CHƯƠNG XX
Sớm nay, Nhân Huệ vương có khách tới thăm. Khách vừa đến đã bị chủ lôi tuột vào trong dinh và quát mắng vang lừng. Đám lính đứng gác từ ngoài xa trợn mắt nhìn nhau nghe Đức ông Phó Đô tướng oang oang hò hét. Mà khách, thì chẳng phải người xa lạ, chính là Hoa Xuân Hùng, lừng danh cung thủ Nhất tiễn lập công từng có phen phục ngoài thái ấp Chí Linh bắn ngã mấy tên gian tế toan mưu giá họa cho chính Đức ông Nhân Huệ. Nếu kể lể dông dài thì phải kể cho rõ Hoa Xuân Hùng vốn là lính trong đội quân của Yết Kiêu. Bởi thế, anh ta vinh dự được trở thành học trò của cụ Uẩn - một trong mười tay kiếm hộ vệ của Đức ông An Sinh vương Trần Liễu. Anh ta là Đội trưởng lính viễn thám Hành trung doanh của Quốc công Tiết chế, rồi làm phó tướng cho Khoái hầu Nguyễn Chế Nghĩa.
Nếu chỉ kể có vậy, khách đến hẳn sẽ được Đức ông Nhân Huệ đãi đằng thịnh soạn, chứ ai lại quát mắng tơi bời cứ như chủ nợ lôi được kẻ trốn nợ lúc tinh mơ. Thế nhưng, cũng nên kể thêm một chút về hành trạng của Hoa Xuân Hùng. Bây giờ, anh ta và vợ còn được đích thân Quốc công Tiết chế giao cho coi quản một xưởng đóng thuyền. Vừa chỉ huy lính viễn thám, vừa quản xưởng đóng thuyền, thực mệt. Hôm nay, anh ta tới Vân Đồn với danh là người đứng đầu xưởng đóng thuyền ấy. Và chính vì thế, anh ta mới bị Nhân Huệ vương mắng cho vuốt mặt không kịp chỉ vì chậm trễ việc đóng thuyền theo mẫu riêng do Đức ông tự tay vẽ.
Loại thuyền này, được dành riêng cho đội lính tinh nhuệ của Đỗ Niêm. Tuy là thuyền nhỏ, nhưng có mũi bằng và ngắn, dễ áp sát những thuyền chiến lớn để tấn công. Hơn nữa, thuyền loại này, nhất là mũi thuyền phải kén loại gỗ thật cứng để chịu được va đập khi sóng to gió lớn. Nên nhớ, sóng biển có thể nhẹ nhàng nâng một chiếc thuyền nhỏ lên cao, rồi dập thẳng vào mạn những hải thuyền hùng hổ của giặc. Nếu không kén được gỗ tốt, ràng buộc không bền chắc, thì chỉ một cú dập thôi là thuyền nhỏ có thể vỡ tan tành.
Hoa Xuân Hùng cứ tủm tỉm cười chờ Trần Khánh Dư qua cơn nóng giận. Anh ta thong thả nhấp chén trà trước mặt, ánh mắt mơ hồ như thể anh ta là một văn nhân sắp sửa ngâm thơ cho ông Phó Độ tướng. Nếu từ ngoài trông vào, chẳng ai dám nói rằng người đang khoan khoái thưởng trà kia chính là kẻ thất hẹn với Đức ông Nhân Huệ.
Hết cơn thịnh nộ, Trần Khánh Dư vớ chén trà, uống ực cho đỡ khát. Hoa Xuân Hùng lúc ấy mới đủng đỉnh chắp tay thưa:
– Bẩm Đức ông, tiểu tướng đúng là trễ việc, nhưng mong Đức ông thương mà thể tất cho. Thuyền vẽ theo lối đó, tiểu tướng đã cho mang ra dùng thử. Mạn thuyền chịu được va đập nhưng mũi thuyền dù gỗ có tốt chỉ húc vào vách cứng mấy lần, thế nào cũng giập nát cả.
Trần Khánh Dư lại cáu:
– Vậy theo ý ngươi, là cứ khoanh tay chịu trói, đúng không? Hoa Xuân Hùng lại đủng đỉnh cười, điệu cười tai ác của kẻ "chẳng có gì mà phải vội”:
– Bẩm, tiểu tướng vừa nảy ra một ý, nhưng lại thành phiền lụy Đức ông, liền vội vã tới đây. Vừa tới, thực đã được trải qua một cơn sóng gió tơi bời...
