← Quay lại trang sách

PHỤC HỒI

Ta thường nói "Chó Má", tiếng Má đây chẳng hề là tiếng đệm vô nghĩa như nhiều người lầm tưởng. Má cũng có nghĩa là chó. Cuốn Việt Nam Từ Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo có ghi từ ngữ này. Thuở đó tôi còn được nghe thêm một lời giải thích: Con chó nào mà mình vứt xương chó ra, nó chạy tới ngửi rồi bỏ không ăn, ấy là con chó; con nào gậm liền, bất kể đó là xương đồng loại, ấy là con Má. Vậy Má có nghĩa là một thứ chó ngu dại gặm cả xương đồng loại. Tôi còn nhớ lắm, sau khi nghe giải thích thế nào là Chó, thế nào là Má, tôi về thử ngay con chó Tô nhà tôi (thày mẹ tôi đặt tên cho con chó đó là Tô) để xem nó là Chó hay là Má, bằng cách ném cho nó một miếng thịt và một khẩu xương chó. Nó chạy lại ve vẩy đuôi, cúi xuống hít hít mấy cái rồi bỏ miếng thịt và khúc xương trỏng trơ đấy, quay đi nơi khác. Tôi nhớ là khi thử như vậy lòng có hồi hộp và khi khám phá ra rằng con Tô nhà tôi thuộc loại Chó, tôi mừng lắm, có đôi chút hãnh diện nữa.

Ít năm sau cuộc toàn quốc kháng chiến bùng nổ (tháng chạp 1946), làng tôi ở ngay sát Hà Nội nên được lệnh tiêu thổ kháng chiến sớm, và di cư. Khi ra đi chúng tôi không thể mang theo con Tô và con Miu nữa. Gia đình tôi tạm lánh sâu vào một vùng quê cách làng chừng mươi cây số. Một buổi tối, tôi cùng vú già lén về làng để khuân thêm vài thứ cần dùng nữa. Khởi hành từ sáu giờ chiều mãi tới chín giờ tối tôi và vú mới về đến làng. Làng chìm trong một bầu không khí hoang phế. Sự chết chóc làm cho người ta ghê rợn, nhưng sự hoang phế làm cho người ta ngậm ngùi và cảm thấy của báu vô song trên đời này là sự sống. Con người khi ra đi mang theo sự sống, đồ vật để lại, và cả cỏ cây mây nước bao trùm xung quanh nữa, đều đượm màu hoang phế, ngậm ngùi, tiếc nhớ. Chúng tôi đi qua cổng làng hoang phế, đi theo ngõ xóm hoang phế với ngôi sao chênh vênh trước mặt khi ẩn khi hiện sau lùm cau, lùm xoan, rặng tre, rặng duối hoang phế. Đợt gió hoang phế nào như vừa thức giấc trườn mình trong cái lồng lộng chông chênh của bầu trời vắng lặng trong suốt.

Chúng tôi vào nhà. Nơi chôn rau cắt rốn của tôi đấy mà sao hoang vu. Cảm giác hoang vu nơi tôi giảm đi phần nào khi con Tô và con Miu xuất hiện. Chúng còn sống và chào mừng chúng tôi. Con Miu kêu meo meo khe khẽ như sợ có thể làm lộ mục tiêu cho quân Pháp ở một đồn cách đấy không xa, con Tô thì ve vẩy đuôi ngước nhìn chúng tôi lặng lẽ dưới ánh sao...

Thu xếp xong các thứ thật cần thiết cũng đã quá nửa đêm. Chúng tôi phải ra đi thôi. Làm sao chúng tôi có thể mang theo Tô và Miu cho được. Tôi bịn rịn ngồi lại ngoài đầu hiên, hơi ngả người trên nền gạch. Một đợt gió thấm lạnh, buồn bã như chợt làm nhòe khoảng không khuya khoắt khi tôi vuốt ve Tô một lần cuối cùng, tôi ý thức được đấy là lần cuối cùng; trong khi đó vú già cũng vuốt ve con Miu. Con Tô thì cúi đầu xuống, đuôi vẫy ngập ngừng, nó cũng biết đây là lần cuối cùng tôi vuốt ve nó; còn con Miu thì nằm dài ra, nửa lười lĩnh nửa nũng nịu.

