TỔ TIÊN TA
Hãy nhìn rõ cái cội gốc của ta.
Xa xôi thì lấy người từ dân nước Việt
Trả thù được Ngô hung, rồi lại bị Sở tàn… Không chịu hàng Sở, dắt díu nhau về Nam, bao nhiêu quan san, bao nhiêu đời, lặn ngòi noi nước mới đến được đất này mà đặt làng, đắp thành, nuôi người sống, chôn người chết, xây được tôn miếu, dựng lại kỷ cương.
Gần mà còn thấy rõ, thấy lăng thấy miếu, thì cha rồng mẹ tiên còn bao nhiêu di tích trên ngọn núi Cổ Tích ở Phú Thọ.
Đứng trên núi mà ngắm, thì rõ ràng như vẽ: một bên Tản, một bên Đảo, sông Lư, sông Đà, sông Thao(Nhị Hà), ba con sông rót vào một bãi lớn, làng Bạch Hạc, Kinh đô cổ Phong Châu của nước Văn Lang ta xưa. Lưng dựa non cao, mặt ra đất rộng, mỗi ngày ăn vào bể lớn. Rõ ràng quy mô một nước lâu dài. Cả núi lẫn bể, một trăm con giai thật là biểu hiện một nòi giống càng ngày càng sinh sôi nảy nở mãi mãi.
Tổ tiên ta là những người vừa rào bên tả, mở bên hữu, vừa gây dựng cho nước một thể thống, một văn hóa đặc biệt.
Nho giáo đã nhuần thấm vào trăm họ, từ dân đen cho đến người tuấn sĩ, đã rèn nên một mẫu người Nam Việt, một lối sinh hoạt Nam Việt, một văn hiến Nam Việt.
Một lạ rằng: Nho thịnh từ Tàu mà những người đã ở lâu đất Tàu lấy làm quái rằng dân gian Tàu chăm ở làm, còn chậm biết lễ hơn người mình mà dẫu đến cùng đinh cũng biết thờ tự tiên tổ.
Đã được cái chí của ông cha vất vả gian nan để lại, lại vì đất nước khó làm, vì những nỗi gian truân của lịch sử mà vẫn giữ được cái khí mạnh mẽ nữa. Ấy từ đó mà phát sinh ra những cái cử động oanh liệt như đời Lý, đời Trần, đời Quang Trung, đời đầu Nguyễn.
Với chí ấy, với khí ấy, với đức nhẫn nại cần củ của dân ta, thật có thể mong mỏi được. Có người vì long rễ một lúc dám nói to lên rằng: “Tôi không được nhờ gì cha tôi”. Vậy mà con người ấy đi trên đường vẫn giữ được lễ độ, về đến nhà vẫn giữ được tôn ty, lúc làm việc vẫn trọn được liêm sỉ. Ta có muốn, ta không muốn, ta cũng vẫn được những di truyền quý hóa ấy, làm cho ta không đến nỗi phải nản vì gốc cũ dễ nảy mầm mà hạt mới khó nẩy quá.
TÔN GIÁO TA
Có người luẩn quẩn vì nghĩ hai chữ tôn giáo nào tưởng rằng mình không làm như thế nọ không làm như thế kia, thì mình không có tôn giáo.
Mình vẫn có một tôn giáo, mình vẫn có một phép thờ cúng.
Nho giáo dạy người, vẫn bảo theo một đạo. Đạo ấy suốt tự dưới đến trên, đạo giời, lòng người vẫn là một cả. Từ thái cực sinh ra trời đất, muôn loài, đều một phép tắc, một lý.
Nho giáo không phải của một phái, một hạng người, của một người. Nho giáo bắt đầu từ lúc người ta hợp thành đoàn, thành nước, trải hai đời đế, ba đời vương, thể lòng trời mà đặt ra phép tắc, làm cho thiên hạ thịnh trị, một thời đại đồng.
Đến cuối Chu, đạo đã suy, người đã bạc, Khổng Tử mới thu nhặt các phép cũ mà để lại cho đời sau.
Trong một quãng khá lâu, nhiều người không thấy sách chữ Nho còn đem lại được cơm áo nữa, thì bỏ hẳn, đến nỗi không còn tin ở nho nữa. Những người đẻ ra ít lâu sau thì dù vẫn sống theo nho mà không còn biết nho là gì. Có kẻ hỏi thế nho có cho là có giời không?
Khổng Tử chép Kinh thi rằng: “Đức Thượng đế chí nhân vô tư”, “ thường cúi xuống xem xét bốn phương, xem dân có sao thì cứu giúp”. Khổng Tử lại nói: “ta tuổi năm mươi mà biết mệnh trời”.
Không những tin có giời, ngài lại cầu giời nữa. Khi ngài yếu, học trò muốn cầu cúng, hỏi ngày, ngài bảo: “ta cầu đã từ lâu rồi”. Cầu nguyện, ý Khổng Tử là xin trời lấy sức mà làm điều lành, tránh điều dữ, thế thôi.
Thờ cúng thế nào? Đạo nho là đạo làm người, đạo là đường, đường đi để đến chỗ rất thiện, cho nên không nói những sự huyền bí, huyền hoặc, mê tín, nên nói rằng: “Quỷ thần như ở trên đầu, như ở tả hữu ta, kính mà xa đấy”. Xa để không kêu nài trời, xa để không cúng những chỗ không nên cúng, không “siểm nịnh” quỷ thần, chỉ cho làm được nên người, ở đúng đạo giời là hơn cả.
Bậc cầm quyền trị nước là chịu mệnh trời, chăn dân trời thì thay dân mà tế trời. Dân thì tế tổ tiên, cha mẹ, do tổ tiên trời sinh ra mà kính trời.
