← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 31

Sáng hôm sau, Gavin đã đi mất. Lea cho gã mượn một cái gối và một cái chăn, chỉ cho gã cái ghế bành và rồi thiếp đi khi vẫn còn mặc nguyên quần áo. Khi đồng hồ báo thức reo vào năm giờ sáng, cô thấy người cứng đờ, như thể cô đã ngủ không cựa quậy suốt cả tối. Cô thò đầu ra khỏi cửa phòng ngủ để kiểm tra vị khách trọ của mình; gối và chăn được bỏ lại đúng nơi cô đã để chúng. Không có lời nhắn hay dấu hiệu nào về việc gã đã đi đâu, nhưng thông điệp là thật rõ ràng - giờ cô chỉ còn lại một mình. Thật ngạc nhiên, cô thấy mình nhớ Gavin. Cô không thực sự biết phải làm gì với chuyện đó - nhớ người khác là điều cô đã không cảm thấy lâu rồi.

Cuộc săn tín hiệu thật đáng thất vọng với cô, nhưng cô cảm thấy biết ơn vì sự rõ ràng đã hiện ra. Từ trước tới giờ, những nạn nhân của cha cô luôn là một sự mơ hồ, một con số vô nghĩa. Nên việc gặp gỡ Gavin và trực tiếp biết những hủy hoại mà cha cô đã gây ra khiến cô thấy hổ thẹn vì đã không hiểu được tác động thực sự từ những tội ác của ông sớm hơn. Cô quá tập trung vào cuộc trả thù cá nhân tới mức cô đã nghĩ tất cả những tội ác của cha cô là liên quan tới cô. Cô thật ấu trĩ. Ký ức của việc nói với Gibson rằng số tiền đó thuộc về gia đình cô khiến cô co rúm người lại. Số tiền đó là của những gia đình như Swonger và Birk.

Liệu có còn cách nào không?

Lea pha cà phê và suy tính xem cần phải làm gì. Chuyện hợp tác giờ đã tan nát - đã tới lúc cho kế hoạch B, hay đúng hơn, kế hoạch A ban đầu.

Cô chỉ mất hai mươi phút để gói ghém đồ đạc. Cô mở một va-ly và một túi đựng rác. Khi cô đã xong xuôi, túi đựng rác căng đến mức gần tràn ra ngoài, trong khi tất cả những đồ vật tầm thường của cô chỉ chiếm ba phần tư cái va-ly. Cô nửa thấy buồn vì thấy mình là một kẻ lang thang như thế và nửa thấy tự hào rằng cuộc đời đã dạy cô sự giản dị. Cuộc đời cô là một bài ca của Bob Dylan. Những gì ít ỏi còn lại, cô bỏ lại cho người thuê nhà tiếp theo của Margo, nếu còn có một người như thế. Người ta về cơ bản không đổ dồn về sống ở Niobe này.

Một túi vải duy nhất treo lủng lẳng trong tủ đồ của cô. Cô mở nó ra và đặt chiếc váy màu vàng ra trên tấm nệm. Cô nhớ lại khi cha cô làm cô ngạc nhiên với chiếc váy đó, trải nó nhẹ nhàng lên ghế của cô khi cô đi xuống nhà ăn sáng. Mắt ông dán vào tờ Wall Street Journal , giả vờ không nghe tiếng cô ré lên lúc phát hiện ra hộp trang sức thay chỗ cho bữa sáng. Chiếc vòng cổ đã khiến cô như ngừng thở. Sáng hôm đó cô thấy mình may mắn làm sao khi có một người cha hào phóng như thế. Chelsea Merrick đáng thương, được chiều chuộng đến hư hỏng, ngờ nghệch. Chiếc váy cùng màu với chiếc cà-vạt mà ông ta đeo ngày hôm đó. Cô đã nghĩ đó là sự lựa chọn thật tinh tế, nhưng giờ mới nhận thấy cô thực ra là gì - một thứ phụ kiện cho những thời khắc lớn của ông ta. Họ cùng nhau lái xe tới văn phòng và cô đứng tự hào bên cạnh ông ta trong khi ông ta tuyên bố ra mắt quỹ Chelsea - quỹ thứ ba và cũng là cuối cùng của ông ta được đặt theo tên cô. Quỹ báo hiệu cho sự sụp đổ của ông ta. Cô vuốt váy cho phẳng, nhặt một sợi tóc đen khỏi tay áo. Cô chỉ mặc nó mỗi lần đó, từ kiếp trước.