Chúng tôi cúi đầu rảo bước khỏi cổng nhà... khỏi cổng làng... Khi leo lên con đê, gió bỗng mênh mông lồng lộng. Cả hai chúng tôi cùng không ai quay đầu lại dù rất muốn. Vả lại dù có nhìn lại cũng chẳng thấy gì. Tất cả những điều muốn nhìn đều hiển hiện rất rõ ngay trong tâm hồn chúng tôi: Căn nhà thân yêu, con đường làng thân mật xưa kia và đặc biệt hai con vật, con Tô và con Miu, chúng tôi để lại. Chúng tôi ra đi theo con đường định mệnh của chúng tôi, của những người Việt với ý chí trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp mà bước đầu là tiêu thổ kháng chiến. Còn hai con vật ở lại (hay bị bỏ lại) cũng tiếp tục định mệnh của những con vật chắc chắn sẽ trở thành những con chó hoang, mèo hoang, vật vờ đói khát trước khi trở về lòng đất theo đúng định lý tối hậu của vạn vật trong vũ trụ: "Hữu hình tất hữu hoại."

Sau này khi cuộc kháng chiến thần thánh bị Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản của ông ta phản bội, mỗi lần tôi cất lời ai oán hay căm hờn nguyền rủa chúng, trong hồn tôi luôn luôn mang nặng thêm nỗi u sầu của linh hồn hai con vật Tô và Miu bị bỏ rơi.

Đã nói kháng chiến là mặc nhiên kháng chiến cho dân tộc, khi đã phản bội dân tộc, kháng chiến mặc nhiên thất bại, hơn thế nữa, kháng chiến mặc nhiên hết ý nghĩa và không còn. Điều mỉa mai và nghịch lý - đất nước này từ đấy luôn luôn bị đầy ải trong nghịch lý - là sự thất bại đó bắt đầu thể hiện trong mọi nghi thức huy hoàng của chiến thắng Điện Biên. Tôi đã thất bại trên con đường định mệnh của tôi - ít nhất là vào lúc này - con đường theo Hồ Chí Minh nói là kháng chiến; nhưng hai con vật của gia đình tôi, con Tô và con Miu, đã đi trọn đường định mệnh của chúng: biến thành kiếp chó hoang, mèo hoang rồi chết dập vùi đâu đó.

Ô hay, tôi vẫn tự hỏi sao chúng mình quá bất công với loài chó đến thế: ngu như chó, chó đâu có ngu, hoàn toàn ngược lại nữa; bẩn như chó, làm như các súc vật khác ngoài chó đều sạch lắm. Thậm chí có người nói vắn tắt: "Thằng ấy chó thật!" Có nghĩa là thằng ấy đểu thật. Chó ở đây hoàn toàn tượng trưng cho thói đểu giả của con người. Vu khống đến thế là cùng!

Cổ nhân công minh hơn chúng ta ngày nay. Cổ nhân ta có hai bài ngụ ngôn viết bằng chữ Hán, văn xuôi, khuyết danh, đều đề cao vai trò của chó. Một bài là "Truyện con gà, con mèo, và con chó" ý cho là văn cũng không kém gì vũ nên nói: mèo có công bắt chuột, thì chó có công giữ trộm, gà có công dậy sớm đánh thức con nhà chủ để dùi mài kinh sử cho thành tài. Bài thứ hai cổ nhân ta khinh bỉ lợn và vẫn đề cao chó, đó là bài "Truyện súc vật hội nghị". Trâu hội cả gà, chó, mèo và lợn lại mà bảo: "Anh gà kia thức thời thì cho chiêm nghiệm thời tiết; chú chó kia mạnh bạo thì cho giữ nhà; chú mèo nọ tài bắt chuột thì cho giữ thóc; còn tên lợn này chỉ biết ăn no ngủ kỹ thì chờ cho béo tốt làm thịt." Lợn kháng nghị không chịu. Trâu rằng: "Biết sớm muộn, mi không bằng gà; giữ kho, không bằng mèo; coi trộm, không bằng chó; lại ăn hại như thế, không mổ để làm gì?" Lợn hỏi lại: "Thế còn ông thì sao?" Trâu đáp ngay: "Ta hết sức cày ruộng để nuôi chúng bay!" Nhưng bao trùm lên hết những chuyện này, chúng ta không thể không nhắc đến cây thành ngữ đồng hóa người với chó trong một nỗi niềm cực kỳ cả động: "Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo!" Quả thực loài chó trung thành và trung hậu như thế thật. Người đời nay có lẽ bị vong thân nhiều, nên ngôn ngữ cũng bị vong chất lây, rồi đâm ra nói liều nói lĩnh, bất cứ cái gì không hay cũng thuận miệng gán cho chó!

