← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IX

Đã sang giờ Mão. Sáng nay, Nhân Huệ vương có hẹn sẽ sang phủ đệ Hưng Đạo. Đức ông Hưng Đạo vương và bốn người con trai vừa lên kinh. Họ lên mời hai vua và các Đức ông chi Tức Mạc cùng phủ Tông Chính về dự đám giỗ An Sinh vương ở thái ấp Mai Hiên. Ai thì Nhân Huệ vương có thể từ chối, nhưng Đức ông Hưng Đạo đã lên thì ông không thể viện cớ này nọ mà trốn tránh. Nhân Huệ vương ngồi dậy trông ra cửa. Ông gọi người hầu mang lên bát nước mưa. Vị vương con nuôi vua ngồi nhẩn nha nhấp từng ngụm nước mưa có vắt chút chanh cốm và ngắm nhìn dáng đi tha thướt của hầu gái. Con bé bắt đầu trổ mã. Gái Vân Đồn có khác. Xinh, giòn, rõ có duyên. Con gái Vân Đồn phơi nắng cả ngày mà da trắng bóc lại còn được giọng hát thật hay...

Cứ mông lung như thế, Trần Khánh Dư lên kiệu sang phủ Hưng Đạo. Ông không thể biết rằng, buổi truân chuyên của đời ông sắp bắt đầu từ nơi đó!

Chỉ một thoáng, Trần Khánh Dư đã biết chắc, đã quả quyết với chính mình rằng ngay trước mặt kia chính là người đàn bà mang mặt nạ "nửa tiên nửa quỷ”. Đó là con dâu cả của Hưng Đạo vương, vợ của Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn. Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng Nhân Huệ vương khi ông nhìn vào mắt của nàng. Đôi mắt pha chút hoang dã và phiêu dạt. Cặp vợ chồng Hưng Vũ vương dường như không phải để dành cho nhau. Chồng thì trầm lặng, lúc nào như cũng trĩu ưu tư. Vợ thì luôn thèm khát tự do, thèm khát tới mức phóng túng. Hai mươi ba tuổi, Hưng Vũ vương đã quen dần với vai trò con trai trưởng của một vị vương dẫu chẳng chức quyền nhưng vẫn đủ uy với cả ba chi trong tông tộc Đông A. Còn Thiên Thụy công chúa lại khác. Rất khác. Nàng vừa là một người đàn bà vào vai dâu trưởng của Đức ông Hưng Đạo lại vẫn vừa là cô công chúa cả của Quan gia Thánh Tông. Những điều đó chỉ thoáng trông là Nhân Huệ vương đã biết. Hai vợ chồng đi bên cạnh nhau mà như một đôi đũa lệch. Nhân Huệ vương tự đoan chắc với mình rằng, bây giờ nếu ông chỉ cần chìa cánh tay ra, người đàn bà - cũng là cháu dâu họ của ông – sẽ ngã vào tay ông. Chẳng phải chưa có người đàn bà nào thoát khỏi tay ông ư? Nhưng nếu như thế, liệu ông sẽ ăn nói thế nào với Đức ông Hưng Đạo. Vị vương chi Vạn Kiếp dẫu chẳng cầm quyền nhưng vẫn luôn khiến người ta vì nể bởi uy vũ trong phong thái và lời nói. Nếu như thế thì...

Trần Khánh Dư giật mình. Hưng Đạo vương đang ha hả cười:

– Em Nhân Huệ dạo này càng ra vẻ khí khái nam nhi!

Một lời khen thực lòng của người anh, nhưng lại khiến Nhân Huệ vương chột dạ. Chẳng phải cái "nam nhi” của ông đang giằng xé trong lòng đây ư. Thấy tận mắt người đàn bà mà mình muốn nhưng lại không thể nói ra được, ruột gan Nhân Huệ vương cồn cào... Nhưng hình như Đức ông Hưng Đạo đang nói tiếp:

– Ta về kinh chuyến này, trước là mời Thượng hoàng và Quan gia, sau là mời các Vương huynh đệ về ăn giỗ. Hai vua đều bận, Tướng quốc Thái úy cũng bận, Chiêu Văn, Chiêu Quốc thì không ở Thăng Long. Liệu em có về Mai Hiền được không?

Tự nhiên, Nhân Huệ vương buột mồm:

– Sao Vương huynh không mời anh Tĩnh Quốc?