Cô còn có việc phải làm trong phòng tắm - không buồn đọc chỉ dẫn trên chai; cô đã nhuộm tóc mình nhiều năm rồi. Sau đó, cô bỏ thời gian trang điểm và dùng hết cả một cuộn giấy vệ sinh cho tới khi thấy hoàn toàn hài lòng. Cái tôi mười bảy tuổi của cô hẳn sẽ kinh hoàng với thành quả trang điểm này, nhưng đó là những gì khá nhất mà Lea có thể xoay xở được lúc này. Đã nhiều năm rồi cô không dùng gì ngoài son môi bóng.

Chiếc váy vẫn vừa, bó sát vai và hông, nhưng không quá bó để có người sẽ chú ý. Năm chín tuổi cô đã cao nhưng lúc mười bốn tuổi thì chỉ vào loại trung bình, rồi không cao thêm một phân nào nữa. Cô nhìn lại mình trong gương và lấy làm khó hiểu với cô gái nực cười đang nhìn lại cô. Cô đã từng mặc thế này có mục đích một lần rồi sao? Chiếc cổ áo giả kiểu vũ công ba-lê, phần eo váy ôm lại, phần gấu váy cầu kỳ quá cỡ - cô cảm thấy mình là sự tưởng tượng về hình ảnh công chúa của một người khác. Mà cô cho là mình quả thật từng là một công chúa. Phải có người nào đấy nói chuyện phải quấy với cô gái đó. Toàn bộ vẻ ngoài này thật quá, quá lố … và bởi thế, thật hoàn hảo. Rốt cuộc thì lố lăng chính là thứ ngôn ngữ ưa thích của Charles Merrick.

Nhưng sẽ không thế nếu cô nhìn như một kẻ tị nạn chiến tranh… Cô ép mình nở một nụ cười gượng gạo chẳng có tác dụng gì ngoài việc dọa đám trẻ con. Không hấp dẫn tí nào, Chelsea , cô nghe tiếng mẹ cô nói. Cô không muốn làm Chelsea Merrick lần nữa, nhưng cô sẽ làm lần cuối cùng này. Vì ông ta. Cô tập trước gương cho tới khi nụ cười của cô tỏa ra sự ấm áp và yêu thương. Cha mẹ cô đã cãi nhau về các lớp học diễn xuất của cô khi cô học cấp ba. Cô nuôi mộng ảo trở thành diễn viên, một ngày nào đó sẽ diễn ở Public, Cherry Lane, Minetta Lane. Mẹ cô, chưa bao giờ là một phụ nữ nồng ấm, coi đó là một thú vui xuẩn ngốc, phù phiếm, nhưng cha cô khuyến khích nó. Rõ ràng là bản thân ông ta cũng luôn đóng kịch - một người ngay thẳng trong xã hội, một nhà tài trợ từ thiện, một người chồng thương yêu, người cha tận tụy - nên có lẽ ông ta nhìn thấy giá trị trong việc đó. Hay có lẽ ông ta biết điều đó sẽ làm vợ ông phát khùng.

Lea vẫn không có quan hệ gì với mẹ cô. Veronica Merrick đã vật lộn với thuốc kích thích và rượu trong những năm sau vụ bê bối. Họ có cuộc tái ngộ thảm họa ở Miami sáu năm trước và kể từ đó Lea đã tránh xa bà. Nhưng cô không bao giờ quên những gì cha cô nói vào ngày ông bị bắt giữ, trên điện thoại với một trong những tay kế toán ám muội của ông ta, để chuyển tiền đi trong một nỗ lực che giấu chính quyền và cả gia đình ông ta nữa, như sau này đã rõ.

Con khốn đó chẳng được gì hết.