Cái giọng khê nồng của Hoa Xuân Hùng kéo dài ra làm Trần Khánh Dư vừa bực lại vừa buồn cười. Ông quở:
– Thế sao ngươi không nói nhanh? Lại còn cứ loanh quanh nào cáo lỗi nào thất hẹn...
Hoa Xuân Hùng cố nín không trả lời.
Sau cùng, Trần Khánh Dư cười phá lên:
– Ngươi cứ cố cãi nốt rằng ta không cho ngươi nói nhanh có phải xong không? Nghiến răng nghiến lợi như thế làm gì hử cái thằng bố láo kia?
Đoạn ông quát nhưng giọng bắt đầu vui:
– Nói mau!
Hoa Xuân Hùng tự nhiên trở nên nghiêm túc:
– Tiểu tướng tìm được một tấm đồng khá lớn ở chỗ làm áo giáp và hộ tâm phiến. Tiểu tướng cho người tán đinh gắn tấm đồng đó lên mũi thuyền và đem thử thì sức va chạm khá hơn. Nhưng tấm đồng kia hơi mỏng nên xem ra chưa được như ý.
Trần Khánh Dư đứng hẳn dậy. Hoa Xuân Hùng đúng là tướng đánh trên sông. Anh ta có cái nhìn rất hay và một lối mày mò thực sáng Ý. Đức ông Nhân Huệ lôi ghế xềnh xệch ra ngồi sát cạnh Hoa Xuân Hùng làm viên tướng vội vã đứng dậy thủ lễ. Thế là Trần Khánh Dư kéo giật anh ta ngồi phịch xuống, rồi trợn mắt:
– Lễ nghĩa gì hử, nói tiếp đi, vậy giờ ngươi sẽ tính sao?
Hoa Xuân Hùng đáp:
– Dạ, việc này phải cậy tới uy của Đức ông.
Trần Khánh Dư làu nhàu mắng:
– Sao thằng này nó lại lấy được vợ nhỉ? Nó nói mãi vẫn chưa rõ chuyện, thế mà cũng có con nhận lời làm vợ nó...
Hoa Xuân Hùng nháy nháy mắt:
– Bẩm Đức ông, vợ con nó giành nói cả, nào con có được nói câu nào đâu chứ!
Trần Khánh Dư bảo:
– À, ra nó coi nhà ngươi như nữ binh dưới quyền!
Hoa Xuân Hùng không dám lan man, liền nói:
– Tiểu tướng xin Đức ông truyền cấp cho xưởng đóng thuyền hai chục tấm đồng thực dày và những đinh sắt đầu thực lớn. Tiểu tướng sẽ cho người gắn những tấm đồng vào mũi thuyền rồi tán đinh. Chắc là những chiếc thuyền làm kiểu đó mới vừa được như ý của Đức ông.
Chuyện xin xỏ này thì thực là đúng. Hoa Xuân Hùng không đủ quyền hành để đòi những hiệp thợ đang rèn giáp trụ và binh khí chuyển cho hai chục tấm đồng như thế. Nước đang trước cơn binh lửa, từ cày cuốc cho đến chuông mõ còn đều phải phá ra làm binh khí thì đồng hay sắt là rất quý. Phải cỡ Phó Đô tướng quân truyền lệnh thì mới có thể lấy riêng ra những chừng ấy tấm đồng và đinh sắt.
Trần Khánh Dư nheo mắt nhìn Hoa Xuân Hùng:
– Ngươi có chắc rằng nếu làm thế sẽ được như ý ta không?
Hoa Xuân Hùng đáp:
– Xong hai chiếc đầu tiên, xin Đức ông cho người sang thử! Nhân Huệ vương nhận lời và bảo:
Hà hà, anh chàng này rõ là đồ láu cá. Anh ta không quả quyết khẳng định, càng không giống những kẻ quá tự tin hơi chút lại mang đầu ra đánh cược. Điều này làm Nhân Huệ vương vừa lòng. Người cẩn trọng như thế, làm việc chắc không cẩu thả và liều lĩnh.
– Nhà ngươi xuống trại quân, ăn một bữa với lính Vân Đồn rồi hãy về.