Nói xong, Trần Khánh Dư mới thấy mình là hớ. Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang chỉ là con hờ của Thượng hoàng, mà thực là con ruột của An Sinh vương Trần Liễu. Cái lẽ ấy, ai trong họ mà chẳng biết. Mà cũng từ lẽ ấy suy rộng ra, chắc chắn dẫu Đức ông Hưng Đạo có không mời thì Tĩnh Quốc đại vương cũng vẫn phải về làm lễ. Nhưng nhắc ra chuyện đó vào lúc này thực chẳng ra sao!

Đức ông Hưng Đạo cũng nói tránh đi.

– Có chứ, việc mời hết thảy các Vương huynh đệ là việc của cha con ta chuyến này mà...

Nhân Huệ vương đảo mắt nhìn bốn người cháu đang đứng hầu cha và chú. Hưng Vũ vương khoanh tay đầy nghiêm cẩn. Hưng Hiếu vương và Hưng Trí vương đứng sừng sững sau lưng anh cả. Còn Hưng Nhượng vương thì khác. Anh ta lơ đãng nhìn đi đâu đó, đôi mắt ánh lên một tia giễu cợt hoặc một thứ gì gần giống thế. Vẻ mặt của anh ta cứ như là ra điều "ta đã biết tỏng rồi, các người đừng có mà lừa ta”. Chính vẻ mặt đấy mà ý định từ chối đã bị Trần Khánh Dư dẹp bỏ. Ông sợ rằng một lời nói dối bận bịu lúc này khó đánh lừa được ai. Và Nhân Huệ vương nhận lời rồi cáo cùng ông anh là muốn ra sân ngắm cảnh. Ông không muốn tiếp tục câu chuyện sau khi vừa nói hớ. Dù gì chăng nữa, sau khi nói hớ, phải một lúc lâu sau người ta mới hết bị dằn vặt và ám ảnh vì câu nói đó. Nhân Huệ vương đi vội ra sân và mới được dăm bước, ông suýt đâm sầm vào "cái oan gia” mà ông đang cố tránh. Cô cháu dâu mặt lạnh ngắt đi ngang qua ông và khi không ai để ý, thúc một cùi chỏ vào ông. Như một phản xạ, Trần Khánh Dư ngoảnh lại và hỏi đổng một câu: "Gì thế?"

Thiên Thụy công chúa khẽ cúi đầu thưa:

– Thưa chú, cháu mang trà lên hầu cha cháu và khách quý.

Vẻ khép nép giả tạo của cô công chúa vốn quen cảnh quát nạt người hầu trong cung cấm càng làm Trần Khánh Dư khó xử. Ông không muốn mình lúng túng trước mặt "cô ta”. Nhưng càng như thế, ông càng khó giữ được vẻ tự nhiên. Trần Khánh Dư gật gật đầu, lại gật gật đầu và quay lưng, đi như chạy lên thềm căn phòng đọc sách. Nơi đó, Hưng Vũ vương đang khoan thai, đĩnh đạc khoanh tay mời ông vào dùng trà cùng cha của anh ta.

Thiên Thụy công chúa còn toan nấn ná nhưng Đức ông Hưng Đạo đã khoát tay:

Con cứ để đó cho Quốc Tảng hầu trà.

Thiên Thụy cúi đầu vâng dạ rồi đi lướt ngang qua Trần Khánh Dư về phía cửa. Một cơn gió nhẹ thổi bùng qua tấm mành thoảng chút hương con gái khiến Nhân Huệ vương gai người. Ông vốn dĩ đã giỏi nhận biết mùi hương đàn bà con gái. Ông biết người đàn bà nào khát khao, người đàn bà nào khắc nghiệt kìm nén, người đàn bà nào buông thả. Nhưng đây là mùi hương con gái, vẫn một thứ hương con gái tuổi trăng tròn dẫu Thiên Thụy về làm dâu Vạn Kiếp đã sắp bốn năm. Dường như mấy năm làm vợ Hưng Vũ vương, Thiên Thụy vẫn cứ là nàng công chúa năm xưa. Nàng vẫn thuộc về căn lầu công chúa trông ra hồ Dâm Đàm bây giờ đóng kín...

