← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XV

Hang núi không rộng và có vẻ ẩm ướt. Trần Đức Việp bị trói giật cánh khuỷu và hai chân cũng bị trói chặt không kém. Đá vách hang chọc vào lưng đau và lạnh. Thi thoảng, vài giọt nước từ trần hang tí tách nhỏ xuống cổ, xuống vai và mặt. Lần đầu tiên trong đời, chàng vương tử sinh ra trong nhung lụa hoàng tộc hiểu thế nào là bị cầm tù. Cũng là lần đầu tiên, Đức Việp hiểu rõ rằng việc một viên tướng không làm đúng quân lệnh thì mọi chuyện sẽ thế nào. Nếu Đức Việp chịu nghe theo lời dặn của Nhân Huệ vương, sự việc đã khác đi. Quân hộ vệ tùy thân của Tá Thiên vương chỉ giỏi trên bộ. Giữa mặt nước mênh mông, họ không sao xoay trở nổi. Những kẻ tấn công đã mai phục sau các đảo và cưỡi thuyền nhỏ xé gió lao vùn vụt ra tấn công. Sau loạt tên đầu, chúng áp sát và dùng câu liêm hạ lần lượt từng người lính hộ vệ. Bọn chúng chỉ có chưa đến chục người nhưng đã nhanh chóng chế ngự cả năm chiếc thuyền trong đoàn. Có vẻ chúng biết được đích xác người cần bắt nên rất nhanh chóng xuống tay với mọi người lính. Chúng bắt trói Đức Việp, lôi lên thuyền và đưa vào nhốt trong hang rồi nhanh chóng biến mất, chỉ để lại hai tên gác ở ngoài. Chúng không nói một lời, không tra hỏi hay đánh đập gì cả. Quá trưa sang chiều, tên gác lầm lì đút cho Đức Việp ăn một chút lương khô hôi mốc và uống một chén nước tanh ngòm. Sau đó, hắn bỏ đi để mặc Đức Việp. Bóng chiều tắt dần và hang núi chìm nhanh vào bóng tối. Cây cối rậm rì ngoài cửa hang che kín cả ánh trăng đêm mười sáu.

Không khí trong hang lạnh xuống nhanh chóng. Sự yên tĩnh bao trùm. Yên đến rợn người. Phía ngoài cửa hang, chỉ còn vài tiếng sột soạt mơ hồ.

Đầu óc Trần Đức Việp căng lên với những suy tính. Thực không rõ những kẻ ngoài kia mưu toan gì khi bắt chàng. Có thể là hải tặc đòi tiền chuộc. Cũng có thể là lũ phản quốc muốn dâng Tá Thiên vương cho nhà Nguyên để lấy công. Dù gì chăng nữa, chúng sẽ lợi dụng việc nắm được em trai của vua Đại Việt bày trò. Và dù chúng có là ai, có đòi gì, thì triều đình cũng lại một phen náo động. Cần phải tìm mọi cách để thoát thân. Còn nếu không thoát được, cần phải chết. Không thể để những kẻ kia kiếm lợi.

Sợi dây trói thít quá chặt làm tay và chân Đức Việp tê đi, không còn cảm giác. Trong bóng tối, chàng cố nhích người sang hai bên và cố lướt ngón tay lên thành vách hang. Những ngón tay cọ vào đá xước, ứa máu. Trong cái đau, cảm giác của đôi tay trở lại. Đức Việp cố lần tìm một cạnh đá nhô ra và bắt đầu cứa sợi dây trói vào đó. Thật nhẹ nhàng, thật bình tĩnh, Đức Việp cố tự nói với mình. Không được để tim đập mạnh và hơi thở dồn khiến lũ canh ngoài kia cảnh giác. Đức Việp âm thầm đối diện với bản thân trong bóng tối. Đột nhiên, lúc đó, chàng chợt nghĩ đến lời mà Đức ông Hưng Đạo từng dạy ở Giảng Võ đường: "Cửa quan khó đánh chiếm nhất là cửa quan của chính mình”.

