← Quay lại trang sách

Phần III - Mặt Nạ NGƯỜI BAY

Nhiều người, rất nhiều người đứng đó cùng ngẩng đầu nhìn lên vòm cây và tiếng xì xào:

Người bay! Người bay!

Tôi cũng ngẩng lên nhưng chỉ nhìn vào khoảng lưng chừng nhận thấy có một con chim như chim họa mi cánh vàng ố, nó vừa thoăn thoắt nhảy đổi chiều trên một chạc cây lớn vừa hót làm quảng cáo:

Người bay! Người bay!

Tôi đi thẳng vào miếng đất vuông; mẹ tôi đứng đó. Người cũng ngẩng đầu nhìn lên như mọi người để nhìn:

Người bay! Người bay!

Tôi rời khỏi miếng đất vuông đi vào một vùng tối sừng sững chắc vì có núi cao vòi vọi và dựng đứng đổ bóng xuống, có thể là tôi sẽ leo lên núi đó. Tôi chợt quay lại, muốn nhìn thêm một lần nữa con chim họa mi (hay chim vẹt) có màu cánh vàng ố để trông và nghe nó làm quảng cáo:

Người bay! Người bay!

Toàn thân tôi bủn rủn vì khi vừa ngẩng đầu lên, tôi nhận ra ngay trên vòm cao, khoảng đỉnh đầu một người cưỡi cổ một người; nó vừa nhún nhảy làm đu đưa cả khoảng lá cành, vừa chằm chằm nhìn tôi, nó sẵn sàng chụp xuống quắp lấy tôi bất kỳ phút giây nào. Nó chính là:

Người bay! Người bay!

Nó sẵn sàng chụp xuống quắp lấy tôi làm mồi! Nụ cười đầy nham hiểm ngạo mạn phảng phất trên môi. Vì nó biết tôi đã vào tử địa rồi chẳng tài nào thoát khỏi. Cái nhìn chăm chăm của nó hút chặt mọi ý nghĩ của tôi. Ôi, nó chính là:

Người bay! Người bay!

Tôi không nhìn thấy đôi cánh nó đâu, sao gọi là người bay? Nó quặp lấy cổ một người khác để nhún nhảy trên cao như thể hình thù nó vẫn vậy, nụ cười đầy ngạo mạn trên môi không dứt. Nó biết một khi đã lâm vào tử địa làm sao tôi thoát khỏi. Nó chính là:

Người bay! Người bay!

Tôi nhớ mẹ tôi đứng đâu đó phía trước, tôi chỉ việc vùng chạy vượt lẹ, rất lẹ qua mấy chướng ngại vật là tới bên người để sẽ hét lên:

Mẹ ơi! Người bay! Người bay!

Tôi biết khi đã đứng bên mẹ thì người bay chẳng còn nguy hiểm gì nữa. Nhưng muộn rồi, chân tay tôi bủn rủn không sao chạy được tới bên mẹ. Người bay bén như gươm treo cổ, tôi chỉ khẽ cất bước là nó chụp xuống liền. Mẹ chỉ trong gang tấc mà sao cách trở ngàn trùng, vì giữa tôi và mẹ đã là Người bay! Người bay! mất rồi.

Ôi nụ cười đầy ngạo mạn phảng phất trên môi con quái vật đương nhún nhảy trên đỉnh đầu và chằm chằm nhìn tôi kia, nó chính là:

Người bay! Người bay!

CHIẾC BÌNH

Trong khu đại học F.S.U. (Florida State University) tại Tallahassee, thủ phủ Florida.

Chiều ngày thứ Bảy 18-2-1967 tôi từ khu trại đại học qua con đường lớn sang tiệm bên đó mua mấy thứ cần dùng. Tờ Newsweek mới toanh bìa đề ngày

20 -2-1967, có hình "bác Hồ" râu tóc bạc phơ đeo kính gọng đồi mồi, dòng chữ đen chéo trên một sọc nền vàng "Hy vọng Hòa bình" (The chances for Peace), dòng chữ vàng bên dưới trên nên bìa xanh đen: "Hanoi's Ho Chi Minh."

Tất nhiên tôi mua tờ báo về để xem viễn tượng hòa bình xứ sở đau thương của mình ra sao. Chẳng biết tờ báo này các bạn tôi ở Saigon sẽ được đọc vào ngày nào, riêng tôi ở đây đã được đọc nó hai ngày sớm hơn, như dòng ngày tháng ghi ngay trên đầu bìa.

