CHƯƠNG XIX
Lúc Hưng Đạo vương nhắc tới, chính là lúc Hoàng Chí Hiển đang ngồi trên con tàu buôn cực lớn của đại phú hào Vương Kế. Năm trước, Chí Hiển bày cho các đệ tử của Vương Kế vài điều về phép chiêu tài [59] . Họ y thế làm theo, và quả là gặp vận đỏ. Giờ đám đệ tử mang theo lời mời của Vương Kế và cả của An phủ sứ Quỳnh Châu Trần Trọng Đạt, đón bằng được "Hoàng đại sư” sang xem xét đất đai cho cả mấy nhà họ Vương, họ Trần. Xưa nay, hai họ Vương Trần ở đảo Quỳnh Châu kết thành thông gia, mấy đời gả con cho nhau. Họ Trần làm quan, họ Vương buôn bán. Dẫu triều đình có là Tống hay đổi thành Nguyên, vẫn phải dựa vào họ để mà cai quản hòn đảo lớn ngoài biển này. Trên đảo, có tộc người Lê rất thạo đường biển. Họ Trần thuộc về Lê tộc. Còn tổ họ Vương vốn dòng Hán tộc, dạt lên đảo để trốn truy sát của kẻ thù đã hơn mười đời. Họ Vương giỏi buôn bán, dựa vào họ Trần tung hoành trên biển, giàu sang phú quý hai họ chẳng ai bì. Giờ, Vương Kế bàn với Trần Trọng Đạt chọn một mảnh đất lớn, xây hai khu dinh thự dựa vào nhau để cùng hưởng phú quý. Phủ họ Trần là phía trước, vì để phát quan lộc. Trang ấp họ Vương ở sau, kín đáo phát tài. Đất chọn xong, có người chê là "được sau phá trước”. Hết thầy này đến thầy khác cãi vã không ngớt, việc không sao quyết được. Đám đệ tử chợt nhớ ra ở Đại Việt có đại sư họ Hoàng tuổi trẻ nhưng là bậc kỳ tài, xin đón về hỏi ý. Trần Trọng Đạt cuống lên, thúc Vương Kế bất kể ngày đêm phải đón đại sư cho nhanh, kẻo sắp tới ông ta còn bận việc triều đình. Bị giục quá, Vương Kế cũng phải ép bọn đệ tử cố sức mà đón vị đại sư sang một chuyến...
Khi tiễn Hoàng Chí Hiển, Trần Khánh Dư có ướm hỏi sao không dẫn theo vệ sĩ. Chí Hiển cười:
– Phen này cháu đi là xuất kỳ bất ý mà đến, thuận việc mà làm; huống chi cháu đi là thật, người theo không thể thật, chỉ e hỏng việc.
Chí Hiển còn dặn:
– Cháu đi trước sau chừng bốn tháng. Mong vương gia nhớ kỹ, khi nào gió Bắc nổi thì cháu quay về.
Chí Hiển đi đã lâu rồi, Trần Khánh Dư còn nghĩ mãi. Chàng trai này quá giỏi, tới mức dường như đã thấu hiểu được lẽ vần xoay của tạo hóa. Nói về những trò xem tướng, hay mấy phép chiêu tài đáng tin đã đành, nhưng xem ra cách hành xử của anh ta chẳng khác gì cung cách đại tướng. Lần này, Hưng Đạo vương bàn rằng, giặc và ta quá hiểu thế của nhau, vậy phải tìm cách mà lừa chúng. Không bưng tai bịt mắt thám báo được, vậy hãy cho chúng thấy những thứ tưởng thực hóa hư. Trước kia, Thái sư Trần Quang Khải mệt và tạm nghỉ vài ngày để Tá Thiên vương quyền tướng quốc sự thì nay luôn đó ẩn sau rèm thuận thế điều hành. Vậy là lũ thám báo đưa tin về Nguyên: "Thái sư thất sủng, vua Đại Việt thay chú bằng em”. Cũng như khi Trần Khánh Dư ốm nặng được đưa về Vạn Kiếp, nhưng tin vẫn không lọt ra ngoài. Dẫu Quốc công cử Hưng Nhượng vương ra coi quản, lại cho dũng tướng Hoàng Mãnh tới đỡ đần nhưng vẫn để bọn Hoàng Phủ Tín và Thị Thảo ở nguyên chỗ. Kịp tới lúc Trần Khánh Dư về lại Vân Đồn, mà trên đảo chẳng ai hay biết gì. Biến ảo như thế, chẳng qua đều là sách lược của Quốc công Tiết chế. Vậy mà Hoàng Chí Hiển tự mình hay biết, tự thân vận dụng, quả xứng danh là bậc kỳ tài. Trần Khánh Dư chợt phá lên cười. Lũ Vương Kế, Trần Trọng Đạt thực đã nhìn ra kỳ tài nước Nam. Nhưng để rồi xem chúng bay có dùng được kỳ tài nước Nam không?
