CHƯƠNG VIII
Người phụng mệnh vua ra Vân Đồn ban chiếu cho Phó Đô tướng Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là Tá Thiên vương Đức Việp. Trần Khánh Dư bật cười nhìn đứa cháu năm nào còn bé loắt choắt chạy trên thềm điện Thiên An giờ xúng xính áo mão đi sau tấm biển Khâm sai truyền chỉ. Trong mắt Trần Khánh Dư, Trần Đức Việp chỉ là một thằng bé con luôn núp sau bóng người anh tài giỏi là Quan gia Nhân Tông. Đứng từ xa trông đám rước biển Khâm sai, Nhân Huệ vương tủm tỉm cười bảo Phạm Chính:
– Đấy, thằng nhãi ấy giờ cũng cân đai cờ biển ra dáng rồi đấy!
Đi theo Trần Khánh Dư đã lâu, Phạm Chính thừa hiểu cái giọng trào lộng của vị vương gia đầy ngạo mạn này. Năm nay, Tá Thiên vương đã qua tuổi hai mươi. Bằng tầm ấy, Nhân Huệ vương đã kịp xông pha giết giặc hồi Nguyên Phong, lập công lớn và được Thái Tông nhận là Thiên tử nghĩa nam. Vậy mà lần giặc vừa sang, Tá Thiên vương cũng chỉ quanh quẩn làm mấy việc nho nhỏ theo lệnh Quan gia. Trong đám vương hầu hàng cháu, Nhân Huệ vương có chăng chỉ tôn trọng Hưng Nhượng vương Quốc Tảng và thương xót Hoài Văn vương Quốc Toản. Một người đủ tài đại tướng, một người xứng trang dũng tướng. Tiếc là Hưng Nhượng vương thì tính khí thất thường, chỉ mải mê phiêu bạt giang hồ chẳng chuyên tâm việc gì; còn Hoài Văn vương đã hy sinh vì nước. Chứ như cái anh Tá Thiên vương này, trong mắt Nhân Huệ vương, đúng chỉ là "thằng nhãi”.
Nhưng Tá Thiên vương lại mang đến cho Nhân Huệ vương một loạt tin tức quan trọng và một đạo mật chỉ. Thứ nhất, Thượng hoàng và Quan gia ban tặng Nhân Huệ vương một chiếc áo lông điêu. Thứ hai, Đức ông Thái sư Trần Quang Khải khen cách xử trí của Nhân Huệ vương khi phát hiện ra bức thư dụ hàng Tĩnh Quốc đại vương của Trần Ích Tắc. Thứ ba, đạo mật chỉ nhắc Nhân Huệ vương chặn bắt mọi lái buôn Hồi Hồi tẩu thoát qua đường Vân Đồn. Đây là vấn đề quan trọng nhất. Trong tất cả những kế hoạch tấn công của quân Mông Thát thời các Đại Hãn hay quân Nguyên thời Hốt Tất Liệt, lái buôn Hồi Hồi luôn là lũ cung cấp nhiều tin tức mật báo nguy hiểm vào bậc nhất cho viên đại tướng chinh phạt. Hiện các tướng trấn ải đều đã nhận lệnh truy bắt không cho lái buôn Hồi Hồi vượt qua biên giới. Chặn đường bộ đã khó, chặn đường biển còn khó hơn, nhất là lại chặn tại một thương cảng. Đạo mật chỉ nhấn mạnh, Nhân Huệ vương phải bằng mọi giá không cho tin tức lọt qua lối Vân Đồn.
Việc truyền chỉ đã xong. Trần Khánh Dư lôi Trần Đức Việp vào một mâm rượu đã bày sẵn. Các món nhắm đều nấu nướng rất cầu kỳ. Trần Khánh Dư ăn ít, ông chậm rãi uống và nheo mắt nhìn Tá Thiên vương say sưa với đĩa bát ê hề. Trần Đức Việp ngà ngà say, liền hắng giọng hỏi: "Chú có biết người thơ cùng tên với chú không?” Trần Khánh Dư tủm tỉm cười đọc luôn bốn câu thơ:
Đêm trước phòng hoa tắt nến hồng
Sớm mai qua bái mẹ cha chồng
Điểm trang vừa dứt thì thầm hỏi:
"Đậm nhạt chàng xem có hợp không?” [34]
Trần Đức Việp khoái quá tóm lấy tay chú, lắc lắc: "Chú cũng thuộc cái bài thơ cầu cạnh này à?” Trần Khánh Dư nheo mắt nhìn cháu: "Vậy Tá Thiên vương nghĩ Dư này chẳng biết văn chương gì hẳn!” Trần Đức Việp vội thanh minh:
– Thực là cháu không có ý ấy. Chỉ là đột nhiên muốn cầu cạnh chú một việc, liền nhớ ra bài thơ này thôi. Mà bài thơ này đâu có phải xếp vào hạng đệ nhất, đệ nhị trong Đường thi!