Nhưng Hoa Xuân Hùng đã vội vã cáo từ. Anh ta dặn dò người lính đi cùng vài điều nhắn nhủ tới Vi Hồng, vợ và cũng là người đứng ra quản xưởng mỗi khi Hoa Xuân Hùng vắng mặt. Thế rồi, Hoa Xuân Hùng lại cuống quýt lên đường về cho kịp cuộc trận giả trên sông Lục Đầu. Thủy quân Đại Việt, cả trên biển và trên sông đang ra sức luyện rèn chờ giặc tới! Hoa Xuân Hùng mải đến mức, quên mất cả lời dặn dò gửi gắm của một người quen nhờ chuyển tới Nhân Huệ vương. Biết làm sao được, việc quân quá bộn bề!
○ ○ ○
Không một ai trên đảo Quỳnh Châu ngoài Trần tiểu thư biết rằng, năm ngoái Hoàng Chí Hiển đã từng có mặt nơi đây. Ngay sau bữa tiệc cuối năm ở Chí Linh và những rối ren sau đó để lộ ra sự phản trắc của gã quản gia Vũ Khắc và tên đầu bếp A Lý, Hoàng Chí Hiển quay về Thăng Long rồi tìm đến phủ Hưng Ninh theo lời tiến dẫn của Trần Khánh Dư. Chí Hiển hầu chuyện Hưng Ninh vương ba ngày và biến mất. Sau cuộc trò chuyện về thiền sư và việc nước, Chí Hiển lẳng lặng xin Hưng Ninh vương cho sang Bắc quốc dò tin. Vốn Trần Tung là người tránh đời nên không muốn động chạm tới việc "dụng gián [60] ”. Ông suy nghĩ hồi lâu, rồi bảo Hoàng Chí Hiển: "Ngươi giờ là cư sĩ lang thang, muốn đi đâu dưới vòm trời này thì cứ đi. Nếu thấy có gì tốt cho nước thì làm, có gì mà phải xin ta...” Hoàng Chí Hiển lẳng lặng xuống Vân Đồn, bắt quen với mấy thương nhân, rồi theo thương thuyền mà lênh đênh sang Quỳnh Châu. Sau này, khi biết chuyện, Hưng Ninh vương vẫn thường gật gù khen: "Ngươi quả là thấu hiểu binh pháp mới chọn lối sang Quỳnh Châu. Ngày đó, nghe ngươi nói, ta liền nghĩ ngươi sẽ theo đường bộ mà tới châu Khâm, châu Liêm...” Hoàng Chí Hiển được khen vội đáp: "Bẩm Đức ông, sang Quỳnh Châu là bước thứ nhất, còn dạo khắp Đại Đô là bước thứ nhì...” Quả vậy, tiếp theo đó Hoàng Chí Hiển dạo khắp Đại Đô, hầu chuyện hết lượt các vị đạo trưởng của Toàn Chân giáo. Sau mấy chuyến đi đó, kiến văn của Hoàng Chí Hiển càng thêm rộng, mà người Nguyên nói chuyện thì mấy phần nể phục. Tính ra, không kể lần này, Chí Hiển sang Nguyên đã ba lần. Mỗi lần tới một nơi, hành tung mờ mịt, thoắt ẩn thoắt hiện chẳng ai đoán biết cho được. Đỗ Vĩ thuở trước phải dùng tài hoa cầm kỳ thi họa để khiến người ta phục, nhưng dễ bị lộ, vì vẫn ra vẻ người phàm. Giờ Chí Hiển ngày càng có "tiên phong đạo cốt”, ai gặp cũng phải cúi đầu, lời nói như sấm truyền, nên không ai dám rình mò, nhất là quân tướng Nguyên sùng bái đồng cốt.
Vậy mà, chỉ một lần thoáng qua, Hoàng Chí đã bị Trần tiểu thư để ý. Nàng trông thấy Chí Hiển ở đêm Hàn thực. Nói cho đúng, ngày mồng ba tháng Ba ở Trung Nguyên là Tết Hàn thực, nhà nhà ăn nguội để nhớ Giới Tử Thôi; còn tục của Lê tộc lại coi ngày đó là ngày để trai gái tìm nhau. Từ khi có nhiều người Hán đến trú trên đảo, đêm mồng ba tháng Ba thật là rộn rã. Ai ăn Tết Hàn thực cứ ăn, ai đi tìm tình nhân thì cứ đi tìm. Đèn hoa giăng khắp lối, giai nhân tài tử rộn rã phủ Quỳnh Châu.