Đọc hết khoảng mười trang nói về "The Chances for Peace" của "the War in Việt Nam", đọc thêm "Out of the Woods": Tin nữ ký giả Pháp Michèle Ray bị Việt Cộng bắt rồi phóng thích.

Tôi gấp tờ báo lại ngắm "Bác" một lần nữa: Râu tóc bạc phơ, kính trắng gọng đồi mồi!

Ba tháng trước đây, hồi còn ở Washington, tôi có đến ăn cơm tối ở nhà một người bạn cũ. Trước khi ăn, trong khi ăn và sau khi ăn chúng tôi chỉ có một đề tài: Dân tộc mình với thảm họa chiến tranh kéo dài hơn hai mươi năm rồi! Tất nhiên phải nhắc đến vị "cha già dân tộc".

(Tôi nhớ đến một bạn văn, trong một bài nhàn đàm trước đây của anh, có nói đến con người mỗi lần đau thương thường gọi mẹ. Gọi mẹ thôi chứ những "cha già dân tộc" thì chẳng ai dám gọi!)

Anh bạn tôi có nhắc đến cách "Bác" dùng chữ tuyệt khéo - "Bác" dùng chữ thì khỏi phải nói! - Đó là khẩu hiệu "Bác" nêu lên để thoa son vẽ phấn cho chính sách xâm nhập và phá hoại miền Nam này: "CỦNG CỐ MIỀN BẮC, CHIẾU CỐ MIỀN NAM!"

Tôi còn nhớ như in tiếng cười khan mai mỉa của anh bạn khi anh nói: "Chiếu cố! Cắt cổ mổ bụng mình đó cũng là chiếu cố (như những bức hình mà mình đã in ra hàng triệu tấm để thả xuống trình bày cùng đồng bào miền Bắc), đặt mìn nổ chậm giữa thành phố, đó cũng là "Bác" chiếu cố; súng ống chuyên chở vào miền Nam để bắn giết cũng là "Bác" chiếu cố, đào đường phá cầu, giật mìn xe hỏa (thuần dân chúng sử dụng) cũng là "Bác" chiếu cố; chuyên viên Nhật hùng hục tới xây dựng mấy năm trường đập Đa Nhim để cung cấp điện lực cho dân chúng miền Nam, đập vừa xây xong, vị "cha già dân tộc" bèn lập tức chiếu cố, và những cột dây bề thế cao ngất nhấp nhô theo đường đồi núi chỉ còn là những "bông hoa" trang trí hữu sắc vô hương.

"MIỀN NAM!" thật là tấm nệm vừa ấm lại vừa êm cho lương tâm thảnh thơi an nghỉ sau mỗi chiến công có thịt rơi, máu đổ, xương phơi.

Miền Bắc, Đảng và "Bác" tổ chức kiểm soát chặt chẽ nhường kia thì không củng cố cũng đã chắc nịch rồi huống chi lại còn củng cố nữa. Còn chiếu cố miền Nam với phương châm, với sách lược "con người cũng chỉ đơn thuần là phương tiện" thôi, thì còn gì dễ hơn. Và miền Nam có những nạn nhân bị cắt cổ, mổ bụng. Và miền Nam có mìn nổ. Và miền Nam có tiếng súng. Sự chết thường xuyên bao phủ lấy ruộng xanh đồng bằng sông Cửu Long, và sự chết bao phủ lấy đồi, lấy núi, lấy thung lũng miền cao nguyên, và sự chết bao phủ lấy miền duyên hải. Vì tất cả đều đã được "Bác" chiếu cố.

Nắm vững lấy căn bản "người cũng chỉ là phương tiện" thì thật không gì sảng khoái cho bằng hai bàn tay ở trên nắm vững lấy trật tự miền Bắc đương được củng cố, và hai chân bên dưới tùy hứng thuận tiện hoặc đạp, hoặc đá, hoặc nghiền nát dưới gót giày từng khoảng của miền Nam được... chiếu cố.

Nhưng cái gì đầy thì đổ! Hình như định luật muôn đời của con người, của vũ trụ là vậy. Con người luôn luôn làm trò xiếc đi trên dây... đi trên dây của sự biến động, và vũ trụ luôn luôn là môi trường của biến động. Vì vậy có gì đầy mà không đổ đâu.

