← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 18

Khi nhà thù liên bang Niobe hiện ra trong tầm mắt, Gibson chỉ chỗ cho Swonger tấp xe vào.

“Vậy là anh sẽ chỉ đi vào trong đó và bắt hắn giao tiền hả?” Swonger hỏi, vẫn để chiếc Scion nổ máy. “Kế hoạch là thế hả?”

“Chỉ muốn nhìn nhà tù đó thôi.”

“Đó mà là nhà tù gì.”

“Chỉ một lát thôi.”

“Chó chết, tôi cần đi vệ sinh. Thả tôi ở khách sạn; anh có thể ngắm cảnh cả ngày cả đêm.”

“Một lát thôi,” Gibson nói lại và ra khỏi xe. Anh cần giãn gân giãn cốt và để đầu óc sáng tỏ. Swonger lái xe như chơi trò xe đua và chuyến đi tới Tây Virginia đã bao gồm vô số các pha tạt đầu và đổi làn liên tục. Sau năm tiếng đồng hồ suýt chết, Gibson cảm thấy mệt nhoài. Anh chưa bao giờ thấy nhớ Dan Hendricks nhiều như thế.

“Anh đi đâu?” Swonger gọi với theo anh.

“Anh còn tệ hơn đứa con bảy tuổi của tôi.”

“Tôi cần đi vệ sinh. Báo động mức hai rồi.”

Gibson bước theo con đường tới khi anh không còn nghe thấy Swonger nữa. Điện thoại rung. Là Nicole. Anh nhìn điện thoại trừng trừng, không biết có nên trả lời không, cho tới khi nó đi vào hộp thư thoại. Anh sợ phải nghe điều cô có thể nói. Cô gọi lại ngay, nhưng anh vẫn không trả lời. Anh cất chiếc điện thoại đi và nhìn xuống cuối con đường về phía nhà tù.

Có rất nhiều phong cảnh đồng quê đẹp ở Tây Virginia, nhưng không phải chỗ này. Nhà tù liên bang Niobe nằm ở cuối một con đường cụt hẹp. Một làn xe ra, một làn xe vào - nghe như một bản thu bị thất lạc của Johnny Cash. Bản thân nhà tù trông cũng không có gì lắm, hàng loạt khối bê- tông thấp tầng tỏa ra đằng sau một khu vực trung tâm ở cổng chính. Ngoài dây kẽm gai uốn cong, các hàng rào nhìn không khác gì hàng rào xung quanh một sân thể thao trường cấp ba. Giống một lời nhắc nhở có ích nhiều hơn là một sự răn đe thẳng thừng. Cố gắng vượt trại bất thành đồng nghĩa với vé một chiều tới một trong những nhà tù thực sự của Swonger, đây đã là sự răn đe đủ hữu hiệu rồi.

Anh thất vọng vì đây là nhà tù của Charles Merrick. Charles Merrick mà anh đã biết là một kẻ ngạo mạn, ngông cuồng và nhà tù liên bang Niobe có vẻ không đủ để giam giữ hắn. Merrick xứng đáng với một nhà tù phù hợp hơn. Gibson coi cảm xúc lạ lùng của chính anh là một dấu hiệu tốt. Tấn công một mục tiêu đòi hỏi hiểu biết về mục tiêu đó và thường là một sự cảm thông ký sinh kỳ lạ sẽ xuất hiện. Thường thì anh muốn điều tốt nhất cho những mục tiêu của anh, ngay cả khi anh sắp sửa tấn công họ.

Điều đó thật thú vị. Và cảm xúc đó là đây, đúng như lịch trình. Anh đang dần có cảm nhận về gã - cách gã suy nghĩ, cách gã phản ứng trước áp lực. Gibson để tâm trí anh nhìn nhận lại vấn đề. Đây chắc chắn là một tình thế tiến thoái lưỡng nan có một không hai. Anh có chính xác hai mươi mốt ngày để tách Charles Merrick khỏi tiền bạc của gã. Ngay cả nếu anh biết tiền ở đâu thì vẫn rất khó khăn, mà anh lại còn không biết. Không thể cướp một ngân hàng nếu bạn không biết ngân hàng đó ở đâu. Nên bước đầu tiên là tìm ra nó. À, phải chỉnh lại là, bước đầu tiên là thuyết phục Charles Merrick cho anh biết nó ở đâu.