Vấn đề này Tây phương họ cũng chính xác hơn. Nếu là đều họ nói rõ là chó sói: Les Loups entre eux. Ngoài ra họ đồng hóa đời chó với đời người cực nhọc: Une vie de chien - A dog's life. Thực ra đời con trâu ở Đông phương và con ngựa ở Tây phương xét ra cực nhọc hơn chó chứ; tuy nhiên thà cứ nói thế đi còn không oan ức.

Đợt gió ẩm lạnh làm nhòe không gian khuya khoắt, tôi vuốt ve con Tô một lần cuối cùng; nó cúi đầu xuống, đuôi vẫy ngập ngừng, nó cũng biết đây là lần cuối cùng tôi vuốt ve nó. Tôi đã thất bại trên con đường định mệnh của tôi, nhưng Tô, Miu đã đi trọn đường định mệnh của chúng.

Hình ảnh Tô, Miu từ ngày đó ám ảnh tôi hoài. Tôi thắc mắc khó chịu về những thành ngữ vu khoát của thế nhân về chó. Tôi muốn phục hồi danh dự loài chó. Tôi thương chó hay tôi thương tôi?

Tôi tới thăm thành phố Nữu Ước tới bốn năm lần. Chính ở Nữu Ước tôi mới khám phá thấy một khía cạnh nhân bản mà chó mang lại cho nếp sống cá nhân của văn hóa Tây phương. Theo nếp sống này con cái tới tuổi trưởng thành thì thoát ly cha mẹ, thoát ly tổ ấm gia đình. Phải sống ở căn phòng khép cửa lại thành một thế giới riêng biệt của nếp sống cá nhân Tây phương mới thấy hết cái cô đơn của con người. Nếu là tuổi trẻ thì ban ngày làm việc cho mệt mỏi, đêm về ngủ vùi, rồi cuối tuần hẹn hò nhau, tìm hơi ấm ở hai thể xác ôm ấp. Lối thoát tuyệt vời dĩ nhiên là như vậy. Vui thú với nhau suốt đêm, sáng sớm nàng (hay chàng) đi ra, xòe một que diêm, bập một hơi thuốc lá, đầu hơi cuối xuống, rảo cẳng. Người ở lại phải có một sinh vật nào làm bạn chứ. Chó! Đôi khi khi mèo! Tại các siêu thị - super market - song song với thức ăn của người là thức ăn của chó và mèo. Những khay cát - sand box - dùng cho chó và mèo bài tiết bán đầy dẫy. Tuổi trẻ mà còn cầu cứu đến chó và mèo chung sống để bớt cô đơn như vậy, huống chi là tuổi trung niên, tuổi già. Ngay lần đầu tới Nữu Ước, tôi tới thăm người bạn ở đường 48 Đông, gần trụ sở Liên Hiệp Quốc. Đó là một cao ốc cỡ thấp của Nữu Ước khoảng hai chục tầng. Một căn phòng là một cá nhân. Tôi muốn nhấn mạnh một cá nhân đơn độc nếu không kể con chó - phần nhiều là chó - hoặc con mèo.

Sớm sớm - lời bạn tôi kể - tôi nằm trong này chỉ nghe tiếng bước chân của người và vật cũng biết được đây là bước chân cụ William với con chó thấp lùn, hai tai to buông rủ loại Basset của cụ, hoặc đó là bước chân khập khiễng của cụ bà Keller với con chó lông xù xinh xắn loại Pékinois của cụ, hoặc bước chân kèm theo tiếng gậy chống lộc cộc như vậy đích thị của ông Morris trạc ngũ tuần đang dắt con chó Bouledogue của ông... Ngày nào cũng một lần họ cho chó đi tản bộ với họ như vậy, chừng một hai giờ sau thì về.