Trần Khánh Dư cả cười:
– Ta không thích bài thơ này, nhưng phải biết thơ của người thơ cùng tên chứ! Mà, đã lâu rồi ta chẳng để ý gì đến thơ phú đâu...
Quả tình là đã mấy tháng nay Trần Khánh Dư không ngó ngàng gì đến văn chương thi phú. Những âm mưu, những gian kế dồn dập nhằm vào ông và các vương hầu nắm giữ trọng trách đã choán hết tâm trí Trần Khánh Dư. Lần cuối cùng ông nghĩ đến thơ là hôm nàng ca kỹ ở lầu Nguyệt Hương ngâm cho ông nghe. Khi bữa rượu định mệnh gần tàn, người đẹp vắn số ấy đã ngâm bài thơ Hiến Trần Đào xử sĩ của một kỹ nữ tên là Liên Hoa:
Liên Hoa vi hiệu ngọc vi tai,
Trân trọng thượng thư khiển thiếp lai.
Xử sĩ bất sinh Vu Giáp mộng,
Hư lao thần nữ hạ Dương Đài. [35]
Bài thơ có ý trách xử sĩ Trần Đào chẳng yêu chiều nàng Liên Hoa xinh đẹp mà lại hờ hững như không. Quả thực, nàng ca kỹ Đại Lý đã "vận” bài thơ vào cảnh rõ là vừa khéo. Trần Khánh Dư vốn được tiếng là "thương hoa tiếc ngọc” nhưng hôm đó lại ngồi lạnh lùng uống rượu. Nếu bảo tâm trạng ông không tốt thì không phải, một con người hay nghiêng ngả trước mỹ nhân như ông chẳng dễ gì bị tâm trạng ảnh hưởng. Sau lúc mọi việc xảy ra, lầu Nguyệt Hương bốc hỏa, nàng ca kỹ chết oan trong đó, Trần Khánh Dư mới nghĩ rằng tối ấy dường như linh cảm đã xui khiến ông không đắm đuối vào thơ và càng không đắm đuối vào sắc. Khi đám lính bới đống đổ nát tìm tàn tro và lập cho người con gái xấu số một ngôi mộ, Trần Khánh Dư đã lặng lẽ tới trước tấm bia cô quạnh mà đọc cho riêng nàng nghe lời đáp lại Liên Hoa kỹ cũng bằng thơ của Trần Đào tiên sinh:
Cận lai thi tứ thanh vu thủy,
Lão khứ phong tình bạc tự vẫn.
Dĩ hướng thăng thiên đắc môn hộ,
Cẩm khâm thâm quý Trác Văn Quân. [36]
Nỗi đau của nàng Liên Hoa xưa chỉ là không được khách đoái đến, còn nỗi đau của nàng ca kỹ Đại Lý thì khắc nghiệt hơn nhiều. Nàng đã mất cả mạng sống vì vô tình lạc vào một âm mưu thâm hiểm...
Tiếng thở dài của Trần Khánh Dư khiến Trần Đức Việp giật mình:
– Vương thúc có gì mà trầm tư đến vậy?
Trần Khánh Dư gật đầu:
– Phải, ta nhớ đến câu chuyện liên quan tới Trần Đào!
Trần Đức Việp hỏi:
– Chú muốn nói đến trận Trần Đào hay người thơ Trần Đào? Câu hỏi làm Trần Khánh Dư thoáng bất ngờ. Ông cũng không để ý là Trần Đào tiên sinh lại mang cái tên của một trận đánh thảm khốc hồi loạn An Lộc Sơn đời Đường. Bốn vạn nghĩa quân đã bị quân An Lộc Sơn giết sạch. Nhà thơ Đỗ Phủ đã từng làm một bài thơ về trận Trần Đào thấm đẫm máu, nước mắt và phẫn hận. Vẻ như số phận đã xui khiến và ám ảnh đời thơ của Trần Đào, nên loại trừ bài thơ mang chút tự sự đáp lời nàng Liên Hoa kỹ, ông chỉ mê mải làm thơ về thân phận của những người lính nơi biên tái hoặc thơ vịnh cảnh buồn thê thiết.
