháy là 982 lại vẫn tay không!

982 mút tay chùn chụt như để ‘’ăn’’ hết cái hơi khoai còn dính rồi ngẩn ra nhìn thiếu phụ, quên phắt vai trò cướp đường đang đóng. Củ khoai tuy lớn nhưng không thấm đâu với một người ba, bốn ngày nhịn đói. Bất giác, 982 lại chìa tay như người ăn xin:

- Làm phúc cho tôi xin một củ nữa, khoai sống cũng được.

Thiếu phụ nhăn mặt, lắc đầu:

- Không có! Hết rồi!

Ngừng giây lát để quan sát, thiếu phụ lại nói:

- Đi theo tôi về Bản, tôi cho ăn no...

Chưa kịp quyết định ra sao, 982 lại hết hồn hết vía. Một bọn chừng mười người có vẻ là du kích quân địa phương đang đi tới, chỉ còn cách chừng 300 thước. 982 thoáng thấy những thanh mã tấu và những ngọn súng trường chỉa ngang chỉa dọc. Anh ta hoảng hốt ngó thiếu phụ, như năm nỉ:

- Tôi xin gánh đỡ cô về Bản...

982 nhặt lẹ đòn gánh, luồn vào quai quang, đặt gánh lên vai bước đi thoăn thoắt. Hơn năm trời làm tù trong các trại giam cộng sản, 982 gánh thạo như một nông phu thực thụ, và cũng vì thói quen ở trại giam vừa gánh vừa chạy. Thiếu phụ lẽo đẽo theo sau, không nói năng. Tới một bụi rậm, anh kín đáo quay lại ngó chừng bọn du kích quân. Chúng vẫn nhấp nhô ở đàng xa, như đang theo dõi anh.

982 bước mau hơn nữa. Nhưng có tiếng thiếu phụ Mường gọi, chỉ có anh đi vào con đường ngoằn ngoèo khác. Đi được một thôi đường, ngó lại thấy đám dân quân đã sang đường khác, 982 giả đò loạng choạng rồi đặt gánh xuống. Vết thương làm mủ ở hai cổ chân bật chảy máu chan hòa. Anh ngồi xuống xuýt xoa, bóp chân. Thiếu phụ Mường ngó thấy, thương hại:

- Kiếm lá mà đắp cho mau lành.

- Lá gì?

Thiếu phụ không nói, lại bên một bụi cây, kiếm loanh quanh rồi hái một nắm lá đầy chét tay, đưa cho 982 và nói:

- Giã nát ra rồi đắp vào vết thương.

982 lẳng lặng cầm, thấy hình dáng lá giống như là ‘’nhọ nồi’’ ở miền quê, anh lại hỏi:

- Cô ơi, từ đây về Nho Quan Chi Nê còn bao đường đất?

Thiếu phụ ngẫm nghĩ, lắc đầu tỏ vẻ xa lắm rồi trả lời:

- Sáu, bẩy...ngày đường!! Xa lắm!

- Đi về phía nào?

Thiếu phụ nhận định, chỉ tay về hướng Tây Bắc và nói:

- Đó...Chi Nê, Nho Quan ở mạn đó.

982 nhìn thiếu phụ Mường, nhìn đứa bé ‘’địu’’ trên lưng, đột ngột chắp tay nói:

- Cám ơn cô đã cho ăn. Thôi, tôi xin đi...

Rồi vội vã đi thẳng vào khoảng rừng phía tay phải, trong khi thiếu phụ Mường còn ngạc nhiên, không hiểu tại sao anh ta bất ngờ bỏ đi. Thật ra, 982 đã suy tính, tù vượt ngục, không có giấy tờ, chứng minh thư gì trong người lại dấn thân vào làng Mường một cách công khai, khác chi nộp mạng cho nhân dân, cho ủy ban địa phương đó.

Khi nẫy, anh phải gánh thóc cho thiếu phụ mà a