Hẳn không khó lắm. Gã này mới chỉ giấu tiền từ các nhà đầu tư kể từ khi thành lập Merrick Capital vào năm 1995. Nhưng Merrick đã trở nên bất cẩn. Cuộc phỏng vấn là bằng chứng cho điều đó. Có lẽ gần đến vạch đích sẽ là như thế, nhưng sau khi đã im hơi lặng tiếng thành công ngần ấy năm trời, gã giờ đánh mất sự tự chủ. Câu hỏi là liệu có thể khích cho Merrick lộ chuyện thêm một lần nữa không? Và nếu như thế, tiền sẽ ở đâu? Một người như gã sẽ giấu nó ở đâu? Sau khi nghĩ kỹ, Gibson trở lại trong xe và Swonger quay đầu chiếc xe lái tới Niobe.

Khách sạn Wolstenholme từng có một thời huy hoàng, nhưng Lea đã yêu nơi này kể từ khi tới thị trấn hai năm trước. Kháng cự lại sự suy tàn, vốn chỉ tệ hơn khi bước vào trong, cô gái già ấy đã giữ được phẩm giá của mình và điều đó khiến Lea yêu mến cô. Là một tòa nhà bằng gạch lớn theo phong cách Nữ hoàng Anne, nó thống trị vùng trung tâm Niobe kể từ cuối thế kỷ mười chín, khi tiền từ than đá đổ vào bang này. Khách sạn do Clarence và Bessie Wolstenholme xây, họ là những người giàu có lập dị từ Philadelphia với tầm nhìn thiết lập một tiền đồn văn hóa ở vùng hoang dã Tây Virginia. Hành trình trượt dài, chậm chạp của tòa nhà trong quá trình hư hỏng tương ứng với sự suy tàn của chính thị trấn này. Đó là khách sạn duy nhất trong phạm vi mười lăm cây số, nên nếu có người tới thị trấn, mà điều này cũng rất hiếm hoi, họ sẽ ở Wolstenholme.

Hiếm khi… Trừ vài ngày qua. Những gương mặt lạ đã bắt đầu xuất hiện xung quanh thị trấn, lái những chiếc xe mang biển số từ bang khác. Lea nhận ra màu cam và đen của các biển số New York trên một chiếc SUV ở bãi đậu xe khách sạn. Cô đã giả định điều tồi tệ nhất: những chiếc xe thuộc về các nạn nhân của Merrick đang tìm kiếm sự báo thù hay thuộc về những kẻ cướp thuê đầy cơ hội. Bản thân là tội phạm, Merrick không thể tới xin nhà chức trách bảo vệ. Điều đó biến hắn thành mục tiêu hoàn hảo và trừ khi Lea đoán lầm, bầy linh cẩu đã bắt đầu lượn vòng quanh. Cô tự nhủ đã có bao nhiêu người trong thị trấn rồi. Còn bao nhiêu kẻ đang trên đường nữa? Jimmy Temple ở khách sạn Wolstenholme biết rõ hơn ai hết.

Ở trên đỉnh cầu thang, cô phải xô vai vào cánh cửa gỗ nặng nề để nó mở ra. Tiếng rít của bản lề vang vọng khắp dãy hành lang dài hun hút. Jimmy Temple không có ở bàn lễ tân, nhưng một tấm bảng thân thiện cho biết ông sẽ sớm trở lại. Vừa là chủ, vừa là giám đốc, Jimmy Temple cũng làm đủ việc vặt của khách sạn và dành thời gian chủ yếu sửa chữa những chỗ hư hỏng của khách sạn. Giấc mơ đưa khách sạn về thời vinh quang ngày nào giờ đã giảm xuống còn việc đánh bóng cho chiếc Titanic của đời ông.

Lea reo chuông và gọi tên ông nhưng không có trả lời. Lúc cô tựa vào quầy tiếp tân chờ đợi, bài “Vui Giáng sinh an lành” đang bật trên giàn máy âm thanh nổi ở sảnh, khiến cô mỉm cười.