Trần Khánh Dư đáp:
– Vốn ta vẫn nghĩ đến Trần Đào tiên sinh, nhưng cháu nhắc làm ta nhớ đến trận Trần Đào...
Chỉ vì mấy câu thơ, mà cuộc chuyện phiếm của hai chú cháu trở nên u uất; Trần Đức Việp vội lảng sang việc khác:
– Trình chú, Thượng hoàng có dặn chú nên giảm rượu. Quan gia chỉ cười và bảo riêng với cháu: "Bắt chú Nhân Huệ ngừng rượu chẳng hóa bắt Vân Đồn ngừng sóng!”
Trần Khánh Dư nhìn cháu:
– Quan gia cũng là bậc vua sáng, nhìn thấu cái xấu của thần tử mà bỏ qua. Còn cái xấu gì của ta mà Thượng hoàng và Quan gia nhắc đến không?
Trần Đức Việp tủm tỉm cười:
– Chú thực là tài. Có người dâng sớ hặc tội chú chuyện nón Ma Lôi.
Trần Khánh Dư thủng thẳng:
– Ta đã biết trước là sẽ có chuyện ấy. Giờ ta hỏi vương điệt, muốn phân biệt dân trên đảo với lái buôn phương xa bằng cách gì? Lũ lái buôn thì tay đếm tiền, mắt láo liên do thám. Nếu không để lính tuần nhận rõ chúng, để chúng trà trộn vào dân thì mối nguy không hề nhỏ. Mà... khi nhận sớ hặc tội, Thượng hoàng và Quan gia phán ra sao?
Trần Đức Việp huơ tay:
– Cháu không có mặt trong cung Quan Triều lúc đó, nhưng cháu biết chắc ai dâng sớ.
Nhân Huệ vương nghiêm mặt:
– Một đứa ngấp nghé thò chân vào nội tộc?
Trần Đức Việp gật không ra gật, lắc không ra lắc, ấp úng mãi như kiểu chưa chọn được cách trả lời. Nhưng thế là đủ, Nhân Huệ vương dằn giọng:
– Nó là thằng Khắc Chung chứ gì!
Và không chờ câu trả lời, Trần Khánh Dư nói tiếp:
– Thằng em nó chẳng đã từng mượn thế anh mà gây vạ rồi ư? Chuyện xảy ra năm Canh Thìn, cũng đã gần chục năm trước. Quan gia Nhân Tông ngự xe ra ngoài thành chơi. Xe vua bị người dân chặn lại kêu oan. Hóa ra em trai Khắc Chung là Thiên Thư kiện nhau với dân; án thành thì người ta phẫn quá, phải chặn xe vua mà kêu. Quan gia truyền Nội thư hỏa chính Trần Hùng Thao kiêm chức quan kiểm pháp tra xét, tới lúc đó Thiên Thư đành chịu đuối lý. Quan gia phán: "Đó là họ nể Khắc Chung đấy thôi”. Quan gia liền đuổi viên quan xử kiện và dặn viên quan mới minh oan cho người ta.
Trần Đức Việp chuyển giọng nhỏ như tiếng thì thầm:
– Cháu không ưa ông ta, nhưng Quan gia vốn đã để ý Đỗ Khắc Chung thì sau chuyến ông ta sang trại giặc lại càng quý mến. Văn Túc vương Đạo Tái cũng thích Khắc Chung. Chỉ có một người là không ưa ông ta ra mặt.
Lần này thì tài đoán trước của Nhân Huệ vương không linh. Ông ngồi im chờ Đức Việp nói tiếp:
– Ấy là Đức ông Hưng Nhượng.
Nhân Huệ vương buột miệng kêu:
– Ái chà!
– Cháu cũng không ngờ đâu, nhưng Đức ông Hưng Nhượng nhìn vẻ khụng khiêng của Khắc Chung liền quay ra bảo lũ vương hầu trẻ chúng cháu: "Dũng trong một khắc, ti bỉ vạn ngày”.