Trong tôn giáo thường thì nói: “bản phận cốt yếu của người ta là tỏ công đức trời”.
Nho giáo thì nói:” bản phận cốt yếu của người ta là sống ra người con có hiếu, người dân tốt”.
Không đem một kiếp sau, đẹp đẽ, không đem một cuộc sống sau này ở một nơi khác sung sướng hơn mà hẹn với người, nhà nho chỉ bảo rằng: giời sinh ra người ở đời, hãy lo sao cho trọn đạo làm người, giúp được cho đời; rồi đến lúc chết, hai tay buông xuôi, coi như là về, là nghỉ, cái xác nó là đất bụi lại cho về đất bụi, cái hồn thiêng liêng vốn là một phần chính khí, ở giữa quãng sông núi và nhật linh, cứ sống mãi. Ấy là cái chết thường. Gặp khi phải đem tính mạng mà cân cùng đạo nghĩa, thì có thể “thung dung tựu nghĩa” chẳng ngần ngại chút nào. Sống có phép, chết cũng có phép. Sống thì cẩn thận từng ly từng tý, sao cho cái thân của cha mẹ để lại không vì tai nạn hay vì bệnh hoạn mà hủy thương đi được. Không phải nghĩa mà chết, chết nặng như núi Thái Sơn, nhưng phải nghĩa mà chết thì ung dung đi đến, coi mạng mình nhẹ như lông chim hồng.
Khi thiên hạ vô sự yên vui thì mấy người hỏi đến tôn giáo. Nhưng lúc rối loạn chiến tranh hay những lúc nghĩ đến cái đời người ngắn ngủi vô định, thì người ta hoặc tìm đến triết học hay tôn giáo, muốn tìm một chỗ trú thân một cách bền lâu.
Nho giáo không dùng cách mê tín, không nói chuyện phi thường mà làm cho người vững lòng. Nho giáo cũng là một tôn giáo ở nghĩa rộng, tôn giáo gia đình, quốc gia và thiên hạ.
Nhà nho ở trong gia đình thì thờ cha mẹ, thờ bậc trưởng thượng, cúng lễ tổ tiên. Bàn thờ gia tiên là để chứng rằng trong gia đình tổ tiên vẫn có đó, là điều hay, làm vinh diệu cho tổ tiên mà muốn làm; sắp làm điều dở, sợ điếm nhục đến tổ tiên mà không dám làm. “Trong ba điều bất hiếu, không có con là nặng hơn hết”. Vì thế mà họ đang được sinh sôi nảy nở, dòng dõi được vững bền.
Cái gia đình dòng dõi vững bền thì quốc gia được lâu dài, xã hội bền vững.
Đối với quốc gia thì cái “danh phận đại nghĩa” của Xuân Thu dạy người lấy lòng trung thành. Cầu tôi trung tất ở nhà người con hiếu. Gia đình với tổ quốc liên lạc là ở đó. Ở nhà, con trung thành với cha, vợ trung thành với chồng, ra ngoài nước dân trung thành với bậc chủ tể của nước. Nước vì nhà mà bền, nhà vì nước mà được bền, dòng giống đời đời truyền mãi. Thế thì cái cảm tưởng vĩnh viễn có thể ra sự thực ở ngay đời này rồi.
Tôn giáo bền vững là nhờ có giáo đường, giáo đường của nhà nho là học đường, là gia đình.
Thời Khổng Tử ở Văn Miếu toàn quốc hay ở các tỉnh, là thờ một ông thày, kính lễ ông thày. Ở các làng, tổng hay phủ huyện, Văn Chỉ là thờ các tiên hiền của mọi nơi. Ở những chỗ ấy thờ là để tỏ lòng kính không phải thờ để kêu cầu.
Giáo đường của đạo nho quả là học đường.
Ở học đường không có bàn thờ như một cửa hàng có thánh sư. Thày đồ đó tức là một giáo sĩ, có một đời đạo đức, nói lời thánh hiền, học trò tôn như vua, như cha. Dạy thì thày bắt đầu từ việc lau quét, thưa gửi, đi đứng, lên lui biết lễ rồi sau mới biết văn; trọng nhất là đào tạo nên một nhân cách đã. Học cho đến sáu nghề Khổng Tử dạy như: lễ, nhạc, bắn, cưỡi xe, chữ, tính toán, cũng vẫn là để giúp vào nhân cách; lễ cho biết cách ăn ở, nhạc cho biết cách trật tự, bắn cho chính tâm, cưỡi xe cho biết rong ruổi, lui tới, đi ngay, đi rẽ, chữ viết cho nghiêm chỉnh, tính toán cho biết lo toan. Khi lớn lên vào bậc đại học thì lo cho hiểu biết sự vật, rõ thế nào là biết, thực ý, không tự dối mình, dối người, chính tâm cho chí ngay ngắn, sửa mình, rồi đến sửa việc nhà, trị việc nước, làm việc thiên hạ.
Thày ở trên cao, nói với học trò một câu nhưng lo xem có hợp với nhân với nghĩa. Trò ra đời cư xử chỉ lo sao khỏi phạm vào “danh giáo”, cho khỏi thầy quở mắng đuổi ra khỏi trường.
Đạo là đường. Trên con đường đi để đến bậc “quân tử”, trò theo thày, không làm việc gì mà không kính.
Trong nho giáo, giáo là dạy. Một tôn giáo cốt dạy người làm người thì giáo đường là học đường là phải lắm.