Trần Đức Việp bắt đầu nghĩ sang những chuyện khác để đánh lừa cơn hồi hộp. Tá Thiên vương nghĩ về Nhân Huệ vương và Thiên Thụy công chúa. Họ đã gặp nhau, đã giăng gió với nhau, rồi bị lộ và phải quay về cho đúng thân phận từng người. Họ ít gặp lại, nhưng nếu có gặp thì vẫn đành phải giữ lễ, vì mối đại thống của dòng họ. Một người không lập vương phi. Một người không con, lặng lẽ cùng với cô con nuôi chăm lo công việc nhà chồng. Duyên nợ trong đời này, xem ra thực trớ trêu! Dần dà, Đức Việp hoàn toàn trấn tĩnh và âm thầm mài sợi dây vào cạnh đá.

Sợi dây chưa kịp đứt thì đã nghe thấy tiếng gió rít bên ngoài rồi có tiếng thân người đổ xuống. Trong chút mong manh sáng ngoài cửa hang, một bóng nhỏ hiện ra và tiếng gọi thì thào: "Vương gia, ngài ở đâu?”

Trần Đức Việp nhận ra người đang gọi, vui mừng đáp:

– Thị Thảo, ta ở đây!

Thị Thảo, người hầu gái của Trần Khánh Dư vội nhắc:

– Xin vương gia nói nhỏ.

Rồi ả tiến vào trong hang, tay giơ cao, chiếc vòng đá ở cổ tay sáng xanh trong bóng tối. Nhờ bóng sáng xanh ở chiếc vòng, Thị Thảo đã lần đến chỗ Trần Đức Việp. Ả cắt dây trói và đưa cho Tá Thiên vương một bọc nhỏ rồi nói:

– Đây là lương khô. Vương gia ăn một chút rồi tôi sẽ đưa vương gia thoát ra khỏi chỗ này.

Thị Thảo lôi Trần Đức Việp trèo qua những bụi cây và đá, loay hoay lên xuống mãi thì tới chân đảo. Ả bới ra chiếc thuyền nhỏ cùng cặp bơi chèo và đẩy thuyền xuống nước. Nhìn mặt biển mênh mông, Trần Đức Việp giật mình:

– Thuyền nhỏ như thế, liệu có đi xa được không? Thị Thảo đáp:

– Vương gia yên lòng, từ lúc vương gia rời bến mà không đợi Đức ông nhà chúng tôi, vẫn có người không rời mắt khỏi vương gia đâu.

Đức Việp xuống thuyền, con thuyền nhỏ lặng lẽ trôi đi. Ngồi sau Thị Thảo, Tá Thiên vương ngẩn ra nhìn mái tóc đen óng dài mượt thả trên tấm lưng thon của cô gái. Nét duyên thầm ẩn giấu trong đôi mắt, trong dáng người của cô gái Vân Đồn này đã làm chàng vương gia trẻ tuổi để ý từ mấy lần về gặp Nhân Huệ vương, nhất là sau đêm trăng bồng bềnh trên sông nước hôm qua. Chừng như cảm nhận điều gì đó, Thị Thảo ngoảnh lại toan nói với Tá Thiên vương, nhưng rồi cô nàng lại phải nghiêng mặt thoáng chút thẹn thùng để né tránh ánh mắt của chàng trai em ruột nhà vua. Thị Thảo thoáng mỉm cười rồi đưa tay chỉ ra biển:

– Vương gia xem, biển hôm nay vẫn dát vàng để đón vương gia. Tiếng chèo của Thảo nhè nhẹ và con thuyền cũng rẽ mặt biển vàng óng ra mà đi. Đức Việp vừa ngơ ngẩn cười vừa miên man nghĩ về nét duyên con gái Vân Đồn.