Trần Khánh Dư giật mình và thoát về thực tại. Hưng Nhượng vương vừa tủm tỉm cười vừa nâng chén trà với vẻ cung kính quá mức:

– Mời Vương thúc xơi chén trà Yên Tử.

Trần Khánh Dư đón lấy chén trà và cũng ra vẻ cầu kỳ:

– Hôm nay được Đức ông Hưng Nhượng pha trà cho uống, thực là vạn hạnh.

Đến lúc đó, Đức ông Hưng Đạo mới cất lời:

– Vương đệ uống trà đi. Hưng Nhượng vừa xui ta đem một việc ra nhờ vương đệ.

Trần Khánh Dư ngoảnh sang Trần Quốc Tảng:

– Hưng Nhượng mà đã nhờ, ắt là việc khó. Dẫu khó, nhưng Hưng Nhượng đã nhờ, cũng thật khó từ!...

Cả mấy cha con chú cháu cùng phá ra cười. Hưng Đạo vương khẽ vuốt râu:

– Theo lệ nhà ta, đám giỗ vẫn cần lễ bằng cá. Mọi năm, lễ nhỏ, ta vẫn sai Yết Kiêu chọn bắt một ít cá sông. Nhưng năm nay, tròn thập nhị niên, ta muốn nhờ em kiếm vài con cá lớn ngoài bể Đông. Em giúp cha con ta, cũng là em giúp ta báo hiếu phụ thân.

Nhân Huệ vương khẽ liếc nhìn anh. Chuyện tày trời như thế mà Đức ông Hưng Đạo vẫn thực là thanh thản. Ngày giỗ thứ mười hai không phải là ngày giỗ nhỏ. Vậy mà cả hai vua lẫn Tướng quốc Thái úy đều từ chối không về. Dù gì, An Sinh vương cũng đã từng là vị Vương trưởng tộc. Ai đời, ngày kỵ của vị Vương trưởng tộc mà vắng tất thảy những người quan trọng trong dòng họ thì thực là nực cười. Trần Khánh Dư thấy máu bừng lên mặt. Chẳng lẽ triều đình quên hết cả chuyện điển lễ rồi ư? Mà triều đình quên cả công lao của Hưng Đạo vương làm tướng phá giặc Nguyên rồi ư?...

Nhưng cũng có khi triều đình quên công lao ấy thực rồi. Lần chống Nguyên đó, Trần Khánh Dư có công được Thượng hoàng Thái Tông nhận làm thiên tử nghĩa nam và được phong vương. Công mới chỉ như ông đã được ban thưởng chừng ấy nhưng công đầu của Hưng Đạo vương thì dường như sau đó chẳng có ai đoái đến. Thượng hoàng Thái Tông không nói, Quan gia Thánh Tông không nói, Thái sư Trần Thủ Độ không bàn. Cả mấy vị Trần Nhật Hiệu, Trần An Quốc cũng chẳng một lời.

Bây giờ lại còn đến nước này thì thực quá quắt. Trần Khánh Dư cười nhạt:

– Thưa Vương huynh, đệ sẽ vào tâu xin hai vua cho đánh cá hồ Dưỡng Ngư để gửi lễ làm giỗ bác. Chẳng lẽ...

Nói đến đấy, Trần Khánh Dư không biết nên tiếp tục thế nào. Ông sực nghĩ ra, có lẽ, chính ông nội của ông là người đứng đằng sau việc đó. Thái sư Trần Thủ Độ là một con người khắc nghiệt. Khắc nghiệt với cả dòng tộc, với cả con cháu anh em. Khắc nghiệt cả với chính mình. Năm xưa, Hoài vương Trần Liễu làm loạn. Ông xua quân đánh cho Trần Liễu tan sạch cả quân tướng. Nhưng chính ông đã cho người bí mật giúp Hoài vương tới gặp Thái Tông Trần Cảnh để anh em làm hòa. Cũng chính Trần Thủ Độ mang gươm xông vào hô: "Giết thằng giặc Liễu” để hai anh em nhà vua phải ôm lấy mà che chở cho nhau. Những chuyện ấy, cả Thái Tông lẫn Hiển vương khi đó đã bị giáng thành An Sinh vương, đều không ai hiểu. Thái sư chỉ lặng lẽ thì thầm với vợ, bà Linh Từ quốc mẫu. Người duy nhất đoán ra mưu kế của Trần Thủ Độ chính là Chiêu Thánh công chúa, bà vua cuối cùng của nhà Lý bị Trần Thủ Độ ép nhường ngôi! Trần Khánh Dư đã từng nghe đích xác Chiêu Thánh vừa tủm tỉm cười vừa nói với ai đó rằng cái câu hô "Giết thằng giặc Liễu” chẳng qua là mẹo để bắt hai anh em nhà vua buộc phải hòa nhau.