Hôm ấy, Hoàng Chí Hiển đội khăn đỏ, khoác chiếc áo đỏ thêu chỉ vàng, thong dong dạo phố, trông rõ là một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Bao nhiêu cô gái lôi chàng vào ăn rượu nếp Sơn Lan hay chia nhau ống cơm lam mới nướng. Thấy thế, đám trai tráng lôi chàng khách lạ tới chỗ thi bắn nỏ với lời thách thức: nếu thắng thì muốn trò chuyện với cô gái nào cũng được, nếu thua thì chỉ có cách đến Quan Âm miếu mà ngồi, cấm không được nói chuyện với cô gái nào nữa. Hoàng Chí Hiển tuyên bố, chỉ bắn một mũi tên, không so tài với ai. Đám trai liền bảo cứ bắn đi đã rồi nói tiếp. Mũi tên vút đi, Chí Hiển bắn gục ngọn đèn cao nhất trong tiễn trường. Tiếng reo hò cất lên vang dội. Chí Hiển chắp tay vái bốn phía rồi trao lại nỏ, lững thững bỏ đi, thoắt đã biến mất trong đám đông. Sau lưng có không ít kẻ thở dài, trông những chiếc đèn gió thổi bay tung, biết rằng mình có cố bắn cũng chỉ hóa trò cười.
Chí Hiển ngồi ẩn trong quán nhỏ, dửng dưng nhìn kẻ qua người lại. Quán nghèo nên khách chẳng vào, chỉ có rượu suông. Nhưng nhờ thế mà quán thoát khỏi sự ồn ã bên ngoài. Hoàng Chí Hiển quả là không ngờ lại lạc chân vào ngày lễ dành cho những kẻ yêu nhau này. Người đã theo học đạo thiền coi những lạc thú trên đời như phù vân. Đó xem, khi Trần Quốc Toản tử trận, Thoan đã đau đớn làm sao. Đó xem, ni cô Tuệ Liên ở chùa Nghi Tàm vùi vào kinh kệ cố quên đi nỗi xót xa mỗi khi nhớ về Đỗ Vĩ thế nào. Chẳng phải vì thế mà Chí Hiển đã chọn cho mình hiệu là Thanh Khê cư sĩ ư? Vị cư sĩ có lòng trong như dòng suối! Cũng là thể hiện sau này sẽ ẩn cư cạnh một dòng suối trong ngần dù lúc này vẫn còn phải long đong giữa chốn trần ai đầy tục lụy này... Chí Hiển mải suy nghĩ, cho tới khi giật mình ngẩng lên thì thấy một chàng công tử đang mỉm cười và cất tiếng hỏi:
– Huynh đài thứ lỗi, đệ bội phục tiễn thuật, muốn xin thỉnh giáo, chẳng hay có được chăng?
Chí Hiển cười nhẹ:
– Mời huynh đài ngồi. Tại hạ bắn nhiều linh tay, chẳng kể được chuyện bắn tên này là "thuật”.
Khách hỏi:
– Vậy cứ như ý huynh đài, thế nào là "thuật”? Chí Hiển đáp:
– Ngẩng trông mây gió, trăng sao... thấy lẽ vần xoay, ấy là thuật. Nhìn sông sâu, núi cao... mà tính toán, ấy là thuật. Xem đất mà sắp đặt, ấy tạm cũng kể là thuật.
Khách say chuyện quá, hỏi tiếp:
– Như huynh đài thì giỏi những thuật nào?
Chí Hiển xua tay:
– Tại hạ chỉ có môn nói sằng, có khi cũng nên tính là thuật.
Hai người phá ra cười như tri kỷ bao năm, rồi cùng gọi rượu uống, cùng say, vỗ bàn mà hát. Gần tới nửa đêm, khách cáo từ ra về, nhất quyết trả tiền bữa rượu, lại tặng Chí Hiển một món quà dặn sau mới được mở. Khách đi rồi, Chí Hiển về nơi nghỉ, mở ra xem mới giật mình. Quà là một viên dạ minh châu – thứ ngọc sáng trong đêm tối.
Thỉnh thoảng về sau, cũng có lúc Hoàng Chí Hiển thoáng suy nghĩ về người khách trong quán rượu hôm đó. Bình thủy tương phùng, ai biết có khi nào gặp lại. Chẳng hiểu sao khách lại tặng một món quà quý giá như thế. Mà hẳn khách phải là con nhà quyền quý giàu sang mới có được dạ minh châu. Món quà đó, Hoàng Chí Hiển tết một sợi dây đỏ, đeo giấu trong cổ áo. Đời phiêu du, những lúc lưu lạc trong đêm tối, Dạ minh châu lại tỏa sáng soi đường cho chàng. Mỗi khi dùng đến quà quý, Chí Hiển vẫn thầm cảm tạ người khách lạ năm nào.