Thị Thảo chèo thuyền men theo mép đảo vòng sang mé bên kia rồi cập vào mạn một con thuyền lớn hơn. Đức Việp trèo lên và người đưa tay đón chàng là Đỗ Niêm. Gã Trê ngờ nghệch năm xưa trong quân Hoài Văn vương giờ đã rõ dáng mãnh tướng. Nơi góc thuyền, ba kẻ đang bị gô chặt như bó giò, mắt trợn lên hằn học nhìn Đức Việp. Đúng lúc ấy, có tiếng rít và một vệt đen từ trên vách đá của hòn đảo nhỏ cạnh nơi đậu thuyền chợt xé gió lao vút về phía Thị Thảo. Trần Đức Việp vụt rướn người lên xoay lưng chặn lấy mũi ám tiễn. Tên cắm ngập vào bả vai chàng hầu tước trẻ. Thị Thảo hét lên vội vã đỡ Đức Việp nằm xuống. Quân trên thuyền đồng loạt giương cung. Và ngay sau đó, một bóng đen rơi thẳng từ thân cây nhô ra ngoài vách đá xuống biển. Tiếng rơi nặng nề của thân xác đã găm đầy tên.

Mũi tên đã được nhổ ra. Thị Thảo rắc thuốc cầm máu của ông lang trên đảo đặc chế cho quân Vân Đồn rồi xé một mảnh khăn băng bó chặt lại cho Trần Đức Việp. Xem ra, đó không phải là tên độc. Tá Thiên vương nhỏm dậy dẫu Thị Thảo cố can. Chàng ra ngồi hỏi chuyện Đỗ Niêm.

Qua lời Đỗ Niêm, chàng vương gia trẻ tuổi mới biết, bất cứ lúc nào cũng có người bám sát bảo vệ mình theo lệnh của Trần Khánh Dư. Nhưng khi lũ gian tế tấn công, những người trên chiếc thuyền đi theo hộ tống không đủ lực để hỗ trợ. Họ chia nhau ra, hai người quay về báo tin, còn lại lẳng lặng bơi theo dò tung tích. Trần Đức Việp hỏi Đỗ Niêm:

– Vậy chứ nếu chúng lôi ta ra biển thì họ cũng bơi theo? Đỗ Niêm bật cười:

– Chúng hành thích ban ngày nên chỉ làm trộm trong một chốc. Thuyền lạ dong ra ngoài sẽ bị thuyền tuần tiễu bắt ngay. Chúng nhất định phải lôi vương gia lên giấu ở một cái hang trên đảo nào đó. Quanh đây quá nhiều đảo và hang, nếu không bám theo ngay thì khó tìm lắm. Nhưng không quay về báo tin để tiếp ứng cũng không được.

Trần Đức Việp quay qua nắm tay Thị Thảo:

– Ta không ngờ nàng lại là người cứu ta.

Thị Thảo cúi đầu không đáp, chỉ thèn thẹn rút tay về và khe khẽ chớp chớp mắt. Bình thường, Trần Khánh Dư sẽ không phải cậy đến ả trong việc quân. Nhưng lần này việc can hệ đến ngự đệ của Quan gia, mà Thị Thảo là con nhà chài lưới trong vịnh, ả là người hiểu rõ các hang trên đảo nhất trong quân Vân Đồn. Dĩ nhiên, chuyện không cần nói nhiều. Năm xưa, Nhân Huệ vương cùng anh em họ Phạm xông pha trên biển cứu sống được chị em ả thoát tay cướp biển rồi đón cả hai về nuôi. Giờ, dẫu có nhảy vào núi đao biển lửa theo lệnh Đức ông, ả cũng không từ.

Đỗ Niêm ngờ nghệch chen vào:

– Thì Đức ông chẳng đỡ lại một mũi tên cho cô ta rồi đấy ư! Từ lúc đó trở đi, chẳng ai nói với ai một lời nào nữa. Tất cả đều vẩn vơ đuổi theo suy nghĩ của mình.