Lea đặt khẩu súng đeo ở đùi vào vị trí. Hy vọng cha cô sẽ đánh giá cao màn trình diễn của cô hôm nay. Ít ra là cho tới cảnh ba. Trong gương, cô nhìn kỹ chỗ cong ra cứng đờ của chiếc váy; hình dáng của nó có một lợi thế - nó che được quai đeo súng. Cô kiểm tra khẩu Walther PPK 0.38 lần cuối. Mấy người ở chỗ bắn súng cả năm qua đều đã cố gắng thuyết phục cô nâng cấp nó lên thứ gì đó với lực giảm tốc và băng đạn lớn hơn. Nhưng cô thích nó vì kích thước nhỏ, khiến nó dễ che giấu hơn. Khẩu 0.38 cầm trong tay cô thật thoải mái và cô có thể bắn chính xác trong vòng tám mét. Nếu cô cần nhiều hơn tám phát, thì đằng nào cô cũng sẽ chết. Thêm nữa cha cô đã luôn thích các phim James Bond; cô hy vọng ông ta sẽ thích thú màn tôn vinh của cô.

Ngay trước giờ trưa, Lea rời căn hộ phía trên Toproll lần cuối cùng. Cô khóa cửa, đi xuống cầu thang phía sau và chất va-ly vào cốp xe. Sau đó cô đi bộ tới đường Tarte. Bãi đậu xe của khách sạn gần như trống không, lần đầu tiên trong nhiều tuần. Đã tới lúc trả phòng ở Wolstenholme. Hai người đàn ông mặc vét đen đứng ở thềm khách sạn. Một người hoàn toàn lờ cô, mắt gã dán chặt xuống đường, nhưng người kia dõi theo cô từ lúc cô rẽ ở góc cho tới khi cô vào trong Toproll. Không phải cái nhìn đểu giả của một gã đàn ông soi mói một phụ nữ đi qua, mà là sự đánh giá lạnh lùng về mối đe dọa từ cô.

Bên trong, Margo đứng đằng sau quầy bar, đang chất đồ vào tủ lạnh bán hàng. Già Charlie đầy cảnh giác ở chỗ của ông, nhìn chằm chằm xuống chai bia và ly rượu đầu tiên của ông trong ngày, hòa giọng với bất kỳ bài hát nào trên loa. Margo phải quay ra nhìn lại khi chị thấy Lea. Già Charlie chỉ liếc qua cô, không thấy có gì làm ông hứng thú và trở lại với công việc của mình.

“Không biết hôm nay là ngày Lọ Lem đấy,” Margo nói.

“Chào, Margo.”

“Nhìn cô kìa, cô đúng là một cô gái Gilmore.”

“Chị biết không, tôi chưa bao giờ xem chương trình đó.”

“À, hay lắm; cô sẽ ghét nó. Có chuyện gì với mái tóc vậy? Từ khi nào mà cô trở thành một cô gái tóc vàng thế?”

“Đó thực ra là màu tóc tự nhiên của tôi.”

“Tôi không thích. Giờ người ta sẽ nhầm cô với tôi.”

“Có mỗi tóc thì làm sao nhầm được, con quỷ già này,” Già Charlie lầm bầm và nốc ly rượu.

“Cô chia tay các đối tác rồi hả?”

“Chị có thấy họ không?”

“Không, nhưng một người họ đã tới đây và lấy xe tải đi tối hôm qua.”

Lea mỉm cười. Gibson… gã khốn không biết cách bỏ cuộc. Cô hy vọng anh ta tìm thấy điều anh ta đang tìm. Cô đặt chìa khóa phòng lên quầy bar. Margo nhìn nó và bước ra khỏi quầy bar, chùi tay lên miếng giẻ ở quầy bar.

“Căn hộ còn tốt không? Tôi sẽ trừ vào tiền đặt cọc của cô nếu nó bị hư hại gì.” Giọng Margo đầy cảm xúc.

“Tốt hơn khi chị cho tôi thuê.” Lea đưa Margo hai phong bì, một cho chị và một ghi “Parker.”

“Tôi xin lỗi vì không có nhiều hơn. Mọi chuyện không như tôi mong đợi.”

“Ổn thôi.” Margo ném hai phong bì vào dưới quầy bar. “Cô chắc chứ, Gilmore? Cô biết là cô có thể bỏ qua chuyện này, dù cho nó có là gì mà.”

Lea cảm thấy cổ họng cô thắt lại, mắt cô nặng trĩu và ươn ướt. Cô nhớ lại lý do cô không trang điểm nữa. Không còn thời gian để trang điểm lại nên cô không thể khóc, nhưng rồi Margo ôm chặt lấy cô và Lea biết mình không kềm lại được.

