TA PHẢI LẬP CHÍ
Anh phải lập chí, từ hôm nay, từ giờ này mới được.
Anh thường phàn nàn về cái cũ, hương hỏa của cha ông để lại nhẹ nhàng quá. Ông cha ta chẳng để lại cho ta được cái gì mà mắt thấy được, thật đấy. Nhưng đem nhau tự đâu mà đến cõi đất này, chống phía Bắc, mở phía Nam, mỗi lần thắng đủ làm bất tử cho cả một bộ sử, bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu máy vẩy ra rồi, cha ông ta để lại cho ta một cái hương hỏa vô cùng quý, đó là chí khí.
Ai dạy được ai cho có chí, nhưng biết rằng trong tâm hồn anh có sẵn mầm mống, nên gọi anh đó. Anh lập chí ngay để mà làm việc cho Tổ Quốc.
❀ ❀ ❀
Anh đợi thì rồi lại như những người mấy năm trước đã đợi, rồi thấy chậm mất rồi, vì không lần nào quyết làm cả. Cái cảnh vuốt bụng thở dài, nhìn trời mà than vãn, phỏng anh có chịu được không?
Nước nhà mong ở anh đấy, chờ đợi anh đấy.
Khi nói “anh” là nghĩ cả “chị” nữa
Trai anh hùng, gái cũng nữ anh hùng.
Gọi là anh thư thì vừa là không đúng, vừa tục. Khi kề vai vào công việc thì khăn yếm kém gì mày râu, mà trong nhà xiêu đổ thì chống đỡ, còn hỏi làm gì ai là bồng tang ai là son phấn. Chém tướng phất cờ sao không phải công việc Bà Trưng, Bà Triệu, cương thường nặng gánh ai đã bằng Thị Thuấn, Thị Kim.
Vì thế CHỊ không nên khư khư giữ hai chữ “giải phóng” của các bà đòi “quyền”. Ai có quyền, ai lung lạc, mà trong một bạn đường trường chia ngay ra làm hai phái giành nhau. Hãy chung vai mà cùng gánh vác trách nhiệm, mà khi đọc mấy trang giấy này nhớ cho rằng, anh đó mà cả chị đó.
‘Chí ta lập, cái chí ấy phải bền, phải mạnh’.
Thầy Khổng nói rằng: “giữa đám ba quân có thể cướp được chủ súy, mà cái chí kẻ thất phu thì không cướp được”. Câu nói mạnh mẽ thay, chí người ta có thể vững được đến thế.
Đẻ ra mà không có chí khí thì chết thôi. Nhưng đã nói rằng người nước Nam này ai cũng đã được ông cha để lại cho một cái khí nhiều hay ít rồi. Cái khí Văn Thiên Tường gọi là chính khí, dưới thì là sông núi, trên thì là nhật tinh nó đầy rẫy trời đất.
Nhân cái khí đã có thì không sợ gì nhụt, không sợ gì hèn. Thêm cái chí vào thì không sợ gì yếu gan, không sợ gì bỏ dở việc nữa. Hai thứ cùng luyện, luyện thành chí khí.
Chí khí là một cái sức mạnh rất lớn của tâm và của hồn. Người có chí khí lâm vào việc vẫn tỉnh táo, bạo, nhiệt thành, vẫn đủ sức chống chọi; vẫn đủ can đảm nhận công việc, cả quyết biết xấu hổ, không chịu nhục, có khí khái, giữ được phẩm cách con người. Người có chí theo được mãi một mục đích, gặp gian nan mà lòng không nản, trên đường xa gối không chồn, vững dạ bền gan, cái chết không dọa nổi.
Một người có chí khí là ông Thái Tổ nhà Lê. Làm một người cày ruộng mà không chịu ép mình, mười năm gian nan mà công việc làm đến được. Gương sáng của ta đó.
Có tài năng mà không có chí khí thì tài năng mà làm gì. Không có tài năng mà có chí khí thì rồi cũng có tài năng, cũng làm được. Bao nhiêu người thành công, xét đến gốc là nhờ có chí khí cả.
“Trời mới lạnh cỏ cây thường đã rụng lá. Tuyết xuống đầy mà cây tùng cây bách vẫn xanh tươi. Tùng bách hơn các loài cây là thế”. Đó là lời thầy Khổng.