Trần Khánh Dư không ngạc nhiên trước câu chuyện của Đức Việp. Ông để ý vẻ trân trọng trong cung cách Tá Thiên vương nói về vị vương đàn anh thuộc chi Vạn Kiếp. Hiếm khi Trần Đức Việp thể hiện thái độ này. Những bực bội cãi vã ngày trước của Trần Đức Việp với Trần Kiện đã từng khiến Thượng hoàng và Quan gia phải nhiều phen hòa giải. Đức Việp trẻ, tính nóng, lớn lên đã được Thượng hoàng và Quan gia bảo bọc. Cho nên Đức Việp yêu ghét rõ ràng, không cần giấu giếm. Anh chàng Tá Thiên vương trẻ tuổi này không được các vương hàng trên ưa, nhưng lại rất hợp với các vương hầu trẻ. Chuyến làm Khâm sai truyền chỉ lần này dường như là cách để Quan gia bắt đầu tập cho em quen với những việc quân quốc. Xem ra việc ấy, Trần Đức Việp không quên. Tá Thiên vương hỏi Đức ông Nhân Huệ:
– Chú có biết Đỗ Khắc Chung hặc chú tội gì không?
Nhân Huệ vương vỗ vai cháu:
– Ta chẳng biết thừa. Nó hặc tội ta luôn tiện việc công thì cho người buôn nón Ma Lôi về bán chứ gì?
– Trần Đức Việp gật gù:
– Vâng. Và ngay sau đó thì Quan gia sai cháu mang mật chỉ ra đây!
– Phải, nghĩa là Quan gia biết việc đề phòng gian tế quan trọng hơn chuyện ta buôn nón phải không?
Trần Đức Việp cười:
– Quan gia truyền chỉ thế nào, cháu trình lại với chú như thế chứ cháu làm sao nói được thay ý Quan gia!
Câu trả lời của Tá Thiên vương kể cũng làm vừa lòng Đức ông Nhân Huệ. Từ lúc đó tới cuối bữa, hai chú cháu chén tạc chén thù cho đến thực say mà gục xuống. Xem ra thì Trần Đức Việp còn định hỏi Trần Khánh Dư vài câu nhưng ông đã say quá rồi.
Có một điều Trần Khánh Dư không kể, và Tá Thiên vương cũng chẳng dám hỏi. Ấy là khoản tiền lãi buôn nón Ma Lôi vào tay ai. Theo lẽ mà tính, tiền ấy rơi cả vào túi Nhân Huệ vương. Nhưng tính cả như thế thì cũng tội cho Trần Khánh Dư. Ông truyền chia số lãi làm ba. Một phần ông thu, hai phần đem chia cho các tướng và quân Vân Đồn. Phải biết rằng, ai mà đi theo Nhân Huệ vương, kể cả buôn bán hay cầm gươm cầm giáo, thì cũng sẽ có quyền được hưởng no đủ và sung túc.
Trần Đức Việp ngồi uống thêm vài chén, ngắm nghía vị Vương thúc say và nói mơ. Rồi thì Trần Đức Việp cũng gục xuống nốt. Khi ấy, ngày đã hết từ lâu.
○ ○ ○
Trần Khánh Dư mơ màng không biết mình tỉnh hay chưa. Ông thèm một bát nước mưa có vắt mấy giọt chanh cốm. Thứ nước này khiến người ta đỡ khát và tỉnh táo hơn. Nhân Huệ vương nhìn nghiêng ra cửa. Trời đã rạng. Mảnh trăng tàn còn náu sau mấy vệt mây trắng nhẹ. Cứ nhìn thời khắc, Nhân Huệ vương biết mình đã say trọn một ngày đêm. Ông đã sống trong cơn mộng tưởng của một ngày đêm. Lâu lâu, Nhân Huệ vương lại có một buổi say như thế. Cơn say mê cuồng và ngây ngất. Cơn say mang gương mặt đàn bà. Và lần nào cơn say cũng chỉ mang gương mặt và giọng nói duy nhất. Gương mặt nửa tiên nửa quỷ và một giọng nói khàn khàn, nghèn nghẹn như xuất phát từ những dồn nén trong thẳm sâu bức bối...