“Bỏ qua đi,” Margo nhắc lại.

Lea nuốt lệ, lắc đầu.

“Vậy tùy cô,” Margo nói, nhận thất bại. Chị buông Lea ra và lùi lại.

“Tôi cần một ly sau tất cả những chuyện đó,” Già Charlie càu nhàu.

Lea hoàn toàn đồng ý.

Merrick nằm trên giường gã và nghĩ về tương lai sắp tới. Gã vò tấm chăn thô ráp giữa hai ngón tay và mơ về những tấm chăn bốn trăm sợi chỉ trên một inch vuông. Tất nhiên, họ làm ra cả những tấm chăn cả nghìn sợi, nhưng đó chỉ là trò bịp bợm tiếp thị cho những kẻ quê mùa nghĩ rằng nhiều hơn là tốt hơn; những tấm chăn nhiều hơn bốn trăm sợi chỉ có nghĩa là phải dùng chỉ mỏng hơn, yếu hơn để vừa chỗ.

Gã sẽ ngủ ngon tối nay.

Khi đèn cuối cùng cũng sáng lên, Merrick đợi ở bên giường gã trong khi những tay lính gác bắt đầu lượt điểm danh buổi sáng. Gã nghĩ một người trong bọn họ sẽ lôi gã ra một bên, nhưng đám lính gác đi qua mà không hề nhìn, chỉ huýt sáo ra hiệu là các tù nhân giờ được tự do di chuyển. Gã hỏi một tay lính gác da trắng to lớn với nhiều hình xăm hơn hầu hết các tù nhân là liệu gã có nơi nào mà gã nên đến không.

“Khuất mắt tao là tốt rồi, thằng tù.” Tay lính gác từ chối nhìn vào mắt gã. “Tao không biết gì về chuyện thả tù.”

Bối rối, Merrick đứng vào hàng để đi tắm và rồi ra chỗ nhà ăn như mọi buổi sáng khác. Gã chấp nhận phần ăn sáng hằng ngày của gã và mang khay đồ ăn tới một chiếc bàn trống, nơi gã chọc vào nó đầy tâm trạng. Chiếc bàn nhanh chóng chật các tù nhân trò chuyện với nhau. Không ai nói chuyện với gã hay thậm chí là nhận ra sự tồn tại của gã. Gã quả cũng chưa bao giờ làm thân với những tù nhân ở cùng và họ hài lòng thấy gã biến đi. Sẽ không có những lời chúc mừng và những lời tạm biệt thân mến.

Một tay lính gác da đen cao lớn bước vào trong nhà ăn và nhìn khắp phòng tìm người. Merrick ngồi thẳng lên ở chỗ của mình và nhìn về phía tay lính gác.

“Merrick! Mày làm gì mà còn ngồi đó?”

Cả phòng rơi vào im lặng, rồi tay lính gác nói tiếp trước khi Merrick kịp trả lời.

“Nhấc mông lên đi, hay mày yêu nơi này rồi? Tao có thể quay lại đây sau một năm nữa nếu mày cần thêm thời gian.”

Câu đó gợi ra sự thích thú cho đám đông tù nhân đang tập hợp ở đấy và Merrick nghe những tiếng dè bỉu nhắm vào gã. Rằng gã thật yếu ớt. Rằng gã là đồ rác rưởi. Rằng gã là đồ khốn nạn kiêu căng. Có thể đúng thế, gã nghĩ, nhưng đồ khốn nạn kiêu căng này sẽ ra tù còn các người thì ở lại . Gã bước vội về phía tay lính gác và xin lỗi luôn miệng. Những tay lính gác về bản chất là không thể phạm sai lầm, nên tốt hơn cả là hãy cư xử hối lỗi. Merrick đi theo tay này trở lại khu nhà ở.

“Gom đồ của mày đi,” tay lính gác nói và đứng qua một bên trong khi Merrick thu nhặt đồ đạc của gã, những gì gã có và cho vào một chiếc chậu nhựa. Tay lính gác vẫn còn giận dữ vì chuyện trước đó và thì thầm. “Mày làm tao phải tìm mày như thể đó là việc của tao vậy.”