Hôm đó theo bạn ra chơi công viên Liên Hiệp Quốc, tôi gặp đủ các tuổi cỡ trung niên và lão niên của cả hai phái nam và nữ. Mỗi người dắt theo một con chó, thôi thì đủ loại: Épagneul, Basset, Pékinois, Fox, Cocker, Caniche... Họ dắt chó, hay đúng hơn chó dắt họ, tản bộ đây đó, khuôn mặt đăm chiêu với ý nghĩ riêng tư của mình. Đôi khi họ dừng lại vì con chó của họ dừng lại để làm quen với con chó của một người tản bộ khác. Chợt dừng lại như vậy họ như bừng khỏi giấc mơ nào đó, khi thấy hai con chó làm quen với nhau lẽ nào người không làm quen với nhau sao tiện, thế là họ trao đổi đôi lời xã giao thường lệ. Cho đến khi hai con chó chán nhau kéo họ theo mỗi người một ngả. Nói làm sao hết công đức của chó tham dự vào những nếp sống cô đơn đó!

Tôi thương con Tô của gia đình tôi. Giá như cuộc kháng chiến giữ được niềm chung thủy của nó. Giá như Hồ Chí Minh không phản bội dân tộc này cho chủ nghĩa của y chắc chắn định mệnh kiếp chó hoang bất đắc dĩ của con Tô không ám ảnh tôi não nề đến thế.

Một giáo sư sử học người Đại Hàn ở Đại học Ohio đã phê bình chính sách Mỹ tại Việt Nam: "Cái nhầm của Mỹ là luôn luôn đi với một thiểu số hư đốn, hủ hóa ghẻ lở của Việt Nam với hy vọng dùng thiểu số đó ngự trị đa số dân Việt."

Tôi nhớ thêm câu này, hình như của tướng De Gaulle thì phải:

"Chính sách Mỹ không ưa hợp tác như bạn với bạn mà ưa hợp tác như chủ với đầy tớ."

Tôi biết người dân Mỹ thường nhã nhặn lịch thiệp, hiếu khách. Nhưng từ người dân Mỹ đến chính sách Mỹ là hai thực thể khác biệt hẳn. Con người Mỹ khi đi vào chính sách Mỹ đã bị lọc hết phần nhân bản rồi còn đâu, họ chỉ còn là những bộ máy thừa hành những gì đã được hoạch định bởi đủ các bộ tham mưu của đủ các ngành tại Tòa Bạch ốc. Nếu còn dùng ý thức đi chăng nữa, thì ý thức đó cũng chỉ như ngọn đèn đủ soi sáng cho mình đọc thấy những đáp số trên máy điện tử.

Tuy nhiên điều đó chẳng có gì là đáng trách. Chính sách quốc gia nào, dù sáng suốt và quảng đại đến mấy thì cũng làm sao thủ lợi về mình càng nhiều càng hay. Trường hợp nhà lãnh đạo đôi bên đều sáng suốt cho quốc gia mình thì đôi bên nương vào nhau mà tiến như Đức, Nhật cùng tiến với Mỹ. Trường hợp ngược lại thì đúng như De Gaulle nói "Kẻ này làm đầy tớ cho kẻ kia", sự kiện đó không chỉ ngừng ở đấy, mà còn tiếp diễn ở tiền công trả cho đầy tớ càng rẻ càng hay.

Cũng là sự tình cờ một anh bạn làng văn đến thăm tôi vào dịp này và hai chúng tôi cùng ngồi nói chuyện suốt buổi trưa, thỉnh thoảng tợp một ngụm la-de hãm với khói thuốc Pall Mall phì phèo.

Bạn tôi nói người Mỹ tới đây nghiên cứu đủ, xen vào đủ chính trị, kinh tế... nhưng văn hóa thì không. Giao thiệp với người Việt trong bao năm mà người Mỹ không nhận ra một sự kiện là ngay trong những tập san khoa học thuần túy mà cũng không vắng bóng thi ca và những bài thơ đó ký tên những kỹ sư, những bác sĩ...