Có lần - có lẽ là chịu sự tác động của tiềm thức - tôi nói với một người ngoại quốc khác khi ông ta nói đến viện trợ Hoa Kỳ "đổ" sang các nước chậm tiến. Tôi nói: "Thưa ông, quan niệm của người Á Đông chúng tôi (ông ta là người Tây phương), cái gì đầy quá tất đổ, ông nghiên cứu về sử, ông hẳn thấy định luật ấy thể hiện ở sự thăng trầm của biết bao nền văn minh trước đây. Cho nên tôi nghĩ rằng người Mỹ họ phải gánh những của đó mà tống khứ đi gấp là phải lắm. Họ cứ thử giữ lại xem, họ sẽ bị lật nhào ngay vì tai họa!"

Nói xong tôi cười lớn. Ông ta cũng cười. Có thể là người nói và người nghe mỗi người hiểu một cách.

"Cái gì đầy tất đổ!" Tôi luôn luôn nghĩ vậy.

Sau Điện Biên Phủ, "Bác" cho ký hiệp định Genève lấy dòng sông Bến Hải làm ranh giới chia đôi. Cái bình vừa đầy! "Bác" về tiếp thu Hà Nội cho lập một túp lều tranh ở ngay bên Bắc Bộ Phủ mà ở. Thật câu chuyện - với những người trong cuộc - đẹp còn hơn cả gấm thêm hoa, đẹp hơn cả những tiểu thuyết trung, hiếu, tiết, nghĩa, đẹp nhất của Á Đông. Nhưng với số người đứng ngoại cuộc thì họ nhìn trò hề mái nhà tranh của "Bác", họ nhìn chế độ của "Bác" khách quan vô cùng. Họ thấy rằng cái bình của "Bác" đã dềnh rồi, đã nghiêng rồi.

Chính trong căn nhà tranh "thanh đạm" bên hông Bắc Bộ Phủ đó, "Bác" nghĩ được ra khẩu hiệu tuyệt vời, như người đảm đang may được cho con (con đây là Mặt trận Giải phóng miền Nam sau đó) tấm áo đẹp mặc Tết: "CỦNG CỐ MIỀN BẮC, CHIẾU CỐ MIỀN NAM."

Và "Bác" chiếu cố miền Nam! Và cái lọ đầy đã đổ thật và thật đổ, chỉ điều thê thảm cho đất nước này là nó đổ lên đầu người dân miền Bắc, nó đổ lên đầu người dân miền Nam. Người dân hai miền thắt lưng buộc bụng đắp đường, xây cầu, dựng nhà máy, người dân hai

Một cụ già miền Nam ở ruộng bị bắt ra bưng, cụ đã được nghe lý luận chắc nịch: "Sau Thế chiến Một chỉ có nước Nga cộng sản, sau Thế chiến Hai thì cả nước Tàu cộng sản. Vậy sau Thế chiến Ba tất nhiên cả thế giới cộng sản!"

Ấy là chú cán bộ quên mất định luật cái gì đầy thì đổ. Ngày đó mâu thuẫn nội bộ cộng sản Nga-Hoa còn nhỏ.

Tôi cho rằng một trong những cái khôn ngoan đáng kể, một trong những tư tưởng trưởng thành đáng kể của người Á Đông là biết sáng suốt thực tế nhận định: "Cái gì đầy tất đổ!"

Khuôn mặt ông Hồ trên tờ Newsweek ngày

20-2-1967 này thật rõ như nổi lên, từng khoảng da hơi rám nắng, từng những nếp nhăn nhỏ, từng sợi râu rủ xuống hay cong lên, từng màu thẫm của gọng kiếng, từng màu trắng trong mà hơi đục của đôi mắt kiếng, cả khuôn mặt đăm chiêu của một cụ già Á Đông cổ kính đương đọc sách thánh hiền, vừng trán đẹp thuần hậu, chứ không phải "rộng mênh mông" như lũ văn nô hạ bút nịnh láo. Tôi nheo mắt lại, khuôn mặt cụ già Á Đông như nổi lên, tôi nhớ đến ngày nào còn nhỏ được ông ngoại bế lên ngồi lòng và tôi ngửa cổ ngắm ông ngoại, người cũng đeo kiếng trắng, người cũng có bộ râu Á Đông. Tôi lại nhớ khi lớn lên chút nữa, người đã dạy tôi vỡ lòng cuốn "Tam Tự Kinh". Buổi sáng, người ngồi giữa phản ghế ngựa dạy học, cậu tôi hay mợ tôi bưng thức nhắm lên. Người vừa uống rượu vừa nhấm nháp thức nhắm vừa dạy chúng tôi học, tôi tự nhiên đói quá không học được ngồi khóc. Tôi có nói gì đâu, thế mà người biết người gắp cho tôi miếng khấu đuôi lợn.