Jimmy thừa kế lại khách sạn vào năm 1981, sau khi cha ông qua đời. Tới lúc đó, không còn ai qua lại Niobe nữa; sau khi cây cầu sập, Niobe đã bị gạt ra rìa chỉ sau một tối. Với khách sạn sa sút, Jimmy và vợ ông, Donna, suýt thì đã bán nó cho một tập đoàn đầu tư vào năm 1998. Jimmy và Donna đã dự tính chuyển tới Florida Keys để ngắm hoàng hôn tới cuối đời. Nhưng mùa đông năm đó, Donna ngã gục vì viêm phổi. Giáng sinh là kỳ lễ ưa thích nhất của bà và bà trụ được tới ngày hai mươi sáu. Jimmy, vốn không mặn mà gì những buổi hoàng hôn nếu không có vợ ông, dừng mọi thỏa thuận. Ông bán căn nhà của họ, chuyển vào sống trong khách sạn và gần như tự điều hành nó. Kể từ đó, nhạc Giáng sinh chơi suốt 365 ngày trong năm ở sảnh Wolstenholme.

Jimmy Temple xuất hiện từ văn phòng phía sau, lau tay vào một miếng da cũ. Ông luôn mặc đồ vét, ngay cả khi làm việc vặt. Tuổi tác đã hằn dấu lên bờ vai hẹp và tóc bạc trắng. Khuôn mặt hồng hào của ông sáng lên khi thấy Lea. Ông chưa bao giờ đặt chân vào Toproll - Jimmy Temple thích uống một mình - nhưng ông luôn quý mến cô. Cô cũng rất quý ông.

Lea cầm một cái đồng hồ vàng với dây da. Một trong những cổ vật còn lại từ quá khứ của cô. “Tìm thấy thứ này trong quán bar tối qua sau khi chúng tôi đóng cửa.”

Jimmy huýt sáo. “Vàng thật hả? Nhìn có vẻ đắt đấy.”

Ông không biết đắt cỡ nào đâu, Lea nghĩ. “Không phải của khách quen nào cả. Gần đây có ai vào ở khách sạn không?”

“Ồ, có, thực ra là vài người.”

“Vài người?”

Ông mỉm cười. “Hẳn là nhờ tính hiếu thắng của tôi. Khách cứ tới nhỏ giọt vài ngày qua. Và tôi cũng có vài cuộc gọi đặt phòng vào mấy tuần tới.”

“Họ biết đây là Niobe, đúng không?” Cô đùa.

Ông cười. “Tôi không đề cập chuyện đó.”

“Thật vậy sao, tin tốt lành đấy. Bây giờ ông đã có bao nhiêu khách rồi?”

“Chà xem nào, bốn người đàn ông đã nhận phòng ngày hôm qua.”

“Cùng nhau hả?”

“Ừ đấy, cùng nhau. Những người trẻ. Tôi nghĩ là doanh nhân. Tôi nói thế vì họ có mặc áo khoác. Họ không nói gì nhiều, nên chỉ là tôi đoán mò thôi.”

“Còn ai không?”

“Có, hai người nữa sáng nay và một quý ông người Á đã ở đây vài ngày, một người dễ thương. Dân câu cá. Tôi nghĩ là từ Ohio. Không thể xác định giọng anh ta.” Jimmy chỉ vào chiếc đồng hồ. “Nhưng tôi ngờ cái này của anh ta. Anh ta dậy từ bình minh. Hôm nay tới sông Elk để câu cá hồi. Chắc anh ta không tới Toproll đâu.”

“À, cứ hỏi lại đi. Cái đồng hồ sẽ ở đằng sau quầy bar cho tới khi họ có thể nói với tôi chữ khắc trên đó.”

Dù nếu có người nói được chữ khắc trên đó, thì cô sẽ sợ chết mất.