Chí khí ta quyết là đã có mầm rồi. Hãy bồi bổ lấy nó. Trong đám súng kêu, đạn nổ, có cái thủ đoạn anh hùng trong chốc lát, việc vẫn có thể làm được. Nhưng chỗ vắng một mình, giữ được mình, sai được mình, nếu không có thì có khi phải hàng. ‘Phải gắng gỏi ở lúc ngồi một mình ấy’. Những việc nhỏ, cho là nhỏ không làm, những cái thắng nhỏ cho là nhỏ mà không thắng, thì làm việc lớn, thắng cuộc lớn sao được. Bởi thế mà mỗi phút, mỗi việc anh phải thắng cả mới được. Trời rét, dậy sớm đi tập thể dục, anh cũng cần có gan mới làm nổi. không đợi người đem nước đến, anh đi múc lấy nước lạnh, cũng phải có chí mới làm được.
Anh phải bắt, phải bó buộc, phải nghiệm, phải nghiệt với mình anh. Một ngày trăm trận, ở chỗ không người nào nhìn thấy anh, trận nào anh cũng thắng, ngày nay, ngày mai, ngày nào cũng thế, thế mãi, ấy cái cách luyện chí là thế.
Thấy kém, thấy yếu, biết là xấu; biết hổ thẹn, càng cố gắng, ấy cái cách nuôi khí ở cả đó.
Thanh gươm phải trăm lần rèn mới là quý. Nếu không mài không rũa, không thiết tha, thì luyện sao được một chí khí anh hùng, không có chí khí anh hùng thì mong sao làm mà chắc được.
Trên kia đã nói, anh mang sẵn trong tâm hồn cái mầm chí khí, của bao đấng tổ tiên để lại. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Vậy anh đọc sử nước nhà, thấy anh giống ai?
TA GIỐNG AI?
Anh giống Lê Phán Quan.
Phán Quan tình nguyện theo Lê Thái Tổ, trong mười năm, bầy mưu mô trong trướng, xông tên đạn trên chiến trường, sinh tử bao phen, đến lúc thành công, một khăn gói trên vai, nhẹ bước ra đi, coi công danh như rơm rác; đi rồi, không còn đển đến tên tuổi lại nữa. Phán Quan là chức việc của ông. Lê là họ vua ban cho. Chứ có ai biết ông ấy là người nào đâu. Ấy thanh cao thì anh giống Lê Phán Quan.
Anh giống Triệu Vua Bà.
Làm thân gái trong khi nước có nạn lớn, không chịu ẩn mình sau vuông yếm, chiếc khăn. Vua Bà chiêu mộ hào kiệt, trong ngàn tây dựng cờ vàng, ngồi đầu tượng, trăm phen ác chiến. Bây giờ theo đường thiên lý, anh ruổi xe, còn mười dậm nữa đến Thanh, bên tay phải, trên đỉnh Tượng sơn, một cái nấm nhỏ, làm cho anh máu bồng bột trong tim. Anh giống ai? Giống Triệu Vua Bà chắc hẳn.
Anh giống Lê Thái Tổ
Dân áo vải, khẩn ruộng hoang, cũng không chịu an thân làm ông trưởng giả. Lê Thái Tổ húy Ly, coi việc thiên hạ là việc mình. Giầu sang mồi không đủ dử ông, gian nan khổ không nạt được ông; mười năm nằm gai nếm mật, lương cạn ở Chí Linh, quân tan ở Côi huyện, chui trong bụi rậm mà còn có gan chùi lưỡi giáo của quân thù, mất cả vợ con mà vẫn không nhụt chí, chẳng đội giời cùng giặc cướp. Cái chí ấy mới thắng được trận ở Mã Yên, cái chí ấy mới đuổi được quân Ngô ra ngoài cõi. Cái chí Bà Triệu, cái chí vua Lê, phải không vẫn là chí của anh. Anh giống Lê Thái Tổ nhà Lê.
Anh giống vua tôi nhà Trần.
Mười lăm tuổi lấy việc không được đầu quân làm xấu hổ, anh giống Trần Quốc Toản; dưới lưỡi đao hành hình, không thèm làm Bắc Vương, anh giống Bình Trọng Trần tướng quân. Trứng chọi với đá không ngại ngùng, đem một tốp quân cha con anh em chống với năm mươi vạn quân Mông Cổ đã rong ruổi từ Á sang Âu, chữ “Sát Thát” thích vào tay, lời thề trên sông Hóa; anh đọc sử đến đây phải ca, phải khóc, phải lấy làm vẻ vang, phải có được hy vọng ở cái khí của dân ta. Bẩy trăm năm là bây giờ, anh vẫn thấy rằng anh là dòng dõi, anh giống Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Võ Tánh, Lê Trạc, Roãn Chi…
Võ Tánh tự đốt ở Bình Định. Lê Trạc tự chôn ở Cao Bằng. Roãn Chi tử trận ở Phú Bình. Bấy nhiêu con người thề cùng thành cùng sống thác. Một vừng chính khí, gây từ sông núi này. Anh thấy anh cũng có thể có gan ấy, cũng nhận được trách nhiệm ấy.