Ông già Á Đông in trên tờ báo Newsweek này tiếc không phải hình ông ngoại tôi. Ông đang đăm chiêu đọc sách gì không biết, nhưng chắc chắn không phải sách thánh hiền; ông đang suy nghĩ gì không biết, chỉ biết ông đã khám phá ra khẩu hiệu tuyệt vời: "CỦNG CỐ MIỀN BẮC, CHIẾU CỐ MIỀN NAM!" Củng cố miền Bắc có mồ hôi của đồng bào cần cù miền Bắc, điều đó tốt; còn chiếu cố miền Nam thì là máu và nước mắt của cả hai miền.

Cái bình quá đầy đã đổ! Không những bình đổ mà còn là cái bình bị rò nữa (rõ thật mâu thuẫn)! Ông hành hình và hành hạ những địa chủ trước đây đã nuôi kháng chiến, ông nguyền rủa giai cấp tiểu tư sản. Ông nghĩ rằng đã qua sông rồi thì có quyền đái vào đò và đấm b. vào sóng. Ông vẫn ngồi trên con đò dân tộc! Và tuy nói là dòng lịch sử nhưng thật ra là biển lịch sử, bởi vậy ông vẫn ngồi trên sóng. Ông đã ra khỏi sóng đâu! Và những người ông hành hạ và những người ông nguyền rủa đã biến thành kim cương, răng cộng sản không sao nhá được. Không nói ở miền Nam này làm gì, nói ngay ở miền Bắc, ông nhìn đám dân chúng quanh ông cần cù làm lụng, cần cù học tập, bảo sao nghe vậy, nhưng trong lòng họ, trong hồn họ, đã kết tụ thành chất rắn của kim cương cả rồi! Điều đó là một sự thật tất nhiên của lịch sử. Tôi nói cái bình của ông rò là thế. Với cả kinh nghiệm Điện Biên Phủ, với cả sự chuẩn bị chiếu cố miền Nam chu đáo, với cả một chiến thuật chiến lược phá hoại tinh vi, với cả một tinh thần giết chóc không gớm tay, mà miền chiếu cố lại đầy rẫy thối nát, thì miền Nam này chưa rung đã rụng vào tay ông mới phải, mà sao lại thế này? Xin thưa cái bình của ông đã đổ và cái bình của ông đã rò...

Đừng nói vì có quân đội Đồng minh! Ông giết đồng bào miền Nam bằng súng Tiệp Khắc, bằng súng Nga, bằng súng Đông Đức, bằng súng Trung Cộng bằng mìn Trung Cộng, bằng thuốc nổ Trung Cộng, xin đừng nói vì có quân đội Đồng minh!

Nheo mắt lại nhìn bìa báo, khuôn mặt nổi lên linh động như người thật. Ôi, giá tôi được ngắm khuôn mặt của cha tôi, của mẹ tôi. Những ông chú bà bác tôi như những chiếc lá vàng rụng gần hết cả rồi. Còn cha tôi, còn mẹ tôi. Rồi cũng đến ngày chúng tôi nhận được tin lá vàng đã rụng.

Bà nội tôi mất đã lâu, nhưng đêm qua tôi mơ thấy bà tôi nằm hấp hối trên giường bệnh, thầy tôi ngồi cạnh bên đầu giường, mới phút trước bà tôi còn tỉnh, nhưng phút sau đôi mắt đã xuất tinh lạc. Thầy tôi nói với tôi: "Thế này thì chỉ còn đợi lúc bà đi hẳn thôi con ạ, chẳng còn cứu gỡ được nữa!" Thầy tôi khóc, tôi cũng khóc và tôi nghĩ thêm: "Phải đi báo chú Cư mới được!" Chú bá Cư gọi bà nội tôi bằng cô và chú kính bà nội tôi như mẹ. Nếp sống lễ giáo của chú luôn luôn là tấm gương sáng cho chúng tôi noi theo.

Di cư vào Nam được ít lâu tôi hay tin chú bị cô lập vì chú thuộc thành phần "cường hào ác bá" (trước đây chú làm lý trưởng và được ân thưởng cửu phẩm bá hộ), chú bị bắt xuống ở căn bếp nhỏ. Rồi ít lâu sau nữa, tôi hay tin chú mất.