Trần Trọng Đạt hơi khom người, nói với Hoàng Chí Hiển:
– Đại sư chỉ dạy đã nhiều, toàn những lời chí lý. Nay bản quan chỉ muốn phiền đại sư thêm một việc nữa là xong. Bản quan có đứa con gái, đã hứa gả cho con của Vương ông đây. Nay xin đại sư chọn cho nơi xây lầu riêng cho các cháu.
Chí Hiển hỏi:
– Chẳng nhẽ cả trang viện rộng lớn này không có đủ phòng cho tân lang tân nương mà hai vị lại phải xây lầu riêng?
Viên An phủ sứ vội trả lời:
– Thưa đại sư, vốn đứa con gái này tính tình có chút cổ quái, xưa nay chỉ thích ở trên lầu xa cách mọi người. Vì thế, Vương ông chiều con dâu, mà cũng là nể bản quan đây, nên mới muốn xây một tòa lầu dành cho các cháu.
Chí Hiển tủm tỉm nói:
– Vương đại phú gia xem ra cũng chiều lòng con dâu thật. Nhưng việc xây lầu ở nơi này không dễ. Lầu dựng lên, ắt cả vùng có biến. Trừ phi...
Vương Kế liền tiếp lời:
– Đại sư cứ dạy, làm được thì nhất quyết tôi sẽ làm!
Chí Hiển chưa kịp nói thêm, thì có một ả thị nữ lại gần Trần Trọng Đạt nói thầm một câu gì đó. Viên An phủ sứ liền quay sang Chí Hiển:
– Thưa đại sư, tiểu nữ xin được gặp đại sư để hỏi một điều trước khi quyết việc xây lầu. Mong đại sư thuận cho! Vương Kế nói góp ngay:
– Thưa đại sư, Trần tiểu thư cũng là người ham tìm tòi học hỏi, nay xin gặp chắc để cầu đại sư chỉ dạy. Đại sư mà gật đầu thì thực may mắn quá...
Hoàng Chí Hiển ngẩng trông trời đã ngả chiều, nói:
– Việc tới lúc này thì không nên nói nữa. Sáng mai xin mời tiểu thư tới gặp tại hạ...
Nói xong lững thững chắp tay sau lưng bỏ đi. Bọn Trần Trọng Đạt, Vương Kế.. trông theo trợn mắt le lưỡi, lại bảo nhau:
– Hoàng đại sư làm việc gì cũng thực khó lường. E là chuyện dựng lầu không phải là dễ!
○ ○ ○
Tiệc rượu đêm trong dinh An phủ sứ lung linh đèn nến. Người hầu kẻ hạ tấp nập ra vào nhưng thảy đều im lặng. Chỉ có tiếng gió lùa qua màn và tiếng lách tách của những ngọn đại hoàng lạp. Vị "Hoàng đại sư” đang suy tính, còn An phủ sứ và đại phú gia thì phấp phỏng đợi chờ. Một lúc lâu sau, "Hoàng đại sư” mới thôi ngẫm nghĩ và cất tiếng:
– Kể ra, việc xây lầu có thể làm được. Nhưng để tại hạ gặp tiểu thư rồi sẽ nói cho hai vị biết sau.
Trần Trọng Đạt, Vương Kế thở phào nhìn nhau rồi vội giục:
– Vậy xin đại sư nhập tiệc kẻo nguội cả rồi. Xin cho nhà bếp làm món mới vậy.
Đột nhiên, Chí Hiển nói:
Đêm nay, e rằng Quỳnh Châu có hỏa tai, mong An phủ sứ lưu tâm.
Trần Trọng Đạt giật nảy người, đứng ngay dậy bảo Vương Kế:
– Huynh ông ở đây tiếp rượu đại sư. Bản quan phải đem người đi đôn đốc. Nếu quả có hỏa tai thì phải dập ngay, kẻo quan trên quở trách.