Cái sự dằng dịt trong dòng tộc càng khiến Trần Khánh Dư khó nghĩ. Nhưng Hưng Vũ vương đã đỡ lời:

– Trình Vương thúc, hai vua và Thái úy Chiêu Minh vương bận nên đã cử Nhân Túc vương bên phủ Tông Chính về làm lễ. Ngày giỗ của một chi mà lại phải khiến quân Thần Sách đánh cá ở hồ trong vườn ngự lên e rằng trái lễ...

Trần Quốc Tảng cướp lời anh:

– Trình chú, thật tình mà nói, cá do Yết Kiêu bắt to hơn cá hồ Dưỡng Ngư nhiều. Nhưng năm nay, là cứ phải cậy chú lo cho mấy con cá lớn ngoài bể Đông đấy ạ!

Đức ông Hưng Đạo cười hiền:

– Việc này cũng chẳng có gì sâu xa mà quả như cháu Tảng vừa trình chú. Họ Trần nhà ta, mỗi khi lễ trọng đều lấy món cá lớn làm đầu. Thiếu cá lớn là không phải lẽ với tổ tông. Thế nào, ông Nhân Huệ, việc như thế, có khó lắm không?

Trần Khánh Dư gật đầu:

– Thưa Vương huynh, Vương huynh đã cậy đến Dư, thì Dư dẫu có phải giăng lưới cả bể Đông cũng quyết bắt cho bằng được vài con cá lớn về giỗ bác. Vương huynh làm thế này chỉ càng khiến Dư thấy mình thẹn là con bất hiếu. Ngần ấy năm, chưa bao giờ em lo việc giỗ cho cha mà chỉ toàn cậy vào thằng Lộng.

Chỉ một câu nói ấy mà suốt dọc đường về, Trần Khánh Dư khắc khoải không an. Đã lâu, thật lâu rồi ông không về Chí Linh. Hàng năm trời, ông chẳng bao giờ ghé vào khu thái ấp của Thượng tướng Trần Phó Duyệt. Đức ông Nhân Thành hầu Trần Phó Duyệt thất lộc đã lâu, để lại khu thái ấp cho hai người con thực đã xứng với câu "phá gia chi tử”. Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng suốt ngày mê mải cùng đám khách Tống làm thơ, xướng hoạ. Ông ta nói rằng thái ấp của cha đã buồn lại lắm muỗi. Vì thế, Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng mỗi năm chỉ về Chí Linh một lần đúng ngày giỗ cha. Nhưng ngày đó, ông ta bao giờ cũng làm thật linh đình. Cứ ở bên ngoài mà xét riêng đám giỗ, Trần Văn Lộng ít ra còn có hiếu hơn Trần Khánh Dư. Càng thế, Trần Văn Lộng càng làm dữ. Ông ta mời các vị vương hầu chi Tức Mạc kéo về đầy Chí Linh. Cỗ bàn rộn rã ba, bốn ngày liền. Ai chứ đám các ông Trần Nhật Hiệu, Trần Ích Tắc kéo về là chắc chắn. Lại còn vị Vương rỗi việc Trần Quốc Khang thế nào cũng ghé qua làm vài chén rượu. Quan viên sở tại cuống cà kê lên mà đón tiếp khách quý. Hết Đức ông này về lại đến Đức ông nọ đến. Chỉ có mỗi "Đức ông con trai” là Nhân Huệ vương thì chẳng ai thấy đâu. Hễ có người hỏi han, bao giờ Trần Văn Lộng cũng đon đả trả lời: "Dạ, anh Nhân Huệ việc triều đình gánh nặng nên chưa về kịp ạ...”. Nghe qua thì cũng tưởng Văn Chiêu hầu che đỡ lấp liếm cho anh, nhưng phải nghe ông ta rít lên đầy mỉa mai cái chữ "gánh nặng" thì mới hiểu rằng đấy là Trần Văn Lộng đương nói móc ông anh.