Gibson và Swonger lái xe vào Niobe dọc theo đường Tarte, chạy song song với sông Ohio. Niobe là một trong những thị trấn mà lý do tồn tại từ lâu đã bị lịch sử lãng quên và những công trình xây dựng kéo dài cả thế kỷ đã để lại một dải những tòa nhà sập xệ, bị bỏ hoang chỉ để đánh dấu mực nước thủy triều dâng. Theo bản đồ, đây là khu vực trung tâm của quận Niobe trong lịch sử, nhưng với Gibson, hầu hết thị trấn lúc này chính là lịch sử. Đường Tarte là một dải những tòa nhà gạch, một số mở cửa, một số đóng cửa vĩnh viễn, những cửa sổ bị xây gạch bít bùng như đôi mắt dán băng. Một ngân hàng, một cửa hàng bán đồ kim khí điện máy, một hiệu thuốc. Ba cửa hàng đồ cổ nối tiếp nhau, nếu ta định nghĩa thoáng “đồ cổ” là những đống đồ lạc xoong chất đống trong cửa sổ. Bốn nhà thờ. Một đồn cảnh sát với một chiếc xe tuần tra đơn độc đậu bên ngoài. Một cửa hàng tạp hóa và một quán ăn Food Lion. Một cửa hàng rượu đầy thách thức tên là Niobe Spirits. Xa về bên phải, những tàn tích của cây cầu một thời bắc qua sông Ohio hiện lên trong tầm mắt, một di vật cổ xưa khổng lồ, mang một vẻ đẹp Mỹ hoang tàn.

Một nhóm thiếu niên đứng bên ngoài một tiệm sửa xe hơi nay đã chuyển thành tiệm bán bánh mì kẹp, không làm gì khác ngoài việc đợi đến khi có ai đó xua chúng đi nơi khác đứng. Những đứa trẻ tỉnh lẻ nhập cư không biết đi đâu và không biết làm gì khi đến đây rồi. Swonger tìm chỗ đỗ quanh một chiếc xe tải chở thư tàn tạ đậu bên ngoài, nơi có thể là cửa hàng cho thuê băng video cuối cùng còn lại của nước Mỹ. Chiếc xe tải chở thư khiến Gibson nảy ra một ý. Vấn đề không phải là Merrick đã đầu tư tiền ở đâu mà là bằng cách nào . Nếu Merrick quản lý các khoản đầu tư từ trong tù, gã sẽ cần một cái máy tính. Gibson không biết các tù nhân có được tiếp cận Internet hay không, nhưng ngay cả khi được phép, Merrick không thể mạo hiểm dùng mạng của nhà tù, vì chắc chắn bị giám sát. Vậy hoặc là gã có máy tính… không, điều đó thật ngu ngốc. Gã sẽ giấu một cái máy tính xách tay ở đâu trong tù chứ? Ngay cả một cái máy tính bảng cũng là gần như không thể. Gibson nghĩ lại khoảng thời gian của anh trong tù chờ phiên tòa. Những tay lính gác tiến hành lục soát ngẫu nhiên bao nhiêu lần? Chỉ có từng ấy chỗ để giấu đồ trong một buồng giam và đám lính gác biết tất cả những chỗ đó.

Một chiếc điện thoại di động thì sao? Có thể. Nó nhỏ hơn nhưng vẫn là một rủi ro lớn và Merrick có rất nhiều thứ để mất. Trong suy nghĩ của anh, Gibson vẽ ra một dấu hỏi bên cạnh giả thiết ấy, nhưng cho tới khi anh có lý do hợp lý để tin khác đi, anh loại trừ khả năng Charles Merrick đã giấu điện thoại di động và đồ sạc tám năm mà không bị phát hiện.

Điều đó có nghĩa là Merrick có người giúp. Nếu Merrick không thể quản lý các tài khoản của gã từ trong tù, thì ai đó từ bên ngoài đã thực hiện các giao dịch thay cho gã. Vậy thì Merrick liên lạc với những người đó thế nào?

Khi nghĩ về chuyện đó, thì đó là Bin Laden phiên bản ngược lại.