Từ giã học đường về gia đình, người học trò bước vào cái giáo đường thứ hai của nhà nho vậy. Con trai lấy vợ là làm một lễ rất lớn. Một lễ chứ không phải việc thường. Con gái lấy chồng không những là lấy chồng, lại nhận giang sơn nhà chồng, nối dõi tông đường nhà chồng, vì vậy mà chưa “kiến miếu”, chưa yết trước bàn thờ tổ tiên nhà chồng thì lễ chưa thành. Cưới không phải việc riêng của mình, đó là việc của cả gia đình, từ tổ tiên trước kia, bà con hiện tại với con cháu sinh ra sau này là có dự vào cả đấy. Lại có lễ giao bái. Chồng lạy vợ để tỏ lòng kính người giúp mình mà thờ phụng tổ tiên, hầu hạ cha mẹ, sinh con đẻ cái; vợ lạy chồng để kính người phu chúa của mình. Chỗ này vẫn để ý hết sức đến chữ “kính”.
Có con cái là việc mong mỏi. Khi thai dựng là việc can hệ; người đàn bà lo lắng ngồi không dám lệch, ăn không dám càn, tai không nghe tiếng tục, mắt không nhìn việc tục. Dạy con muốn từ thuở trong thai như các bậc phi hậu xưa kia.
Cha mẹ dạy con thì lo con theo những gương xằng bậy, cho nên giữ gìn tự mình để làm kiểu mẫu cho con. Một câu nói một việc làm cũng sợ làm hư con.
Những ngày kỵ lạp, thờ cúng cho đủ lễ, cho con dự vào hết, để cho con biết rõ cái lẽ trước sau.
Nuôi nấng dạy bảo khi còn nhỏ là công việc mẹ. Hơi lớn lên là công việc thầy. Lớn rồi, gia đình cùng trường học cùng đào tạo nên con người không phải là dễ. Thế mà lúc có nạn nước, lúc có thù nhà, cha trao gươm cho con, mẹ khắc chữ vào vai con, cho con lên đường, cho con biết con không những là người của một gia đình thôi.
“Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”. Không có con là tội bất hiếu to nhất. Câu này làm bền vững giống nòi đó.
Từ nhà bước ra xã hội, cái giáo đường thứ ba của nho giáo, nhà nho vừa vỡ lòng đã học rằng: “ người mới sinh, tính vốn lành”. Hóa ra với cái lòng “nhân”, cái lòng yêu người, mong hiểu người như mình, người ta không ngờ nhau, không sợ nhau xâm lấn, cho dân gian có thể sống một đời giản dị yên vui được.
Cái đặc điển ấy làm cho người ta hy vọng rằng nho giáo có thể mang lại hòa mình, hòa bình thực cho xã hộ này.
Đấy, ta có một tôn giáo hợp với lòng trời, hợp với bụng người. Không trái với khoa học, vừa hợp được trí khôn, vừa hợp tâm lý, đủ cả ý nghĩa bền vững, vì trước khi lo đến một kiếp vị lai đã lo được cho nòi giống mình, nước mình bền, mà không có những chuyện phi thường của nhiều tôn giáo khác.
Ta xa, là xa chữ nghĩa chớ ta vẫn gần đạo. Nếu ta bước mạnh lên con đường của ta thì tương lai ta chắc là chóng thấy đẹp đẽ.
NHÀ TA
Gia đình
Nhiều lúc bực mình người ta vẫn nói: gia đình, cái nợ. Có người lại hầm hè mà phá gia đình nữa. Kẻ phá, người theo. Vì mắc vào một cảnh gia đình mà mình không biết gỡ thế nào.
Nhưng gia đình là gốc của loài người. Có thể sống làm sao được nếu không có quá khứ, không có tương lai. Tổ tiên là quá khứ. Tương lai là con cháu.
Đang lúc khí huyết còn khỏe, hình như mình sống không cần gì ai nữa. Nhưng cũng đã không có khuôn phép nào kiềm chế thì mình không còn cái gì phải kính, không bó buộc mà theo một con đường được. Đang lúc khỏe mạnh không nghĩ đến con cái, nhưng trong khoảng năm sáu mươi tuổi thấy cái đời mình nó gần hết, hiu quạnh quá, hết rồi và hết nhẵn, ít người chịu được nỗi ấy, mà bấy lâu mới nghĩ đến vợ con thì chỉ còn làm được những việc kỳ quái, ngoài thiên nhiên thôi.
Lại cũng không đợi đến lúc già. Người không có con như cây khô không lộc. Đến một thòi kỳ mà trai không vợ, gái không chồng, sinh ra ác tính, ích kỷ. Đến nỗi ấy vì cái lúc có thể có con cái, đời mình không có một nụ cười của trẻ thơ. Đừng tưởng trẻ con nó chỉ quấy mình thôi. Bé học cha mẹ, lớn học thầy, nhưng ông thầy cuối cùng dạy cho mình biết yêu, biết trách nhiệm, phải làn những gương tốt, là con mình đó .
Nhờ có bàn thờ tổ tiên, mình thờ người mất như người còn. Tổ tiên hình như lúc nào cũng chứng kiến các công việc của con cháu, làm cho con cháu hiểu rằng, mình nhận một trách nhiệm của tổ tiên, trách nhiệm ấy mình phải truyền lại cho con cháu. Với người trước mình, với người sau mình, có một sự liên lạc mật thiết. Thử tưởng tượng xem một người không làm nên tội gì mà lại có cùng họ với Hồ Quý Ly, với Mạc Đăng Dung, cực biết chừng nào. Cái tên họ, cái gia thanh bao nhiêu đời đã truyền lại cho đời sau nó vẫn trong sạch như xưa. Vì vậy mà không dám làm càn. Không có gì chua xót bằng… người ta đăng tên họ dưới một cái hiệu rất xấu xa.