Chuyện đến tai Nhân Huệ vương. Ông cười nhạt: "Nó đã thích thế thì ta không về nữa. Cho nó làm giỗ cha thật lớn mà lấy phúc!” Chỉ những người gần gũi Nhân Huệ vương mới biết lòng ông. Thường thì ông không ở yên đâu một chỗ. Đến ngày giỗ cha, Trần Khánh Dư chỉ múc một bát nước mưa đặt lên bệ gạch hay ụ đất cao và nếu có thì thắp thêm một nén hương mà khấn khứa.

Có một điều Nhân Huệ vương không thể nói với ai, nhất là Văn Chiêu hầu. Riêng mình Nhân Huệ vương mới hiểu rằng chức Thượng tướng của cha ông chỉ là hư chức. Nhân Thành hầu nhận chức Thượng tướng vì hai nhẽ. Một, ông là con trai của Đức ông Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ. Hai, ông là thân phụ của Thiên tử nghĩa nam Phiêu kỵ tướng quân Nhân Huệ vương Khánh Dư. Thái ấp của ông được ban là Chí Linh, miền đất tốt cho trồng cấy mà sau lưng lại là nơi hiểm yếu. Kể ra, còn một nhẽ thứ ba: vì ông không phải người có hùng tài, lại quen an phận. Nhân Thành hầu nhàn nhã, thanh thản làm quan, thanh thản về an dưỡng rồi mất ở Chí Linh.

Điều mà Nhân Huệ vương nhớ nhất ở cha là tính xuề xòa. Đức ông Nhân Thành hầu luôn dặn con, ơn vua lộc nước dẫu chỉ một mảy cũng là đáng quý. Chính điều ấy là sự khác biệt lớn nhất giữa Nhân Thành hầu và anh của ông, Nhân Đạo vương. Nhân Đạo vương luôn luôn lo nhặt nhạnh tất thảy mọi ân điển của nhà vua.

Và chính cái thói ấy đã làm hại con trai ông. Hôm Trung Thành vương cưới Công chúa Thiên Thành, Nhân Đạo vương làm lễ cưới cho con rầm rĩ quá. Dễ cả đến ngang cùng ngõ hẻm Thăng Long cũng đều biết con ông cưới công chúa. Lễ cưới kéo dài đến nỗi Hưng Đạo vương vượt tường vào ngồi với cô dâu mà chẳng ai biết. Công chúa Thụy Bà lo cho con nuôi là Hưng Đạo vương nên nửa đêm vội vã đập cửa cung cầu cứu Thượng hoàng. Kiệu vua tới phủ Trung Thành mà tiệc còn chưa dứt. Đến khi Thượng hoàng đón Hưng Đạo vương và cả Công chúa Thiên Thành về cho làm đám cưới rồi đền bao nhiêu ruộng cho ông rể hụt thì Nhân Đạo vương mới ngã ngửa ra. Chao ôi là buồn cười. Sau này, Nhân Thành hầu còn nhắc mãi đến gương mặt của hai cha con Nhân Đạo – Trung Thành hôm đám cưới hụt...

Thế đấy, nhưng mà đã quên đi thì thôi, nhắc đến Hưng Đạo vương, Trần Khánh Dư lại nhớ tới cái duyên kỳ ngộ. Mà có khi cũng chẳng phải duyên. Nó là cái thứ nợ nần từ những đời nào kiếp nào dằng dịt tới bây giờ...

Ngay đêm hôm từ vương phủ Hưng Đạo về, Trần Khánh Dư đổ ra ốm. Cơn sốt nóng sầm sập như trận bão tháng Bảy. Sốt và mê man. Trong cơn mơ, ông Phiêu kỵ tướng quân như thấy mình lạc vào một trùng vây của lụa là, của những sợi xích nóng bỏng và mềm mại trườn bò như rắn. Thấp thoáng trong đó một gương mặt đàn bà. Người đàn bà đó im lặng nhìn Trần Khánh Dư và lắc đầu rồi thở dài, nói một câu gì đó rồi lại biến mất. Sau đó là tiếng gió hú, tiếng gào và tất cả chìm vào một màn sương dày đặc.