Thật vậy, Charles Merrick và Osama Bin Laden có nhiều điểm chung. Cả hai đều là tù nhân. Khác biệt duy nhất là Bin Laden đã tự xây nhà tù cho chính ông ta. Giống như Merrick, Bin Laden không thể đi lại và không thể mạo hiểm sử dụng các công nghệ liên lạc hiện đại. Thay vì thế, Bin Laden dựa vào một mạng lưới người đưa tin tinh vi, công nghệ thấp để liên lạc với thế giới bên ngoài. Hoa Kỳ biết họ liên lạc những gì và với ai; chỉ là không biết bằng cách nào. Mất nhiều năm trời, nhưng họ đã lần theo Bin Laden tới Pakistan qua những người đưa tin này.

Trong trường hợp này, Gibson biết địa điểm đối tượng của anh. Merrick là cố định và không di chuyển đằng sau song sắt. Đó là điều đã biết. Những điều không biết là nội dung liên lạc là gì, với ai và bằng cách nào. Vậy thì ai là những người đưa tin của Merrick? Gã nhận và chuyển thông tin bằng cách nào? Như trường hợp của Bin Laden, đó có thể là một mạng lưới con người công nghệ thấp. Nếu Gibson có thể tìm ra và đột nhập vào mạng lưới ấy, anh có thể lần trở lại số tiền. Anh tự mỉm cười. Trong trường hợp này, khoản tiền là “Bin Laden”. Để tìm ra nó, tất cả những gì anh phải làm là định vị kẻ hợp tác với Merrick ở ngoài.

Swonger chạy vào chỗ đậu xe đằng sau khách sạn Wolstenholme và gài phanh.

“Anh đang cười cái gì vậy?” Swonger hỏi. “À, anh đã được khai sáng đúng không. Anh có gì cho tôi nào?”

Gibson xua gã đi. “Tôi chẳng có gì cho anh,” anh nói. “Anh ở đây tuyệt đối chỉ là để quan sát. Hiểu không?”

Swonger đảo mắt và làm bộ mặt như vừa ăn chanh. “Chúng ta ở đây hả?”

“Đây là chỗ tôi ở. Anh đã đặt phòng chưa?”

“Anh là đồ khốn nạn, biết không?”

Khách sạn cao năm tầng, nhưng cầu thang thoát hiểm xiêu vẹo màu đen ở phía sau chỉ lên tới tầng ba. Gibson có thể nhìn thấy những hư hại với bức tường ngoài khách sạn, nơi hai tầng trên cùng của cầu thang thoát hiểm đã long ra và sụp xuống. Làm sao một khách sạn qua được kiểm tra an toàn khi chỉ còn một nửa cầu thang thoát hiểm? Chà… An toàn là trên hết.

Gibson mang chiếc túi của anh vòng ra phía trước khách sạn, nhìn lên rồi nhìn lại xuống đường Tarte. Anh không tin một thị trấn lại không có lấy một nhà hàng. Bên kia đường là một quán bar bằng ván tường không có cửa sổ xiêu vẹo. Trên cánh cửa chính màu xanh lá của nó, một tấm biển được sơn bằng tay, “Toproll”. Bên ngoài, chỗ bãi đậu xe, một phụ nữ với thể hình của dân cử tạ đang gắt gỏng với một người giao hàng. Người giao hàng không muốn gây chuyện với chị ta.

Bên trong, sảnh khách sạn có cảm giác u ám của một bảo tàng bị bỏ quên, nhưng nó hẳn phải rất hoành tráng vào thời hoàng kim của nó. Gibson chẳng biết gì về kiến trúc, nhưng ngay cả anh cũng có thể thấy điều đó. Trần mái vòm vươn lên cao sáu mét trên đầu, nơi một chiếc quạt trần khổng lồ, giống như chân vịt một con tàu cắt vào không khí. Những giá đèn pha lê lấp lánh dọc theo các bức tường đá cẩm thạch bẩn thỉu, dù một số giá đèn đã vỡ hoặc biến mất hoàn toàn. Ngay bên phải là một phòng khách hình bầu dục, gỗ tối màu tạo thành vách tường, với một lò sưởi, những chiếc ghế nhồi căng lên và vài bàn cờ vua. Qua một lối đi có mái vòm bên trái, anh có thể thấy một phòng ăn rệu rã với những chiếc ghế lật ngược trên những chiếc bàn. Gibson ngờ rằng phòng của anh sẽ bao gồm bữa sáng.