Thế thì làm sao mà ghét gia đình.
Đạo đức cũ đã mất, đạo đức mới, nếu có thể gọi thế được, chưa có. Trong nhà chỉ có cái hình thức mà mất tinh thần rồi. Không còn tinh thần thì hình thức chỉ là một cái khó chịu, một cái ràng buộc. Bậc bố mẹ mình khi nhỏ có được biết khuôn phép cũ, sau vì thấy nó không thiêng nữa, không đem lại danh lợi lại được nữa, đã nhãng bỏ nó mà cư xử như những người khác, và không dạy con theo phép tắc cũ nữa. Bây giờ các cụ có tuổi, biết cái nhầm của mình, muốn trở lại nền nếp cũ thì các cụ nhớ nhiều nhất là các hình thức cũ. Mình là con đã không chịu giáo dục cũ, làm gì có tinh thần cũ mà lại phải theo hình thức ngặt nghèo thì sao cho khỏi có lòng không thích.
Nhưng cũng không nên lo lắm, tinh thần cũ là ở tính giời, vì thế mà tinh thần ấy không chết được. Ta cố ở cho hết đạo thờ cha kính mẹ, hòa thuận với anh em thì ta lại thấy dễ dàng mà vào trong khuôn phép, không thấy nó ngặt ngòi nữa.
Gia đình thịnh vượng thì nước lại thịnh vượng. Nếu không gia đình, nhác vợ con, thì nói gì nòi giống.
Lấy vợ.
Việc lập gia đình tất nhiên là ở chỗ lấy vợ. Nói thật thì nói “lập gia đình” không phải là tiếng ta. Gia đình mình đã lập từ lâu. Nghĩ mình lập gia đình là nghĩ một cách ích kỷ! Mình lấy vợ là làm cho gia đình mình bền vững, chớ không phải là mình lập gia đình mới. Vì thế mà chọn người làm với mình không phải là tìm người có thể làm cho mình sướng, mà là kén người có thể sống ở gia đình mình được, để nối dõi tông đường, để quản cố việc trong cho mình, để làm tướng từ cửa trở vào trong khi mình làm việc ngoài, việc đời. Vì thế mà phải môn đăng hộ đối. Đăng đối không phải là con ông Tổng đốc thì phải lấy con ông Thượng thư. Thế nghĩa là con người lương thiện thì chọn vợ ở nhà lương thiện. Thế thôi.
Vợ về nhà mình phải thờ kính bố mẹ mình rồi mới hầu đến mình. Bởi vì phải thờ cha mẹ mình, nối dõi tông đường nhà mình nên mình phải kính vợ. Vợ chồng lấy nhau “tương kính như tân” là: kính nhau như bậc khách, chớ không phải coi nhau như khách.
Kén người con hát thì kén người sắc đẹp vì con hát chỉ là một cái chơi; nhưng lấy vợ thì phải lấy người hiền đức, vì vợ không phải là đồ chơi. Yêu nhau vì sắc thì sắc kia có thể phai nhạt là tình yêu cũng phai nhạt theo. Yêu nhau, trọng nhau vì hiền đức thì hiền đức cùng lòng yêu bền mãi mãi. Mê mải nhau vì sắc đẹp mà không xét đến tính tình thì khi mê đã hơi tỉnh, tính mới lộ ra, chỉ cãi nhau mà tiêu tán hết hạnh phúc. Trọng nhau vì hiền đức thì không thể ngang trái được, vì chồng nể vợ mà không hề trái ý vợ, vợ kính chồng mà không dám làm mất lòng chồng, kính nể nhau làm cho ít tiếng xô xát, hạnh phúc bền vững .. … Ông Hoàng Diệu mất, bà đang đi cấy, được tin, đứng mà mất. Tình một đôi vợ chồng cổ có thể được đến thế.
Một người đàn bà nếu biết rằng chồng mình yêu mình vì sắc, chắc chắn tủi thân lắm lắm. Một người đàn ông yêu vợ chỉ vì sắc, khổ sở bao nhiêu.
LÀNG TA
Làng
Kết án làng. Kết án cái đình làng. Nghe mạnh lắm. Người chưa nghĩ đến nghe thích lắm.
Ngờ nghệch thật khi chúng ta cứ tưởng người hàng phố hơn là dân quê. Ta nên biết người sống trong cảnh thiên nhiên hơn bọn sống trong đống gạch đá. Nhìn cảnh trời đất, xem cây cỏ mọc làm cho người ta có một triết lý bền vững, nhẫn nại.
Cây đa đầu đình, lũy tre quanh xóm là những vật đáng làm cho ta suy nghĩ.
Làng ta hợp thành, không phải là một sự tình cờ. mấy gia đình họp ở một chỗ tiện nước hay tiện ruộng, đặt dưới quyền bảo hộ thiêng liêng của một vị anh hùng, rồi sinh sôi nảy nở mãi ra. Đặt ra khoán lệ để quản trị lẫn nhau. Làng ta quả là một xã hội bền vững, phép vua có khi cũng phải chịu. Trong làng có cái đình là chỗ dân họp hội. Cứ xem nhiều đình mạn bắc thì cái đình là chỗ dân họp đã. Ông thần ở đấy chỉ ở một cái khám cao nhưng nhỏ. Thờ Ngài ở một nơi khác, chỉ khi có hội lớn, có việc to, có cuộc dân gian vui vẻ thì mới rước Ngài đến. Các cụ ngồi thì lấy tuổi mà xếp thứ bậc, dân gian xung quanh, chèo hát ở giữa. Trong lắm làng có cái đình rất to lớn có ý nghĩa rõ ràng như thế. Cày cấy có lệ tháo nước chung; khi hỏa hoạn có lệ phạt người không cứu, khi giặc cướp có khoản giúp gia đình kẻ vì làng quên mình. Ái hữu có hội yến lão, hội đồng niên, hội trợ tang, thờ thày có hội đồng môn; hội bát âm giư việc cử nhạc ở đình chùa, hội đánh gậy giữ tinh thần thượng võ, hội thể thao như phết, như cầu dỏ, giúp canh nông thì có hội bắt chuột, đỡ đần người làm kỹ nghệ thì có phường bách công.