Phải một ngày một đêm sau Trần Khánh Dư mới tỉnh lại. Cơn sốt đã vắt kiệt sức ông đến nỗi bát nước sâm ông đòi uống cũng trở nên nặng trĩu. Chiếc bát hoa lam rung bần bật trong tay con người vốn chẳng coi mọi nhọc nhằn trên đời ra gì. Vị vương quyền uy chợt nhận ra, mình cũng có lúc yếu đuối đến thế này. Ông đành đặt bát xuống và để cho Thị Thảo, người hầu gái, xúc cho từng thìa nước sâm hấp với gừng tươi. Cơn sốt đến và lui mà chẳng cần đến thuốc thang nhưng cũng kịp lấy sạch sức lực Nhân Huệ vương. Ông đăm đăm nhìn ả người hầu rồi buột miệng hỏi:

– Này em, lúc ta sốt có gào thét gì không?

Thị Thảo gạt lọn tóc mai lòa xòa, liếc ngang ra ngoài:

- Dạ, bẩm Đức ông, người kêu nóng, rồi kêu đánh giết rắn, rồi lại gọi ai đó không ra tiếng.

Trần Khánh Dư gặng hỏi:

– Ta còn nói gì nữa không?

Thị Thảo lắc đầu:

– Bẩm không. Nhưng...

Nhân Huệ vương vội túm lấy tay Thị Thảo dằn giọng, thứ giọng cố sức của người đương kiệt lực:

– Nhưng sao? Nhưng cái gì?...

Ả hầu gái múc thêm một thìa nước sâm rồi mới trả lời:

– Dạ, lần đầu con thấy Đức ông khóc.

Trần Khánh Dư hỏi mà như nhắc lại:

– Ta khóc ư? Ta mà cũng có lúc khóc được ư?

Thị Thảo đã khép nép ra từ lâu sau khi buông nhẹ cánh màn che ánh nắng trưa chói chang. Trần Khánh Dư nằm im trong căn phòng vắng lặng. Trận say bữa trước và cơn sốt vừa xong chẳng hiểu có quan hệ gì không nhưng sao chúng khéo rủ nhau đến thế. Chúng ập tới như dấu hiệu của định mệnh trớ trêu; vừa như ngăn cản ông sa vào lụy tình với một người đàn bà có chồng, vừa như thách thức ông đưa chân theo cơn đắm đuối.

Kể từ khi biết rõ thân phận người mà ông gặp trong tiệc rượu mo nang, Nhân Huệ vương trở nên ngần ngừ lạ. Đây là điều mà ông chưa bao giờ gặp ở chính bản thân mình. Xưa đến nay, cứ hễ gặp người nào mà ông thích, Nhân Huệ vương quyết không tha. Những phu nhân quyền quý ra vẻ đức hạnh, ông sẽ làm cho tan nát đức hạnh. Những quận chúa công nương hám tình lạ, ông sẽ cho biết cái tàn nhẫn của tình. Nhưng người đàn bà này khác, khác lắm. Không phải vì Thiên Thụy là người đức hạnh, mà cũng không phải Thiên Thụy là người ham tình lạ. Trần Khánh Dư cảm thấy như Thiên Thụy công chúa như một kẻ mắc vào lao tù của cuộc hôn nhân được bề trên sắp đặt; kẻ ấy đang chờ mong ông ra tay cứu vớt. Nhưng cứu vớt như thế nào, mà cứu vớt sao đây? Vì "cứu vớt” lại có nghĩa là làm tan nát gia đình người con trai trưởng của Hưng Đạo vương, một người anh gồm cả ân uy mà Nhân Huệ vương luôn nể phục.

Càng nghĩ, Nhân Huệ vương càng tin rằng cơn sốt vô căn vừa rồi thực chính là một lời cảnh báo của định mệnh ngăn trở ông. Nhưng định mệnh đã không buông tha Trần Khánh Dư. Nhân Huệ vương rùng mình nhìn trừng trừng vào mặt Thị Thảo làm ả khiếp vía khi ả vào báo rằng: hai vợ chồng Hưng Vũ vương nghe tin ông ốm nên tới thăm, có mang theo quà và thuốc của Đức ông Hưng Đạo gửi. Hai người đó sợ ông mệt nên chỉ gửi lời vấn an và để lại quà cáp rồi cáo từ ra về.