Anh giống ai? Giống ông Văn Trinh.
Lấy một thày đồ kiết mà nộp sớ xin chém bẩy nịnh thần, ông Chu Văn An sợ gì một cái chết. Trong thời suy đồi, làm Thái Sơn cho bọn học giả theo, làm cái mốc đá cho sĩ phu bước đến, ông nhận lấy chức trách đó của người quân tử, để vững cho lễ nghĩa. Phải không, ông Chu Văn An vẫn là thày anh.
Anh giống Phạm Tử Nghi.
Đi qua bến đò Niệm Hải Phòng, anh cũng thấy nức lòng, anh cũng muốn tập luyện, anh cũng muốn có cái thần dũng của tráng sĩ thời Lê Mạc.
Từ ông Lê Như Học đi sứ nước người mà lặn lội để đem nghề in về, cho đến ông Nguyễn Tri Phương bôn ba ở Lữ Tống mà dò xét công việc ngoài, ông Nguyễn Công Trứ mang hết tài thao lược vào một doanh điền. Tổ tiên ta “lập công” là thế. Bản in làng Liễu Tràng, bền giầu văn hóa ta, ruộng huyện Tiền Hải, đầy kho đụn ta, đó là những việc anh thế nào cũng muốn làm đấy chứ?
Anh làm như ai? Làm như Phạm Ngũ Lão?
Nhà nghèo mà không ngại, mồ côi mà không lo, đường rắn rết, không quản sang Lào, có tài tướng súy mà làm kẻ chăn voi chăn ngựa; ngồi đan sọt bên đường cái quan, văn không được bằng người đỗ tiến sĩ lấy làm xấu hổ, võ muốn hơn bằng bối thì tập nhẩy tập đánh, không sợ ai chê cười.
Người đáng làm kiểu mẫu cho ta là Phạm Ngũ Lão tướng quân đó.
Chịu được nghèo, chịu được nhọc, chịu tập thân thể, thích văn chương, biết xấu hổ mà lại nhũn nhặn, làm việc lớn mà vẫn thương người. Gương của thanh niên ta còn tìm đâu xa nữa.
Một cái trên này nhắc đến luôn là “biết xấu hổ”. Thày Khổng bảo rằng: Biết xấu hổ là gần được bậc dũng”.
Phải nhũn nhặn mới biết được chỗ chưa bằng người, mới biết được thế nào là nhục. Biết nhục mới có đủ sức mạnh để làm. Xấu hổ là cái sức nóng để nung nấu “chí”.
PHẢI NHỚ GỐC
Cốt phải nhớ cái gốc đã.
Cây không rễ phải đổ, nhà không nền thì lung lay. Chập chờn trên mặt nước là thân phận cây bèo. Đá rắn cũng ăn vào cho được là sức mạnh của cây tùng cây bách.
Ngắm người, nghĩ mình, tang thương của nòi giống, xa có người da đỏ, gần có người Hời.
Nói về nền văn hóa thì có văn hóa giống ở nhà, văn hóa giống ở lều. Người Mông Cổ và người da đỏ là giống ở lều. Kẻ ở lều mà như người da đỏ thật là đã đến một bậc cao lắm.
Người da đỏ đất cát bị người Anh, người Y Pha Nho chiếm mất nhiều, phải lui vào ở một cõi nhỏ. Ấy thế mà chưa qua một thế kỷ, giống ấy đã hầu như không còn nữa, không phải rằng chỗ đất người Mỹ để dành cho không đủ để sống; cái mòn mỏi là ở chỗ không tin rằng còn có thể ở lều được nữa, thi nhau sống lối Mỹ, mặc đồ Mỹ; đến rượu mạnh của Mỹ vào thì thật tan nát hết. Bây giờ có gặp người da đỏ, họa chăng ở một vài xóm cùng, trong mấy nhà xiếc, làm trò cưỡi ngựa, bắn súng cho người ta xem với mấy bộ mũ lông chim phượng hoàng làm bằng giấy.
Gần ta thì có người Hời
Ngoài những nông nỗi thường của người sống cạnh kẻ thắng mình thì người Nam đối với người Hời cũng không thấy ai kể lại hay ghi chép những cung cách gì làm quá lắm.
Thế mà, ngày nào song thời nội thuộc Tàu, thành Long Biên chạy toán loạn về giặc Lâm-Ấp.
Cũng ngày nào kinh thành Thăng Long, trẻ dắt già, mẹ bồng con chạy loạn Chiêm-Thành, cả vua lẫn quan bỏ kinh đô mà sang ẩn bên Bồ Đề.