Ngày rộng tháng dài, sau khi đã vất vả cả năm không nghỉ, đã ăn rau hết bữa ấy đến bữa khác, thì đình đám vui chơi, đánh cờ, leo đu, ăn thịt, uống rượu.
Nhưng ở đây cũng như ở gia đình, cũng gặp cái nạn tinh thần và thể cách không đi với nhau nữa. Nhưng giấy rách còn lề, tinh thần lại rõ thì lại thấy quy mô ngay.
Làng, một tổ chức hoàn bị, hãy nên nhìn nhận lại, có cải lương cũng còn khéo khéo kẻo nhầm huống chi là phá đổ.
Tựa vào lòng dục, dùng cách huyền hoặc mà phá thì dễ đấy, nhưng những tổ chức mấy nghìn năm ấy, cái sức bền nhất của nước phá đi thì đổ tuột cả.
Đừng sợ họ cười là hủ lậu. Hãy nhìn kỹ.
NƯỚC TA
Sử.
Một cái gốc rễ nữa là sử nước nhà. Đọc sử nước nhà thấy biết bao nhiêu đọ gian nan, ruộng triều đã tưới bao nhiêu mồ hôi, cửa ải đã tưới bao nhiêu máu đỏ. Một trận Bạch Đằng, một thành Bình Lỗ cũng đủ làm vẻ vang cho cả một pho quốc sử; huống chi về chế độ, về văn chương, cái nền văn hóa, chúng ta xem đến, đủ tự hào làm người.
Từ trước hai nghìn năm đã có nước, có thể thống, có kỷ cương. Mỗi lần bị áp bức vẫn chống chế không nản. Theo đạo nho đến được chỗ tinh vi, từ đời Lý, thế kỷ 11, đã cấm việc mua bán người, lập các trạm để thông giấy má, đắp đê để giữ nước, mở khoa thi, chọn người hiền, lập quốc tử giám, đặt hàn lâm viện, dựng văn miếu, minh giảm tội tù, sửa sang binh chính, vẽ địa đồ bản quốc. Nhà Trần, sửa việc võ, chấn việc văn, lập thư viện, đi dần vào Nam. Nhà Lê mở khoa minh kinh, làm luật Hồng Đức, nhà Tế sinh, đặt huấn điều dạy dân, dựng nhà Thái học, lập tao đàn, mở nghề in, chỉnh đốn công nghệ khai mỏ, sửa thuế thương chính, chỉnh đốn dân xã.
Nền văn hóa vững vàng là vậy, nhân vật lại không thiếu gì. Đức độ như Tô Hiến Thành, Chu Văn An; giao thiệp như Trương Hán Siêu, như Nguyễn Trãi, đi sứ mà không nhục mệnh như Mạc Đĩnh Chi văn còn để vết ở sử Tàu, như Đoàn Nhữ Hài đi sứ Chiêm mà không chịu lạy; anh hùng như bao nhiêu trai gái đời Trưng, đời Triệu, tướng tá như Lý Thường Kiệt, như Hưng Đạo Vương, người Mông Cổ còn thấy trọng mà tránh gọi tên; Phạm Ngũ Lão, Lê Phụng Hiểu, Phạm Tử Nghi, bao nhiêu dũng sĩ; lý học có Nguyễn Bỉnh Khiêm, lý tài có Nguyễn Công Trứ.
Xem qua từ nay về trước ta có thể tự hào là người Nam, những tình huống lúc này ta nên ngẫm nghĩ mà tự sỉ.
“Biết xấu hổ đã là gần bậc mạnh”
MÌNH TA
Ta hãy xét mình ta.
Biết mình, biết người mới làm được việc.
Mình có cái hay gì?
Trí tuệ thì sáng nhanh.
Học tài lắm, sáng dạ, ham học, trọng học thức.
Khéo tay chân.
Bắt chước khéo.
Nhớ lâu.
Lễ phép
Trọng đạo đức.
Giữ được liêm sỉ ở khu vực mình
Khí dân mạnh.
Yêu gia đình.
Quấn quýt làng mạc.
Dám làm.
Hay nhớ ơn.
Biết thương người.
Ưa hòa bình.
Trên chiến trường có can đảm, kỷ luật.
Cả nòi giống một tiếng nói.
Đàn bà đảm đang, tiết nghĩa, cần kiệm.
Bền chí.
Nhưng,
Cũng lắm thói xấu lắm.
Trốn trách nhiệm
Hay quên nước.
Ra ngoài khu vực mình thì hay quên liêm sỉ.
Khoe khoang.
Dối trá quỷ quyệt.
Cờ bạc.
Không đúng giờ, đúng phân tấc.
Không rõ ràng.
Đến đâu hay đến đó, xong thì thôi.
Làm việc thì ham mê, ít vì chí muốn.
Bướng mà không biết cả quyết.
Không lương tâm.
Hay ghen ghét, không đồng lòng.
Rượu.
Thuốc phiện.
Không giữ mình.
Bài bác chế nhạo.
Xa hoa.
Thanh sắc
Tham.