Như vậy là sự vần xoay của con Tạo lại thực trêu ngươi Trần Khánh Dư. Vừa đe dọa lại vừa khuyến dụ. Cởi ra mà lại buộc vào. Nhân Huệ vương nổi khùng lên. Đừng có mà đùa với ông. Nếu ông đã quyết, không ai có thể cản. Nếu ông đã thôi, không ai có thể thúc. Và ông quyết quay lưng lại mọi điềm báo, mọi linh cảm. Nhân Huệ vương truyền sắp sửa hành trang. Ngay ngày mai, ông sẽ xuống Vân Đồn tìm cá lớn cho bữa giỗ Đức ông An Sinh vương Trần Liễu. Thị Thảo cũng sẽ đi cùng ông, vì thị là người Vân Đồn. Lệnh Nhân Huệ vương đã truyền, là quyết không rút lại!

○ ○ ○

Trần Đức Việp hỏi:

– Vậy là chú tới phủ Hưng Đạo với mấy con cá lớn?

Không một tiếng trả lời, Tá Thiên vương ngoảnh lại và thấy ông chú đang chìm đắm trong một cơn mơ nào đó. Có thể Trần Khánh Dư chưa ngủ, nhưng ông thực là đang mơ.

Nhân Huệ vương mơ thấy cái ngày hẹn gặp Thiên Thụy công chúa ven hồ Dâm Đàm trong một buổi sớm xuân. Hôm ấy, trời mới đẹp làm sao, màn sương mờ bảng lảng trên hồ mới đẹp làm sao... Tá Thiên vương đặt mình xuống, chỉ chốc lát sau đã cất tiếng ngáy vang. Bên ngoài, đám lính tuần đêm đã rậm rịch kéo về...

KHÚC VÔ THANH CỦA THIÊN THỤY

Đôi khi, ta lại nhớ những ngày người ấy đưa ta đi đêm hội Giã La. Ta đã chán ngấy những trò rước nõ nường đầy nhục cảm tựa cơn cuồng hoan của cả đám người chỉ chờ lúc tắt đèn đuốc là đâm bổ vào nhau.

Đêm Giã La, mấy phen tắt đèn lửa là mấy phen cung kính rước Thánh. Người người im tiếng, chỉ thấy họ nhất loạt hướng về trò diễn ôn lại tích Thành hoàng đuổi hổ lang và cỗ kiệu Thánh lướt trong đêm. Lòng thành là thế. Lễ là thế.

Khi ta chán ngán tiệc rượu mo nang, người ấy bảo ta đi thử một đêm Giã La. Người ấy kể cho ta nghe sự tích vị Thành hoàng có công đánh đuổi ác thú cứu dân được rước trong đêm hội. Suốt đêm, tim ta rộn rã hòa trong nhịp trống của trò diễn. Hội tan, ta và người ấy thong thả sóng ngựa trong đêm lạnh, chẳng nói với nhau một lời. Biết nói gì lúc ấy đây, dù trong lòng đang trào lên bao điều muốn sẻ chia.

Đôi khi, ta lại nhớ những ngày người ấy đưa ta đi chơi núi Sài. Người ấy đưa ta vào thăm hang xưa, nơi được truyền là chốn ẩn tu của pháp sư Đạo Hạnh. Hang u uẩn và mông lung. Ta bảo người ấy rằng ta rất thấu hiểu nỗi cô đơn của vị pháp sư trong hang vắng. Người ấy nhìn ta, ánh mắt xót xa và cô quạnh rồi trả lời: "Nếu đã cô đơn, thì ngay chốn kinh đô tấp nập hay giữa cung vàng điện ngọc cũng sẽ vẫn chỉ thấy trơ trọi một mình”.

Ngày đó, ta thấy người ấy thực đáng thương. Không vợ, không con. Cứ thế độc hành giữa trần ai. Ở bên cạnh ta, người ấy mới hé lộ một góc riêng cô quẩn. Nhưng người ấy, luôn như con đại bàng kiêu hãnh trên trời cao, dang rộng cánh bay trong muôn trùng gió. Ta biết, có lúc người ấy vẫn xòe cánh che chở cho những thân phận mà người ấy xót thương bằng một cách thật riêng, thật lặng lẽ.

Thương thay, bây giờ bên cạnh người ấy còn không có cả ta. Ta đã đành lòng quên người ấy mất rồi...