Chỉ còn lại hai người, tiệc càng thêm vắng. Vừa ăn, Chí Hiển vừa dặn dò Vương Kế cách bày các cục thế chiêu tài dẫn lộc trong trang viện mới. Lúc sau, phía đông thành có một tiếng nổ lớn làm nhà cửa xung quanh rung động, rồi một ngọn lửa vụt bốc lên cao. Tiếng hò reo gọi nhau cứu hỏa vang ầm, mãi hơn một canh giờ sau mới hết.
Trần Trọng Đạt trở về, mặt tái mét bảo Vương Kế đứng đợi ở cửa dinh:
– May có đại sư chỉ bảo, không thì hôm nay cháy sạch cả một xưởng đóng thuyền. Lửa bốc ra từ kho sơn, tiếng nổ là của thùng sơn bốc cháy.
Cả hai đi vào, lòng thầm cảm tạ trời đất ban cho vị đại sư tài trùm thiên hạ.
Chỉ có điều, sáng hôm sau, khi cả hai đang cho người chầu chực chờ đón "Hoàng đại sư” xin để tiểu thư gặp mặt thì thị nữ lại ra thưa với Trần Trọng Đạt rằng "việc xây lầu xin dẹp bỏ, cũng xin không gặp đại sư nữa”. Viên An phủ sứ và tay đại phú gia nghệt mặt nhìn nhau. Họ chỉ lo "đại sư” giận mà không giúp tiếp thì chí nguy. Nhưng cả buổi sáng, cánh cửa phòng "đại sư” khép kín. Một người hầu bẩm với Trần Trọng Đạt rằng, lúc sớm đại sư hé cửa dặn dò sáng nay không tiếp bất kỳ ai!
○ ○ ○
Sau bữa tiệc tối, Hoàng Chí Hiển quay về phòng. Cửa vừa khép thì có tiếng gõ thật nhẹ. Chí Hiển nhìn qua khe mành ra ngoài: một tiểu thư xinh đẹp, tuy chưa gặp nhưng lại có vẻ gì rất quen thuộc. Chàng đoán ngay, đây hẳn là Trần tiểu thư. Và khi mở cửa phòng, nhìn vào mắt khách, Chí Hiển chợt nhận ra người con gái này chính là người đã tặng chàng viên ngọc quý thuở trước. Chàng ngần ngừ giữ lễ, nhưng nàng tiểu thư đã bước vào phòng, và thuận tay khép cửa. Rồi nàng cất tiếng:
– Cố nhân tái ngộ, chẳng mời nhau ngồi được ư? Chí Hiển vội nói:
– Mời tiểu thư ngồi. Không biết tiểu thư hạ cố tới đây có gì chỉ dạy cho kẻ hèn này?
Tiểu thư đáp:
– Cố nhân thực khéo làm người ta thất vọng. Đã là tái ngộ, mà vẫn cố dùng mấy chữ "kẻ hèn”, xem ra nhạt nhẽo quá.
Nàng nhỏm người toan quay gót. Chí Hiển ngăn lại:
– Xin hỏi, gặp tiểu thư cành vàng lá ngọc nhà quan An phủ sứ, lại không nên giữ lễ ư? Chẳng hay nàng tới tìm ta có việc gì? Quà quý lần trước còn chưa tạ, lần này liệu có phải là cho thêm quà? Nghĩ lại ngày đó ta cũng thật đáng trách, ngồi cả buổi cạnh giai nhân mà không nhận biết được giai nhân giả dạng nam nhi...
Tiểu thư lúc ấy mới mỉm cười:
– Muốn hỏi thăm người bắn cung năm đó, liệu đã thỏa chí tang bồng hồ thỉ [61] hay chưa?
Hoàng Chí Hiển cũng cười:
– Nhàn du thiên hạ, có chút tài bắn tên, kể gì mà tung hoành thưa tiểu thư! Việc dựng lầu cho nàng trong khu đất đó, ta đã xem kỹ, rất không nên vì hại cho đường công danh nhà chồng.
Tiểu thư thong thả trả lời:
– Thiếp tới đây không vì việc dựng lầu. Trước chỉ là mong gặp cố nhân để hàn huyên chuyện cũ. Sau là muốn báo một tin: Vương Thành có nói với thiếp, Y không tin "Hoàng đại sư” là thuật sĩ. Y đã nói với cha thiếp, và cha thiếp cũng nửa tin nửa ngờ. Thiếp nghĩ, cố nhân nên tránh đi, trước khi việc đã muộn.