Đằng sau quầy là một người đàn ông lớn tuổi mặc một bộ vét ba mảnh. Ông mỉm cười vui tươi khi nhìn thấy họ. Ngay cả việc Swonger ném túi hành lý bẩn thỉu của gã lên quầy cũng không làm nhạt đi sự nhiệt tình đó. Ông chào họ nồng nhiệt và tự giới thiệu bản thân là ông Temple, chủ nhân và giám đốc khách sạn.

“Nhưng cứ gọi tôi là Jimmy.”

Gibson ngay lập tức đã thấy thích ông và bắt tay với ông qua quầy tiếp tân. Không thể nói điều tương tự về người phụ nữ trẻ đang nói chuyện với Jimmy Temple. Khi anh bước vào, Gibson đã có ấn tượng là hai người họ vừa nói xong chuyện, nhưng giờ cô ta lảng vảng ở quầy tiếp tân, theo dõi anh với đôi mắt khó chịu, không chào đón. Anh không quan tâm nhiều tới chuyện đó và quay sang đối mặt với cô ta. Cô ta cũng không có vẻ quan tâm và nhìn thẳng lại vào mắt anh. Cô có vẻ không phải là kiểu người sẽ nhìn đi chỗ khác trước.

“Tôi giúp gì được cho anh không?” Cô ta hỏi.

“Đang tính hỏi cô đấy.”

Jimmy nhảy vào. “A, không, đó là việc của tôi. Lea, cảm ơn vì đã ghé qua. Tôi sẽ nói chuyện với cô sau.”

Cô không coi đó là một ngụ ý mời cô đi mà thay vì thế bướng bỉnh tựa vào quầy lễ tân như thể đang cắm rễ ở đây vậy. Thật là một ủy ban chào đón hay ho. Và tại sao lại có nhạc Giáng sinh ở đây?

Gibson nói với Jimmy là phòng anh đặt ở tầng năm và hỏi liệu anh có thể chuyển xuống tầng ba không.

“Thực ra toàn bộ tầng năm đã được đặt hết,” Jimmy nói. “Chúng tôi rất vui nếu anh chuyển xuống tầng ba.”

“Đặt hết sao?” Người phụ nữ với đôi mắt khó chịu hỏi. “Từ khi nào vậy?”

“Mới sáng nay. Bốn quý ông. Không phải tuyệt sao?”

“Họ cần cả tầng đó sao?”

“Họ cần sự yên tĩnh và riêng tư, nên họ lấy tất cả các phòng trên tầng đó. Tôi nghĩ là họ đang nghỉ dưỡng hay sao ấy. Họ nói có thể có những cộng sự tới đây với họ. Dù cho họ có làm công việc gì, thì tôi cũng muốn tham gia,” Jimmy nói với một cái nháy mắt đầy âm mưu.

“Họ sẽ ở đây bao lâu?” Cô hỏi.

“Họ để lịch mở, nhưng tối thiểu là một tuần.”

“Chà. Hay đấy, Jimmy,” cô nói, giọng điệu không hề có vẻ là cô thấy chuyện này hay. Cô giơ chiếc đồng hồ vàng lên khi cô quay lưng lại để rời đi. “Cho tôi biết nếu có người làm mất thứ này.”

Jimmy nói ông sẽ làm thế và hướng sự chú ý trở lại với những khách hàng của ông. “Chúng tôi có một phòng đẹp ở tầng hai hoặc ba nhìn ra sông.”

“Còn phòng nào nhìn ra phía sau không?” Gibson hỏi.

“Anh muốn nhìn xuống bãi đậu xe của chúng tôi hả?”

“Nếu ông có,” anh nói. “Tôi thích mặt trời mọc.”