Anh bạn tôi muốn nói đến thái độ văn hóa nặng tinh thần văn học, hay đúng hơn một cái gì thuần túy kết tinh của văn học. Tôi nghĩ thật ra người Mỹ họ đâu có khờ khạo đến nỗi quên mất khía cạnh văn hóa Việt Nam mà không tìm cách chi phối. Có điều tinh thần văn hóa của mình tự ngàn xưa vẫn là mềm dẻo luôn luôn hòa nhi bất đồng, bởi vậy mọi tham vọng xâm nhập vào nền văn hóa đó để sử dụng như sử dụng nhân công ở mọi ngành chẳng khác kẻ vục tay vào chậu nước hòng vớt ánh trăng.

Cùng cái ý về sức mạnh văn hóa đó tôi muốn diễn đạt bằng sức mạnh tinh thần của người Việt đã từ bao nhiêu năm nay - đặc biệt từ ngày Hồ Chí Minh ra mặt phản bội kháng chiến - chỉ biết có nói "Không" với đối phương. Chân tay họ bị trói hết và họ khước từ bằng tiếng "Không" bất biến và duy nhất. Đôi mắt tham sân si của đối phương làm sao có đủ năng lực sử tính để hiểu sức mạnh khước từ của người Việt khi nói "Không" dọc theo dòng lịch sử. Họ không hiểu rằng khi người Việt nói "Không" đồng thời sức mạnh ý chí, sức mạnh tinh thần của những con người bị trói chặt cả chân lẫn tay đó không ngừng cày ruỗng khoảng đất đứng của họ.

Hãy kiểm điểm mấy sự kiện lịch sử khoảng thời gian gần đây thôi.

Suốt tám mươi năm Pháp thuộc, người Việt ở thế yếu phải giữ bề ngoài phục tùng tiêu cực. Kẻ bá đạo khi thả sức bá đạo chẳng khác tên sát nhân càng say máu càng lộ hết những đường nét ti tiện, trong khi kẻ phục tùng tiêu cực càng gập mình bên ngoài thì bao sức mạnh tinh thần càng gom lại rực rỡ và sắc gọn bên trong, và lưỡi cày kim cương tinh thần liên tục... liên tục xoi mòn thành từng luống rãnh, rồi thành từng con sông ngầm ngay dưới khoảng đất đứng của bạo quyền mà chúng không hay. Sau cùng khi tất cả đã ruỗng hết, chỉ còn những sợi dây đàn, nhưng sợi dây tâm tình, căng thẳng bên dưới giữ cho bề mặt đất đứng được phẳng phiu. Tới lúc đó thì chỉ cần một tiếng nói hợp với cảm xúc tiềm năng dân tộc là những dây tâm tình rung lên một nhịp theo luật đồng thanh tương ứng và cả lâu đài bạo quyền sụp đổ, tự chôn vùi dưới hố sâu ngay dưới chân chúng.

Hồ Chí Minh đã nói được tiếng nói tâm tình đó năm 1954. Dân tộc thần thánh này trao cho ông Điện Biên, với cả hậu thuẫn của chiếc ghế bành thế giới Cộng sản đằng sau, Hồ Chí Minh tung quân vào thôn tính nốt miền Nam. Dân tộc đã nói "Không". Chiếc cày kim cương tinh thần đã cày ruỗng đất đứng của ông ta.

"Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi có thể bẩy được cả trái đất!" Đó là lời một nhà khoa học. Điểm tựa đó với nhà chính trị là dân tộc. Hồ Chí Minh bỏ dân tộc, làm được cái gì? Hãy nhắc đến trong trận chiến 6 ngày, tướng độc nhãn Moshé Dayan của Do Thái biết trước Ả Rập sẽ cho công bố những tin thắng lợi quá lố, nên tương kế tựu kế ông ra lệnh cấm không một bản tin nào được truyền đi. Người Ai Cập mặc sức vơ vào mình những chiến thắng vĩ đại, thành thử, trùm xảo quyệt đến như Nga Xô cũng mắc lỡm, ngừng hẳn mọi toan tính tại Liên Hiệp Quốc để ngăn cuộc chiến lại. Khi Nga Xô biết được sự thực, vội vàng đòi đôi bên đình chiến thì đã quá muộn, không còn cách nào cứu vạn được các đạo binh Ai Cập nữa.