Tá Thiên vương ngại ngùng không biết nói gì với ông chú nổi danh thẳng tính. Nhân Huệ vương cười khà khà:

– Anh định đi trước ta, thế mà nay ta phải đợi anh. Chuyện đời cũng trớ trêu nhỉ? Ta chờ ở chân núi này cũng đã lâu đó. Thế nào, trúng tên à? Không sao, người làm tướng phải trải qua nỗi đau minh thương ám tiễn thì mới thấu được tình cảnh sĩ tốt. Nhưng dù gì, ta cũng phải cảm ơn anh cứu mạng người hầu cận của ta!

Tá Thiên vương vội chắp tay:

– Lạy chú, cháu còn chưa kịp bái tạ chú cứu mạng cháu.

Trần Khánh Dư xua tay:

– Anh đừng làm thế. Việc của ta là trông coi đất này. Ngự đệ của Quan gia bị nạn trên đất của ta, thử hỏi tội ta to thế nào? Việc anh bị trúng tên, chắc thế nào Thượng hoàng cũng quở ta cho mà xem!

Đức Việp còn toan nói tiếp thì từ phía xa đã thấy thấp thoáng một đoàn người ngựa.

Đỗ Niêm tinh mắt nói:

– Bẩm hai vị vương gia, là Đức ông Hưng Vũ ạ.

Tá Thiên vương giật mình nhìn sang chú. Người đang đến là Trần Quốc Nghiễn, là người từng cùng Trần Khánh Dư kết hận. Bây giờ, người trên bộ, kẻ ngoài thuyền. Cuộc đời cũng thực éo le... Nhưng có vẻ Trần Khánh Dư chẳng hề cảm thấy thế. Ông rảo bước ra đón và gọi to:

– Vương điệt, ta ở đây!

Phong thái thoải mái của Trần Khánh Dư khiến chính Trần Đức Việp cũng phải bất ngờ. Nhưng nhờ vậy mà Trần Quốc Nghiễn cũng dễ xử. Ông tung mình xuống ngựa và chống kiếm, khuỵu gối:

– Lạy chú.

Trần Khánh Dư đỡ Quốc Nghiễn lên và nói ngay:

– Lại phải cậy phiền vương điệt việc trên bờ. Nay Tá Thiên vương vừa qua một phen kinh tâm, ta mong vương điệt cho người đưa Tá Thiên về triều, kẻo chú cháu ta phải tội với hai vua đó. Trần Quốc Nghiễn vội đáp:

– Bẩm Đức ông Phó Đô tướng, nay Đức ông đã trao mệnh, tiểu tướng đâu dám chối từ.

Rồi Trần Quốc Nghiễn quay lại phân phó một hồi, đã có hai ngũ lính tinh nhuệ sẵn sàng sắp ngựa chờ lệnh lên đường. Quốc Nghiễn quay ra nói:

– Bẩm chú, nay Tá Thiên cũng đã mệt, để rước chú và Tá Thiên uống tạm chén rượu nhạt rồi hãy khởi hành.

Tả hữu của Hưng Vũ vương mau mắn bày ra ngay dưới chân núi một mâm có vài món nhắm và mấy gói xôi lớn. Gà nướng, cá nướng, mực nướng. Tất cả đều còn nóng nguyên và món nào cũng là món nướng thơm lừng. Trần Đức Việp đói ngấu. Chàng cắm cúi bốc, xé, nhai... và hể hả nâng chén rượu thơm mùi nếp. Hai vị vương không ăn. Họ mỉm cười nhìn chàng vương gia trẻ tuổi ăn uống. Mãi sau, Đức Việp mới thốt lên:

– Thực là hơn ăn yến.