Phần hỏng cơ hồ lấn phần được. Xem kỹ hai tấm sổ trên này thì đức công có nhiều, đức tư có ít. Khi thường thì tình thường thắng, khi biến thì những tính mạnh mẽ di truyền vẫn phát ra được. Những cái cốt vẫn có, nếu chịu chạy chữa bỏ những cái ham muốn một lúc thì có thể mong mỏi được:
HAY
Xét kỹ từng khoản.
Người Nam học tài lắm, trí tuệ sáng suốt, nhanh lẹ. Không kể như mấy ông trạng đời Trần, đời Lê làm cả trạng nguyên hai nước: Tàu và Ta. Ứng đối nhanh nhẩu và tài tình. Nhớ được dai và nhanh. Đọc thuộc lòng tứ thư là một chuyện sứ thần đầu Lê. Ứng khẩu một bài văn tế mà đáng ghi vào bắc sử là tài cụ Mạc. Ngay bây giờ ở nước ngoài và ở nhà, những học trò cao học mà xuất sắc thật không thiếu gì người, song bay bướm lại nên hồn hậu; nhanh lẹ nên ngại chuyện hấp tấp. Chúng ta nên ngừa mình, mỗi khi phải suy xét kỹ rồi hãy nói thời hơn. Đời nay những người học giỏi hay lấy một tờ bằng cấp, một cái địa vị làm mục đích. Ở lúc tài có thể đo được thì thừa đủ mà ở chỗ không còn đo được thì lại không có bao nhiêu.
❀ ❀ ❀
Vì đó thành một nước trọng văn học, có lúc lại trọng cả võ học nữa. Chữ nho khó là thế mà cái làng nhỏ nhất cũng có ít ra một thầy đồ. Gương hiếu học như thế thật ít có.
Trong bọn thợ thuyền nhiều tay khéo lắm. Những hàng thêu dệt những đồ khảm ba bốn mươi năm về trước thật là tuyệt khéo. Ngay bây giờ cũng lắm đồ làm khéo đến một bậc không ngờ.Nhưng phần nhiều hay có những người muốn sản xuất vội vàng, làm bán được thì thôi cạnh tranh nhau không phải đường. Các người học nghề lại phần nhiều là vì quá tuổi hay thiếu bằng cấp mà học, chớ không phải tự bản tâm yêu nghề. Ở một trường kỹ nghệ ra mà nếu gặp một chân thư ký thì không ngại ngùng gì, làm ngay. Đó là một điều đáng lo.
Thợ An Nam có cái tài bắt chước khá lắm. Nếu được chỉ bảo tốt thì chắc làm kịp người.
Dân có liêm sỉ. Lắm lúc liêm sỉ cũng hiểu hơi nhầm, nhưng cái biết xấu hổ thực là có. Nhất là trong một làng, một phường, tính ấy lại càng rõ rệt lắm. Cũng có ít người ở làng mình thì biết tự trọng, nhưng ra chỗ xa lạ không giữ được nết ấy nữa.
Ai cũng biết rằng người An Nam lễ phép. Dầu ở tỉnh thành hay có những kẻ lấc cấc ngông nghênh, nhưng tỉnh thành chỉ là một phần mấy mươi của toàn dân. Và lại đến tuổi biết nghĩ thì ai cũng thấy những di truyền trở lại mà cư xử khuôn phép cả?
Không nên thấy một phần hư hỏng mà quá lo. Đạo đức bao giờ cũng được trọng, những bậc có đạo đức lớn không khi nào là không được trọng.
Trước sức mạnh; khí dân chỉ êm khoảng chốc lát, nhưng lại hồi ngay. Lịch sử đã bao nhiêu lần chứng thực như thế.
Người An Nam không hay quên gốc. Có người chế An Nam bịn rịn với gia đình, với làng mạc quá. Không biết đó là cái cớ bền vững của giống nòi mình đó.
Tin rằng chết là một cái “về” mà thôi, nên trước một tai nạn lớn, nhiều người dám làm những chuyện phi thường. Không phải tìm trong đám người học thức, những dân thường hay có quả cảm, hay có những cử chỉ rất anh hùng. “Độ hai mươi năm nay, trên vũng Hàn(Tourance) một chiếc thuyền chở dầu xăng, bị một thùng cháy. Trong thuyền chín mạng người, phần nhiều là trẻ con, rối rít kêu cứu. Các thuyền bên vì sợ cháy lây, dãn cả ra. Bỗng có một chiếc ở ngoài rẽ sóng chèo vào, một người dân chài nhảy sang, đội cho nóc thuyền cháy đó phải bung ra rồi hai tay bưng lấy thùng dầu đỏ ngòm mà quăng xuống bể. Con người can đảm ấy bị cháy cả ngực, cả bụng, trụi hết cả râu, phải vào nhà thương. Nằm cứ há hốc mồn vừa thở, vừa khát nước. Vợ bác vừa quạt cho chồng, vừa phàn nàn rằng: “thật cái ách giữa đàng, đâm quàng vào cổ”. Chồng thở dài: “ rõ thật bụng dạ đàn bà”.(Báo Trung – Bắc)
Một bà đàn bà ấy thôi, chớ đàn bà nước Nam không phải vừa.
Những việc kể như trên này vẫn thường được thấy, nhất là ở trong đám những người làm việc nặng nhọc và sống đơn sơ.
Một nghìn năm nội thuộc, bao nhiêu độ khởi nghĩa, đối với người Bắc có thể gọi là thế thù. Ấy thế mà biết bao nhiêu đền và đình thờ các quan lại người Bắc, hoặc đem thánh học, hoặc đem nghề mới dạy dân. Dân ta biết ơn lắm.