Hoàng Chí Hiển ung dung đáp:
– Chuyện ấy thì ta không ngại. Bấm tay mà tính, Quỳnh Châu sắp phát sinh đại biến. Nàng thì sẽ không lấy Vương Thành, mà tình bạn giữa cha nàng và Vương Kế e là cũng chẳng còn nữa đâu.
Trần tiểu thư giật mình hỏi:
– Vậy xin hỏi cố nhân, hậu vận cha thiếp ra sao?
Hoàng Chí Hiển thở dài:
– Cha nàng nếu chẳng ham công thì lành, ham công thì dữ... Chỉ xin dặn nàng một điều, nếu thấy cha nàng chuẩn bị đi xa quá một tháng, nên tìm cách lánh ẩn vào giang hồ. Hai năm sau không có sự gì mới tính được là yên.
Trần tiểu thư ứa nước mắt mà hỏi:
– Vậy thiếp có khi nào còn được gặp cố nhân?
Chí Hiển lắc đầu:
– Gặp gỡ hay không là duyên ở trời đất, sao mà nói được. Bước truân chuyên sắp tới, mong nàng để tâm gìn giữ. Dạ minh châu nàng tặng đã vài phen hữu dụng, ta luôn mang theo bên người. Sau này nếu bị truy bắt, nhớ đi về hướng nam, họa chăng tái ngộ…
Trần tiểu thư đi rồi. Chí Hiển lặng lẽ ngồi trong phòng suy tính. Tinh mơ, chàng hé cửa dặn người hầu bẩm với Trần Trọng Đạt rằng mình không tiếp khách buổi sáng.
Quá trưa sang chiều, rồi tới khi chiều muộn vẫn không thấy vị đại sư ra khỏi phòng, Trần Trọng Đạt cho người vào xem thì chỉ còn thấy một phong thư dán kín, trên đề "Trần đại nhân khai [62] …”. Thư đọc xong, An phủ sứ họ Trần đùng đùng nổi giận truyền quân mã chỉnh tề chờ lệnh. Vương Thành xin vào cầu kiến:
– Bẩm nhạc phụ đại nhân, tiểu tế được biết kẻ kia là gian tế An Nam, giờ hắn đang tìm đường lẩn trốn, xin cho truy bắt.
Trần Trọng Đạt phá ra cười lớn:
– Hay cho Vương Thành, giờ này ngươi còn dám gọi ta là nhạc phụ nữa ư? Người đâu, bắt trói thằng giặc này lại. Truyền khám xét nhà họ Vương.
Suốt đêm, trang viện họ Vương bị lục soát trong ánh đèn đuốc sáng rực. Quân sĩ tìm ra trong trang viện nuôi giấu một loạt cựu thần nhà vong Tống ẩn trốn. Tuy đám cựu thần chỉ là văn quan, không thể khởi binh làm loạn, nhưng tội nhà họ Vương quá to. Vương Kế và Vương Thành bị giết, toàn gia bị tru diệt, sản nghiệp bị thu. Chẳng ai thèm nghe Vương Kế trần tình rằng ông ta chỉ thương hại mấy gã cựu thần giỏi văn chương thi phú mà nuôi vụng, chứ không có ý phản phúc gì. Việc tâu lên, Trần Trọng Đạt được Nguyên chúa ban khen là sáng suốt, "đại nghĩa diệt thân [63] ”, tặng hổ phù, dẫn quân tộc Lê hội với Trương Văn Hổ, chờ Nam chinh.
Đứng từ xa trông trang viện họ Vương tan nát, Hoàng Chí Hiển thở dài. Chỉ một mưu nhỏ, chàng đã khiến Quỳnh Châu phải một phen rối ren, nhưng cũng thực là bất đắc dĩ phải tận sát một gia tộc. Chí Hiển hiểu rằng, lần này dẹp xong giặc, chàng sẽ phải nhất tâm tu tập để rửa bớt ác nghiệp mới tạo nên...
Trần Trọng Đạt dẫn quân về hội ở Khâm Châu thì cũng là lúc Trần tiểu thư gạt nước mắt thu thập đồ tế nhuyễn, sẵn sàng chờ có biến là đi lánh nạn. Cùng lúc ấy, Hoàng Chí Hiển thong thả xuống thuyền dong buồm về Đại Việt bất chấp bao nhiêu vòng khám xét và canh gác. Thuyền trôi thật nhanh vì gió thuận, chẳng mấy chốc đã về tới Vân Đồn.