Ôi, khuôn mặt ông già trên tờ Newsweek thật sống động, ông đương đọc gì, ông đương nghĩ gì?

Tôi hãy còn nhớ một lá thư của đứa con gái hiếu hạnh của tôi viết về một tin làm nó thương cảm:

"... Bố có biết không, chú Vận chồng cô Tình chết rồi. Chú ấy đi ca-nô với mấy người bạn bị Việt cộng để mìn định hướng. Chú ấy bị gãy xương sống và lòi ruột. Nhưng có điều an ủi là có lính ở các binh chủng đi đưa đám chú ấy. Tội nghiệp cô Tình, cô ấy có thai được ba tháng rồi đó bố..."

Tình là cô em bên họ ngoại của tiểu gia đình tôi ở Saigon. Vận là học trò cũ của tôi. Ngày Vận chết là ngày sinh nhật của "Bác". Vì chiến lược và chiến thuật được sử dụng trên căn bản "người cũng chỉ là phương tiện" nên "Bác" lợi dụng cả ngày sinh nhật của mình khích động thi đua lập chiến công, nghĩa là để đồng bào ngoài đó nô nức giết đồng bàotrong này dâng chiến công lên "Bác".

Kể cả thời thịnh nhất của Ngô Đình Diệm - tức là thời kiêu ngạo đốn mạt nhất của y - cũng chưa bao giờ Diệm dám nghĩ đến dùng ngày sinh nhật của mình làm cái cớ để khích động đồng bào giết đồng bào trong cuộc nội chiến ô nhục do khẩu hiệu "CỦNG CỐ MIỀN BẮC, CHIẾU CỐ MIỀN NAM" của "Bác" mà ra này. Không biết trên thế giới còn nơi nào có loại "cha già dân tộc" sử dụng ngày sinh nhật của mình như thế nữa không nhỉ?

Ít lâu sau bức thư của đứa con gái nhỏ, tôi được đọc bức thư của chú tôi.

"Cháu thân mến,

Mỗi khi tới nhà thăm các cháu nhỏ chú thím lại tưởng nhớ tới cháu hiện ở nơi xa. Thấy nói cháu vẫn được mạnh khỏe, chú thím lấy làm mừng. Chú có ghi địa chỉ của cháu nhưng dạo này đầu óc chú hơi rối nên cũng lười viết. Chồng em Tình bất hạnh mất rồi, thật là một sự não lòng! Gả chồng cho em, tưởng mong các em như chim có bạn, dìu dắt nhau qua cuộc đời khổ ải này cho tới mãn chiều xế bóng, thật không ngờ nửa đường đứt gánh, cả một sự tang thương!..."

Ôi, khuôn mặt ông già Á Đông trên tờ Newsweek, trông ông thật sống động, ông đương đọc gì, và nghĩ gì? Những đấng cứu thế của nhân loại như Đức Phật Thích Ca, Đức Chúa Jesus chỉ mỗi năm có một ngày sinh nhật, lẽ nào ông có hai cho được!

Chúng ta hãy nên nhìn thẳng vào sự thật, đừng có khôi hài là khi giong cờ mở trống "CỦNG CỐ MIỀN BẮC, CHIẾU CỐ MIỀN NAM" biến đất nước thành lò sát sinh cốt nhục tương tàn, thì bảo "không có tôi", nhưng khi ân xá án này, ân giảm án nọ, thì do "ơn Hồ chủ tịch".

Kể từ ngày ông phát động thực hiện khẩu hiệu "CỦNG CỐ MIỀN BẮC, CHIẾU CỐ MIỀN NAM", cả hai miền đã có dư một triệu gia đình cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em... âm dương đôi ngả như trên. Đã làm "cha già dân tộc" sao lại có thể thúc đẩy đàn con chém giết đồng bào vào cái ngày mình lọt lòng mẹ cất tiếng khóc chào đời? (Tôi phải in đậm ba chữ "cất tiếng khóc" vì cái cõi đời sầu thảm này.)

Một người đàn bà đáng thương làm đĩ nuôi thân, người đó vẫn cao quý khi ngày giỗ về lễ trước bàn thờ ông bà cha mẹ.

Nỡ nào làm đĩ miệng trước cả bàn thờ tổ quốc cho đành!

(Xuân Đinh Mùi, 1967)