Trong chiến trận rất can đảm mà vẫn trọng trật tự, vâng theo mệnh lệnh. Thến mà lúc thường dân ta lại yêu hòa bình. Tính hay cái gì cũng “chín bỏ làm mười”. Phẫn uất thì hò hét chửi rủa rồi ngày mai lại đon đả chào nhau. Ai ở thôn quê cũng thấy thế.
Tiếng Việt Nam là chung cho cả nước Nam. Từ cực bắc cho đến cực nam. Người Nam vẫn nói một tiếng nói. Trong một làng mỗi xóm còn nói một giọng hơi khác nữa là xa nhau nghìn dặm; trong lúc Nam tiến gặp bao nhiêu cảnh vật, bao nhiêu tình thế lẽ nào không có thay đổi đôi chút. Xét ra thì những cái thay đổi ấy còn làm giầu cho tiếng. Nói đến giầu thì tiếng ta thật giầu. Những người cứ kêu tiếng ta nghèo là chỉ vì không học tiếng ta đó thôi. Đố những người ấy về nhà mà gọi tên đủ các đồ vật, hiểu nghĩa được những tên đó, hay đọc một bài văn làm trăm năm nay mà rõ được hết nghĩa. Những người ấy có đôi khi lo đến học tiếng ta thì họ lại học mấy tiếng tàu trong tiếng ta thế thôi. Thật ra tiếng ta có đủ để tả những tình cảnh rất tinh vi, rất hợp, rất đúng. Bỏ không dùng cái lưỡi mãi là không nói được là tại lưỡi hay tại mình. Tiếng ta lại là tiếng đặc biệt của ta dầu có tiếng tầu mà gốc không ở tiếng tầu. Thật là một tiếng sống, một cái cớ làm cho rải rác xa nhau, người Nam vẫn hợp nhất được.
Người đàn bà An Nam là một sức mạnh của nước Nam. Ai nói những chữ giải phóng với đàn bà là nhầm. câu chuyện cấm cung thì họa chăng chỉ có mấy bà công chúa, chớ ở dân gian thì chân lấm tay bùn, vợ thầy đồ còn phải tần tảo, vợ ông quan cũng thẹn nỗi bám lưng chồng, còn muốn hơn chị em ở cái chỗ một tay làm nổi cơ đồ, ở chỗ gửi được tiền lên cho chồng tiêu cho khỏi quấy dân. Một thời trước mà cả bây giờ nữa lắm bà buôn từng chuyến tầu. Luật Hồng Đức, một bộ luật An Nam nhất, để cho người đàn bà một phạm vi rất rộng. Luật Gia Long hơi Tầu nên có ngặt đôi chút nhưng ông quan xử án cũng vẫn dựa vào tục lệ mà không dám thẳng tay bao giờ. Đàn bà ta lại hay lấy danh giá ở chỗ hay giúp chồng, mà sấn sổ ở nơi chồng chiều. Những lỗi mới bây giờ đua mặc đua chơi, đòi nâng giấc, chỉ là việc một lúc, một hạng người thôi.
Ở một làng xem từng nhà một, thấy những nhà sa sút thật ít có, mà những gia đình sinh sôi nảy nở lên, làm ăn dù không cấp phát lên ngay nhưng ăn nhịn để dành, nay một tí, mai một tí cho đến khá, thật lắm lắm; ta thật là một dân có chí.
Một lẽ sống nữa là nhà mình đông con. Nhiều người tự cho mình có văn minh thì chế nhạo việc này lắm. Nhưng mà với những nỗi biến cố xảy ra luôn mãi, mình còn sống được, chẳng nhờ cái đông con là gì? Mình không giữ được mình để đến nỗi bệnh hoạn, đẻ ra những con ốm yếu điên dại, đông con thật là hại nước. Đẻ con ra mà không giữ được sữa nuôi nó, lại nuôi vú để hại con người khác, đông con như thế là hại người. Con lớn lên mà không trông nom nó, không dạy nó, không cho nó những gương tốt, đông con như thế là hại đời. Cho mỗi gia đình được một nửa tá con mạnh khỏe, ngay thẳng, sức lực quốc gia, hy vọng xã hội chả ở đấy thì ở đâu?
DỞ
Bây giờ nói đến chỗ không đủ:
Lâu nay mình quen dựa dẫm; ở nhà dựa dẫm đã thành thói, ra ngoài lại dựa dẫm nữa, ta đã đến chỗ cho mình là không tự mình làm được việc gì cả. Lẩn việc cho là khôn, trốn trách nhiệm cho là láu. Thành tính rồi thì nguy lắm. Ta phải chọn việc mà làm. Làm việc nhỏ cũng thật cho xong việc nhỏ, dần dần quen đi thì việc nhớn cũng đủ gan mà làm được. Mình yếu mình khổ, hãy kể lỗi mình đã, đừng đổ tại số, tại người, tại trời. “Người quân tử không oán trời, không giận người”.
Đã trốn trách nhiệm quen thì còn ít chí nào chỉ hay lo cho mình thôi. Tiến bậc nữa đến vợ con là cùng. Hay quên rằng nước có một phần là chính mình với cái xấu, cái hay của mình.
Mình lại có cái tính hay trọng hư danh, khoe khoang. Đem một phần lướn số tiền kiếm được cung vào chỗ quần áo, giày mũ. Đã lấy mặc áo xấu là mang tiếng thì làm sao cho được cái gan tiến lên.