Mỗi cơn say, Trần Khánh Dư thường cố tìm lại hình ảnh người đàn bà đó. Người đàn bà có một thứ hương nồng nàn. Nhân Huệ vương cũng đã từng ngồi với nhiều đàn bà, ôm nhiều đàn bà, nằm với nhiều đàn bà. Ông biết, những người đàn bà có thứ mùi hương thế này luôn lao đến cùng của tận hoan. Họ có thể làm mềm nhũn gân cốt của những chiến tướng, những anh hùng. Nhưng rồi họ lại lụy phải một gã thi sĩ cuồng si và yếu đuối. Họ sẽ dâng hiến cho gã, sẽ cúc cung hầu hạ gã chỉ để đón nhận về một hai khúc tụng ca. Dẫu biết thế, nhưng họ vẫn lụy những thi nhân. Còn những anh hùng thì lụy họ.
Trần Khánh Dư cứ thế nằm trong cơn khát cháy cổ để hồi tưởng giấc mơ vừa qua. Giấc mơ đầy những lời thầm thì cùng những đụng chạm bỏng rát và nhức buốt. Ông trở mình và cố gạt bàn tay tự đặt đè trĩu lên ngực trái. Sau mỗi cơn khát như thế này, ông vẫn thường tự nhủ rằng sẽ đi tìm cho bằng được người đàn bà nửa tiên nửa quỷ. Nhưng biết tìm đâu. Thăng Long thì mênh mông. Liệu có một cơ duyên nào cho họ gặp được nhau, một nhà sư say và một người đàn bà nửa tiên nửa quỷ?
○ ○ ○
Bây giờ thì Trần Khánh Dư mới tỉnh hẳn. Ông ngồi nhỏm lên. Trời vẫn tối. Vài ngôi sao nhấp nháy xa xa. Ông vừa mơ lại về người đàn bà đã từng lướt qua đời ông. Trần Khánh Dư thẫn thờ nhìn ra những đám cây sẫm đen phía xa. Sau lưng ông, Tá Thiên vương cựa mình ngồi dậy. Cả hai chú cháu đã ngủ gục trên chiếu rượu. Đám lính quen lệ, chỉ theo Phạm Chính vào dọn chén bát rồi để nguyên hai vị vương gia nằm còng queo không màn không gối. Tá Thiên vương thì thào:
– Chú không ngủ được nữa à? Cháu thấy chú nói mơ và gọi tên chị Thiên Thụy!
Thật vậy ư, trong mơ ta gọi tên nàng ư? Trần Khánh Dư chống tay xuống chiếu và nằm ngả ra. Chẳng lẽ sự có mặt của Đức Việp ở đây lại khua động vết thương thẳm sâu trong lòng ông? Thiên Thụy là chị cả của Quan gia Nhân Tông và Đức Việp, là Thái trưởng công chúa của Thượng hoàng Thánh Tông.
Thực ra, canh ba đêm hôm sau của tiệc rượu mo nang, Thiên Thụy không đến. Nhân Huệ vương không thể biết rằng trong khi ông đang quần quật đi lên đi xuống bên ngoài quán rượu ven sông Tô thì Thiên Thụy đang lặng lẽ nép vào sau một bụi cây. Nàng đã nhận ra ông sư say đêm qua chính là Phiêu kỵ tướng quân Thiên tử nghĩa nam Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Thiên Thụy lặng lẽ trở về, cố dằn vào lòng một nỗi đau không thể chia sẻ cùng ai. Nỗi đau của người đàn bà đã có chồng nhưng còn lẻn đến với người đàn ông khác. Lúc đi, nàng những tưởng chuyện này chẳng qua cũng chỉ là thú giăng hoa một đêm. Nhưng ai ngờ, vừa trông thấy Trần Khánh Dư, nàng đã biết ngay rằng chuyện này là một mối tơ, nếu vướng vào khó mà gỡ cho được. Vì sao nàng biết ư, linh cảm đàn bà thôi. Và Thiên Thụy im lặng trở về, cố gạt đi những cào xé. Mãi sau này, Thiên Thụy mới kể với Trần Khánh Dư về điều đó...
Và chẳng hiểu sao, vào lúc cơn khát đang cồn cào sau bữa rượu say, Trần Khánh Dư lại kể câu chuyện năm xưa cho Trần Đức Việp nghe. Chuyện xảy ra cách nay đã hơn hai chục năm. Khi ấy, Đức Việp còn chưa ra đời!...