Jimmy nở một nụ cười kiểu khách hàng-luôn-luôn-đúng và kiểm tra cuốn sổ đăng ký bìa da. Không máy tính. Jimmy Temple thuộc trường phái cũ. Gibson chẳng hề quan tâm tới bình minh. Nhưng giả sử phần cầu thang thoát hiểm còn lại vẫn còn vững về kết cấu, anh thích ý tưởng là có thêm một lối thoát nữa. Chỉ để phòng ngừa. Gibson đặt phòng với tên Robert Quine và đưa Jimmy một giấy tờ tùy thân và thẻ tín dụng cùng tên. Sau vụ Atlanta và với Jenn Charles vẫn đang mất tích, việc thận trọng khi dùng nhân thân giả trong trường hợp anh cần biến mất vội vã là cần thiết. Chúng là đồ giả chất lượng cao và Gibson ghét phải sử dụng chúng, nhưng anh muốn để lại càng ít dấu vết ở Niobe, Tây Virginia càng tốt.

Jimmy Temple đưa chìa khóa cho Gibson - một chiếc chìa khóa thật, không phải chìa điện tử. Trường phái cũ, quá cũ.

“Khách sạn có Wi-Fi không?” Gibson hỏi.

“Tôi e là chỉ ở sảnh thôi. Tôi đã có ý phủ khắp khách sạn, nhưng anh biết mọi chuyện mà.” Jimmy mỉm cười tươi tắn. “Thoải mái nhé, anh Quine.”

Lea rời khách sạn, nụ cười giả tạo của cô tan chảy trong ánh mặt trời. Cô đang gặp rắc rối và biết điều đó. Ít nhất bảy kẻ mới tới trong vài ngày qua, thêm hai gã hề vừa lấy phòng. Cô không chắc bao nhiêu người tới đây vì Merrick, nhưng những gã lấy tầng năm kia không ở đây để nghỉ dưỡng. Có một điều chắc chắn: cô có thể đã khởi đầu trước bầy thú, nhưng giờ chúng đã đuổi kịp cô và cô đang có nguy cơ bị bỏ lại sau. Trừ khi cô thích nghi, bỏ kế hoạch của cô và nhìn nhận thực tế rằng tình hình đã thay đổi. Ngoài ra, cô cần quyết định cô thực sự cần gì từ chuyện này. Điều mà cô có thể chấp nhận.

Sau hai năm ở Niobe, lên kế hoạch và chờ đợi, cô phải biết câu trả lời.

Vậy thì cô muốn gì?

Bên kia đường, Margo đứng ở bãi đậu xe của Toproll đang ký gì đó cho một người giao hàng. Một thùng đầy bia nặng tới bảy mươi cân, nhưng sếp của cô nhấc nó lên dễ dàng và đi vào trong quán bar. Lea băng qua đường Tarte, nhấc một két bia cổ dài và theo chị vào trong.

Margo quay lại nhìn cô. “Tôi đã nói là cô không được tới quán bar khi rảnh rỗi mà?”

“Tôi tới đây nói chuyện với chị.”

“Ồ? Vậy thì nhanh lên. Lát nữa bạn trai cô sẽ đến đó,” Margo nói. “Năn nỉ để được vào lại quán.”

“Tommy Hillwicky? Chị nói thật đấy à?”

“Nó tỉnh táo nên có lẽ nó sẽ nói điều gì đó đúng và rồi sau đó nó sẽ lại say và nói bậy.”

“Vậy thì tại sao?”

“Nó nốc được nhiều bia hơn cô, hạng ruồi ạ.”

Lea nhún vai. “Chị là chủ mà.”

“Phải, như những người da đỏ sở hữu Manhattan vậy.” Margo đặt két bia xuống và giơ tay ra. “Vậy cô muốn nói gì đây? Vì cô sẽ không được tăng lương đâu.”

“Còn nhớ chuyện chị nói về việc đánh nhau không?”

“Đại khái thôi.”

“Tôi có thể cần chị giúp chuyện đó.”

Margo nhìn cô tò mò. “Giúp kiểu gì?”

“Chị nợ bao nhiêu tiền với quán bar này?”

Mắt Margo nhỏ lại. “Đủ nhiều.”

“Nếu có cách giúp chị thoát khỏi ngân hàng thì sao? Chị có quan tâm không?”

“Tôi đang nghe đây.”