Quả có thế. Yến của triều đình ban cho có ngon đến mấy cũng không bắt vương hầu và quan viên phải nhịn đói và lo lắng như Tá Thiên vương vừa phải chịu. Thế cho nên, bữa rượu nhỏ này chẳng ngon hơn ăn yến ư!

Tiệc đã ăn, rượu đã uống, Tá Thiên vương quên phắt cả cơn đau. Chàng đứng dậy bái biệt Nhân Huệ vương và Hưng Vũ vương. Hai vị vương cả cười chúc Đức Việp thượng lộ bình an.

Duy có một điều làm Đức Việp không yên tâm. Chàng nhìn quanh mà không thấy Thị Thảo đâu để nói lời giã biệt. Hồi sau, Tá Thiên vương đành bâng khuâng lên ngựa và ra roi. Nỗi niềm của chàng, không thoát khỏi mắt của hai người. Một, là Nhân Huệ vương. Hai, chính là Thị Thảo, đang trốn trong một góc khuất ở mé xa. Đôi mắt cô gái Vân Đồn ứa ra hai giọt lệ long lanh.

○ ○ ○

Tá Thiên vương và đội hộ tống đã lên đường. Nhân Huệ vương và Hưng Vũ vương mới ngồi xuống và nâng chén. Lính Vân Đồn bê ra thêm vài món vừa làm. Trần Khánh Dư vừa ăn vừa ngửa cổ trông lên ngọn núi trước mặt:

– Hiệu đèn trên núi này không biết khi nào thì đổi [46] ... Trần Quốc Nghiễn ngần ngừ một chút rồi mới trả lời:

– Bẩm chú, lính trên núi Dọi Đèn đêm nào cũng thức, chưa khi nào biếng nhác.

Trần Khánh Dư gật đầu:

– Ta biết. Mà thiên hạ cũng biết. Trị quân xưa nay nổi danh bốn vị vương Vạn Kiếp!

Quốc Nghiễn cười đáp:

– Được Đức ông Phó Đô tướng ban khen, thực là hả dạ. Về làm tướng, thực cháu không bằng Quốc Tảng. Cha cháu cũng nể và quý Hưng Nhượng nhất.

Nhân Huệ vương thoáng chút sững sờ. Lời này, ông không nghĩ là Quốc Nghiễn lại nói ra với ông. Nhưng lời chân thật thì phải đáp bằng câu chân thật:

– Quốc Tảng nhìn trước nghĩ sau, suy đoán thấu đáo nhưng giang hồ lãng tử, không như cháu chuyên chú luyện rèn, tâm không lay chuyển.

Trần Quốc Nghiễn hiểu rằng đó là cách Nhân Huệ vương nói tránh để khỏi phải so sánh tài năng của hai anh em. Hưng Vũ vương nâng chén rượu lên:

– Cháu xin kính Vương thúc chén này, mừng chú thọ như Đông Hải.

Nhân Huệ vương suýt nữa thốt ra câu trả lời: "Đa thọ đa nhục [47] …”, nhưng ông dừng được. Vị vương trấn biển nhìn đăm đăm lên ngọn núi Dọi Đèn. Trên đó, những người lính gác vẫn lặng yên canh đài lửa. Nếu giặc sang, hiệu lửa trên núi Dọi Đèn sẽ báo cho khắp nơi biết tin dữ. Nếu không có những người lính, núi Dọi Đèn chỉ là một ngọn núi già cô độc. Đa thọ mà làm gì? Nhân Huệ vương bất giác thấy mình không còn trẻ nữa...? [48]

Từ lúc đó, hai vị vương trầm tư uống nốt bữa rượu mà không nói một lời nào. Đám lính hầu của cả hai người thì thầm bàn tán mãi mà chẳng hiểu vì sao lại như thế. Mãi tới khi Nhân Huệ vương và Hưng Vũ vương đột nhiên cất tiếng bàn bạc việc quân, đám lính mới khe khẽ thở phào.