Dối trá quỷ quyệt, không chối cãi thói hư ấy được. Chống chế thì nhiều người bảo: ấy là một cái khí giới của kẻ yếu. Vậy thì muốn yếu mãi ư: Nói thật, ở thẳng phải can đảm mới làm nổi. Hàng phục mãi thì mong đứng làm sao được. Cây có để cho gió uốn xuống thì mới uốn được chứ.
Cờ bạc là một cái hại to lớn sẽ nói riêng sau này.
“Giờ An Nam” người ta vẫn quen gọi thế. Mời ăn cơm thì năm giờ đến bảy giờ chưa đến. Mình đến đúng thì cũng phải đợi người đi chậm, hóa ra mình cũng đi chậm nốt, thành muộn cả nút, muộn quen đi. Hẹn hội họp cũng vậy. Nếu những người hay đi trễ mà tính xem mình đã làm cho những người khác bị thiệt bao nhiêu thời giờ thì tất phải ghê sợ. Đi không đúng chỉ là một cái cẩu thả, một cái hèn, không tự mình bắt mình theo nổi mệnh lệnh mình. Chúng ta nhất định đi đúng. Họ không đến đúng thì mình về. Đành hỏng việc nhưng hỏng chỉ một lần, hai lần, rồi cũng phải đến được. Chỉ một vài lần là lợi được mãi mãi. Có một chiếc đồng hồ mới được. Đồng hồ thật đúng, chớ đừng có cái thói cho nó nhanh năm phút là vừa. làm như thế là mình làm hèn mình. Cứ thật đúng. Cũng đừng đến sớm, trước giờ hẹn, vừa phí thì giờ mình, vừa làm hỏng việc người, không may mà mình đến sớm quá thì rút đồng hồ ra, đứng ngoài cửa, đến phút ấy, giây ấy sẽ bước vào. Người ta chê mình, mặc; cười mình cũng mặc. Một lần người ta bảo là mình gàn, nhưng hai lần người ta phải nghĩ ngợi, rồi thấy phải nhẽ người ta cũng phải làm như mình. Ấy những cái “chướng” ấy hóa được người đấy.
Ai chả có lúc bực mình vì nỗi đi thửa cái then sắt 25 phân thì người thợ rèn làm 26, 27 hay 23, 24 phân. Chỉ tại không đúng, tại cẩu thả, thế nào cũng xong. Nhưng để đến nỗi làm đi làm lại, thà làm một lần cho thật đúng có hơn không. Với lại tính “gặp sao nên vậy” ấy làm cho khó tưởng tượng được rằng người An Nam làm động cơ máy bay, làm đồng hồ nhỏ và đúng. Hãy có cái thước thật tốt. 26 phân cũng được nhưng đã định 25 phân thì cứ 25 phân, không chịu 25 phân nửa ly; thế cho quen đi.
Cũng tại vì cẩu thả mà đến đâu hay đến đó. Không lo xa. Cái này cũng như mấy cái trên, lỗi vẫn ở chí khí không bắt buộc mình được thì mình làm sao tránh được cho mình những nỗi nguy nan sắp đến.
Cả quyết khác, bướng khác. Bướng thì không suy xét. Cả quyết đã là suy xét rồi. Bướng là cái sức của xác, cả quyết là sức của tâm hồn. Ta nên bỏ cái bướng xằng, mà thấy việc nên làm phải cả quyết. Đã chỉ lo ở ăn mặc ngon và đẹp thì không chịu nghĩ xa. Vì thế mà lòng dễ ghen tị. Cái danh không thực vẫn hay làm ra thế. Một bọn ngồi với nhau bàn bạc thì hay ghen hơi, hay vị mình, như thế đồng lòng sao được. Khi đã biết rằng “gốc thì ai cũng có được lòng thiện”,thì dễ hiểu nhau, làm việc cùng nhau tất dễ.
Rượu và thuốc phiện sẽ nói sau.
Mình tính hay vui. Thấy cái gì cũng làm câu chuyện pha trò, câu chuyện cười rồi dương dương tự đắc là mình hơn người hay thắng người bằng một cách dễ dàng như thế.
Nguy hiểm lắm, không chử câu nào chua chát bằng lời chế nhạo. Chế nhạo lại làm cho mình tự cao, tự túc, rồi mình không khá lên được, đã hay rằng khí hậu nóng hay làm cho người ta quay ra cười, nhưng cái trầm mặc lặng lẽ vẫn mạnh hơn, vì có thế mới suy tưởng được.
Sẽ nói đến cái xa hoa và chơi thành sắc.
Nói ngay đến cái thói chép miệng, thờ dài. Ít lâu trước, con mà thở dài là mẹ trừng mắt nhìn. Ôm cầm ngẩn ngơ là lỗi nặng. Nước Chiêm Thành sắp mất, phát ra những giọng bi ai. Nhà Lê sắp suy, đem những giọng bi ai ấy vào nhạc bộ. Không phải là lỗi ở lời ca, điệu múa. Chẳng qua trong hồn đã yếu thì cái yếu ăn nhập vào ngay, nó được xứng chỗ, nó tràn ngập ngay đi. Đừng có những tư tưởng chán nản. Người làm việc hết sức, xong rồi về nhà, lời ca khác nào khúc khải hoàn sau khi đã thắng được một trận. Khúc khải hoàn sao có buồn được. Mỗi khi buồn lên, mỗi khi mầm chán nản mới nứt ra, ta hãy tìm lấy một việc, gây lấy một hy vọng, để sức vào làm việc, để chí vào thành công, nỗi sầu tất phải tan tác. Đó cũng là chuyện mình thắng mình.
Ấy được chỗ ấy, hỏng chỗ ấy.
Ta làm thế nào?
Cái gì hay ta giữ lấy, cái gì dở ta bỏ ngay đi đã.