Ba trăm năm chưa qua hết.
Mà ngày nay, muốn tìm người Hời, đến tận mấy cái tháp chơ vơ trên đỉnh đồi, hay mò vào những vùng núi sâu cũng không thấy. Có còn chăng nữa chỉ có vài làng ở cồn cát Phan Rang với mấy xóm thưa thớt trong Nam Kỳ, thế thôi. Mà người Hời, nào có phải là mấy ông súng sính áo thụng, mấy bà múa may đồng cốt mà người ta vẫn bày ra trong bộ “nhân chủng” không? Có phải là những bà già len lét sau một bụi cây rậm, khăn trùm đầu lê thê, tóc sõa như mấy mụ khóc thảm thiết trong một đám ma to nào ấy. Mà không biết là có phải người Hời không, mấy lớp da ngăm ngăm đen, vớ đâu được đạo Hồi – hồi, vẫn gặp ở lục tỉnh.
Khó nhọc tìm dòng dõi những vua oanh liệt như Khu – Liên, như Chế - Bồng – Nga, thì chỉ thấy một người đàn bà say dí dị, hay tỉnh khóc tỉ tê bên bờ giếng.
Cơn cớ đâu mà đến nông nỗi này.
Kể từ khi những người phiêu lưu từ Mã Lai vượt bể, đến chia nhau rải rác mà ở, từ Hoành Sơn trở về Nam, lập nước cũng đã vài ngàn năm rồi.
Dù khi gây dựng chưa được bền, bị nhà Tần, nhà Hán(đời Triệu ta) đến chiếm, cho một quận Tượng với nước ta cũng chỉ làm một Giao châu. Nhưng trong vài trăm năm, Khu Liên đã nổi lên, giết hết bọn thú lịnh lầu, dựng nên nước Lâm Ấp.
Rồi từ đó, một nước thênh thang, dẫu có lúc hòa, lúc phải cống An Nam cũng làm nhưng vẫn nghênh ngang trên bờ cõi, ai cũng phải gờm phải nể.
Không chịu ở yên với dãy núi, lắm lúc cũng ra cướp miền Hoan, Ái(Nghệ, Thanh), vết chân voi cơ hồ không sức nào giữ được mãi.
Cái nghề phong lưu sinh tệ, thanh sắc dâm mê.
❀ ❀ ❀
❀ ❀ ❀
Mà cách thờ cúng xa hoa, mê tín hão huyền, mười pho tượng bằng vàng chỉ tổ làm cho người ngoài dòm nom.
Kinh đô từ Phật thệ đã lùi vào Trà Kiệu.
Năm lịch tây 1067, mất đất đến Hà Tĩnh.
1307, vì ngòm ngõi một nàng công chúa cành vàng lá ngọc mà Chế Mân nhắm mắt dâng đến ba châu cho Thuận Hóa.
Kinh đô lại lùi vào đến Chà Bàn.
❀ ❀ ❀
Chế Bồng Nga (1366) gọi tỉnh cả nước, đem binh tướng rong ruổi. Cha con nhà Trần phải bỏ Thăng Long đến mấy lần. Không ngờ một tay phản quốc đưa vị anh hùng như thế đến trước mũi tên của Trần Khắc Chân, để kết quả, rất đỗi thảm thương, một đời oanh liệt.
❀ ❀ ❀
1402, nhà Hồ lấy đến Quảng Nam.
Chà Bàn, kinh kỳ của Chế Bồng Nga bị Lê Thánh Tôn hạ (1470). Kinh đô cuối cùng của Chiêm Thành bị phá.
Từ đấy trở đi, mất tỉnh này, mất tỉnh khác, chỉ là một cái dĩ nhiên thôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần lấy Khánh Hòa. Năm 1697 chúa Phúc Chu lấy Phan Rang, Phan Ri.
Nước Chiêm Thành hết đất, cái này không can hệ gì mấy, nếu người Chiêm Thành còn. Nhưng mà đau đớn nhất là người Chiêm Thành không còn nữa.
Người Chiêm Thành hiện nay tự sáu bảy triệu người đã chỉ thú nhận có vài nghìn, mà trong vài nghìn ấy, gốc tích tổ tiên không còn nhớ gì. Không tự cho mình là những người có một giá trị chẳng kém gì ai, không tin rằng mình làm việc cũng có thể như người ta hay hơn người ta được, mà chỉ cho như người ta mới là đẹp là hay, là phải, thế thì không biết có còn mong mỏi được gì không.
Đó, trong rất nhiều, chỉ vài cái gương đó cũng làm cho chúng ta rõ rằng quên gốc là nguy hiểm.