Trở lại câu hỏi: "Hồ Chí Minh bỏ điểm tựa dân tộc làm được cái gì?" Xua đoàn người đã bị huyễn hoặc, phản ứng có điều kiện vào Nam làm mồi cho B.52 cả tiểu đoàn, cả trung đoàn, cả sư đoàn. Người Mỹ truyền thống Anglo-Saxon trầm lặng và thâm hiểm để mặc cho đối phương tuyên bố những chiến thắng vĩ đại, nương vào đó thả nhẹ lời thú nhận B.52 đã thất bại, toàn dội bom vào khoảng rừng núi không người. Cơ quan tuyên truyền của Hồ vồ lấy lời tuyên bố đó như ếch vồ hoa, nhấn mạnh thêm, phóng đại ra. Chính cơ quan tuyên truyền Cộng sản của Hồ Chí Minh đã rửa bàn tay máu cho người Mỹ. Sau này Võ Nguyên Giáp đành phải thú thật với nữ phóng viên người Ý Fallaci là y đã mất nửa triệu người rồi. Con số thực là bao nhiêu? Gấp đôi là ít!

Sau khi dân tộc đã bị Hồ Chí Minh lừa, Ngô Đình Diệm là một trường hợp hãn hữu được dân tộc trao trọn vẹn cho niềm tin trước khi tự chứng minh bằng hành động. Diệm không biết hưởng diễm phúc đó. Quyền hành đã nắm trọn và chia cho anh em trong nhà. Kinh tế quốc gia đã nắm trọn và ban tài phát lộc cho gia nô. Nghĩ rằng như vậy thì Tần Thủy Hoàng từ nhất thế đến vạn thế là điều chắc rồi còn gì. Nhưng dân tộc đã nói "Không", và lưỡi cày kim cương đã cày ruỗng đất đứng của y rồi còn đâu. Bảo là người Mỹ giết Diệm. Không! Diệm đã chết trong lòng dân tộc từ lâu. Mỹ chỉ đến lượm cái xác sống của y.

Với dân tộc có mãnh lực nói "Không" như vậy, kẻ cầm đầu nghĩ theo dân tộc thì được, nghĩ hộ dân tộc sao được!

Phe Tư bản muốn người Việt chống Cộng sản như một gia nô. - "Không!"

Phe Cộng sản muốn người Việt chống Tư bản cho tư thế bất nhân của họ. - "Không!"

Tư bản bảo: "Tao biết chúng mày không đội trời chung được với Cộng sản mà!"

Cộng sản nham hiểm bảo: "Vậy thời chúng bay tiếp tục chết!"

Định mệnh người Việt Nam như vậy đó. Tưởng muốn được là người Việt Nam dễ lắm sao. Ngay như ngày giỗ Tổ Hùng Vương cũng đã được tổ chức thay ngày Quốc khánh đâu.

Dân tộc có mặt ở mọi nơi để nhận diện lửa và khói. Nhóm nào là của Cộng sản Nga; nhóm nào là của Cộng sản Tàu; nhóm nào là của Deuxième Bureau Pháp. Rồi với sự thỏa hiệp của Mỹ sẽ còn nhóm nào là của đảng Hắc Long (CIA Nhật) nữa chứ.

Tưởng làm người Việt Nam dễ lắm sao?

Dân tộc này dù bị trói chân trói tay nhưng với tiếng "Không" làm lợi khí sẽ bình tĩnh đi trọn con đường định mệnh của mình. Sớm hay muộn! Sớm không nói làm gì. Muộn ư? Khi đó tôi đã về với tiên tổ, linh hồn tôi sẽ gặp linh hồn con Tô và con Miu tại ngay căn nhà nơi chôn rau cắt rốn. Tôi sẽ vuốt ve hai con vật và nhìn đàn con cháu của tôi.

Chúng đều là người Việt!

(Xuân Canh Tuất - 1968)