Đồ đạc đã gom xong, tay lính gác áp giải Merrick tới một phòng giam và còng gã vào một băng ghế cạnh hai tù nhân khác, mỗi người đều có những chiếc chậu trong đó có đồ đạc của họ: những món đồ vô giá trong tù, nhưng chỉ là rác rưởi ngoài thế giới thật. Những người đồng cảnh ngộ với gã giết thời giờ bằng nghi lễ đã được thử thách qua thời gian, trao đổi với nhau những câu chuyện về việc họ sẽ đi đâu, bữa ăn đầu tiên là gì, thứ đồ uống đầu tiên, những buổi tiệc và tất cả những phụ nữ đẹp đẽ mà họ sắp đưa lên giường. Họ cố gắng mời Merrick tham gia, nhưng gã phớt lờ. Gã đã mất tám năm giải trí cho những thằng ngu như hai thằng này, nhưng những ngày đó giờ ở sau lưng gã rồi.

Sau một tiếng đồng hồ, một tay lính gác tới và đưa một tù nhân đi. Vài phút sau, một tù nhân thay thế cho người đó được dẫn vào với một chiếc chậu nhựa, như thể ba người là sức chứa tối đa của căn phòng. Một giờ nữa trôi qua trước khi họ quay lại đưa tù nhân tiếp theo đi. Rồi một giờ nữa. Đến lúc tới lượt của Merrick, bao tử gã đã sôi sục đòi bữa trưa và gã lấy làm tiếc vì đã không ăn nhiều hơn vào bữa sáng. Gã được đưa tới một văn phòng, nơi một tay lính gác điền vào giấy tờ thả tù nhân của gã trong khi Merrick trả lời những câu hỏi. Họ hỏi gã có muốn lấy thứ gì từ chiếc chậu không; gã nói không. Rồi họ vẫn kiểm tra xem có thứ hàng lậu gì trong đó không và ném nó vào một thùng rác. Gã được lệnh cởi quần áo ra để lục soát người.

“Các anh thực sự tin rằng tôi định tuồn thứ gì đó ra từ trong nhà tù sao?”

“Câm miệng, thằng tù, dạng chân ra và ho đi.”

Con đường từ địa ngục đến với ánh sáng luôn thật dài và khó khăn, Merrick nhớ lại trong khi gã đứng theo tư thế đó, nghe tiếng bao tay cao su đeo vào, rồi nhắm chặt mắt lại và nghĩ về những bãi biển cát trắng.

Khi sự sỉ nhục đó đã xong, gã được phép mặc quần áo và đợi trong một phòng giam khác, nơi gã gặp lại những kẻ cùng cảnh ngộ. Họ đang cùng ăn một bữa trưa thảm hại - một thanh lương khô, một cốc nước và một quả chuối nẫu. Để giải trí, hai tù nhân lại cho gã xem màn chiếu lại cảnh tượng họ sẽ ăn mừng việc ra tù, thêm bò bít-tết, thêm những bữa tiệc và rất rất nhiều phụ nữ nóng bỏng không thể nào cưỡng lại được một tay cựu tù cháy túi.

Merrick gục đầu xuống và ngáy đều.

Gibson đậu chiếc xe tải lại bên cạnh đường và mở bản đồ ra trên tay lái. Đã là giờ trưa và trong mười hai giờ qua, anh đã đi nốt hai ô nhỏ nhất còn lại. Đói và mệt, anh cảm thấy như thể anh đã lái xe qua hết mọi đường cao tốc, đường nhánh và đường hẻm ở Tây Virginia. Thật nản lòng khi nhìn lại xem còn bao nhiêu diện tích của bang này anh chưa dò.

Anh nhìn bản đồ lại lần nữa, nghiên cứu những ô còn lại chưa có một gạch đỏ. Khó có thể đưa ra phán đoán một cách thông minh trong trường hợp này. Chỉ còn lại may rủi mà thôi. Từ bỏ có vẻ là một lựa chọn hợp lý. Merrick rất có thể đã tự do rồi. Anh ghét việc không làm được gì cho ông thẩm phán, nhưng anh đã làm hết sức mình trong phạm vi hợp lý mà anh có thể trông đợi. Còn vượt xa thế nữa, thành thật mà nói, nhưng điều đó không đủ cho những gì từ quá khứ xa xưa lắm rồi.

Vậy thì hãy chọn thêm một ô nữa và trở lại đường thôi.

Nhưng ô nào đây?