Trời sang thu, quân tướng Vân Đồn càng hăng say rèn tập. Nhưng càng tập thì các tướng càng thêm băn khoăn lo nghĩ. Cứ theo đối trận trên biển là rõ, thuyền Đại Việt chạy thì giặc không đuổi nổi, nhưng neo lại mà đánh thì cũng không sao đánh được. Mọi kế sách dùng lửa dùng tên, kể cả lính đục thuyền của Yết Kiêu và Đỗ Niêm đều tính rằng nếu cả trăm chiến thuyền giặc sấn sổ mà tiến thì ta không sao cản cho được...
Tiết thu, ngày ngắn lại và đêm cứ dài dần ra. Những đêm không ngủ của Nhân Huệ vương càng nhiều. Đêm nào, Thị Thảo cũng phải vào nhắc ông đi nghỉ. Dạo gần đây, ngoài Thị Thảo, không ai dám nhắc nhở chuyện ăn uống nghỉ ngơi của Trần Khánh Dư nữa. Ông lầm lì, nghĩ ngợi, tóc và râu đều đã bạc. Đôi lúc, Trần Khánh Dư cho gọi ba anh em Phạm Chính và Đỗ Niêm tới và bàn cãi thâu đêm. Những lúc ấy, Hoàng Phủ Tín mắt khép hờ, khoanh tay cắp gươm đứng trấn trước cửa dinh, thoáng trông như một pho tượng cũ. Nếu có ai được bước chân vào chốn họp bàn sẽ thấy Nhân Huệ vương nằm trên sập, nửa thức nửa ngủ, thỉnh thoảng trở mình và thở dài thườn thượt. Rồi bất ngờ, có thể ông ngồi dậy, vớ lấy bình nước mưa uống ừng ực và lên tiếng than vãn một câu gì đó.
Ấy là ông tướng đánh thủy đang phàn nàn về sự bất công. Tin của thám báo ta về các cánh quân bộ đều đã truyền tới chỗ Quốc công Tiết chế. Nhưng tin về cánh quân đi đường biển thì chẳng thấy đâu. Tin không thấy, mà người cũng bặt tăm. Nhưng kể ra "khó người khó ta, dễ người dễ ta”. Quân trên bộ thì tướng nào, đóng ở đâu... hai bên đều rành rõ. Còn quân trên biển, người Nguyên khó bề nhòm ngó được vào Vân Đồn, thì ta cũng khó bề xâm nhập nơi chúng tụ tập hải thuyền. Và cái câu than vãn của Nhân Huệ vương chính là thế này: "Cứ đà này thì đúng là bịt mắt đánh nhau rồi!”
○ ○ ○
Hơn một năm trời, Trần Khánh Dư mới về lại thái ấp Chí Linh.
Đây là nơi ông sinh ra và cũng là nơi nuôi ông lớn. Đã có thời, Trần Khánh Dư rất ghét Chí Linh. Đó chính là những ngày ông ẩn ở Chí Linh sau khi bị xóa hết quan chức. Tước vương vẫn còn, thái ấp của cha vẫn còn, nhưng uy danh thì phai nhạt cả. Ông về Chí Linh, đóng kín thái ấp mấy tháng trời, ngày ngày lang thang khắp chốn, vừa đi vừa ngẫm ngợi về nhân tình thế thái. Lên núi Phượng Hoàng trông ra bốn phía, rồi vô tình trông về phía Vạn Kiếp, lòng nhói lại nỗi đau khi nhớ tới Thiên Thụy và chuyện tình từ tiệc rượu mo nang. Dẫu nhói đau, nhưng vẫn thành lệ, không thể vài ngày không lên núi mà trông về Vạn Kiếp. Những ngày ấy, thấm thoắt đã xa...
Thái ấp về chiều, vắng và thật u hoài. Những gì giặc phá, gia nô đã kịp sửa xong. Cây bị đốn đã trồng cây mới. Ở những chỗ vừa sửa, rêu đã bắt đầu lên. Nắng thu muộn ngả xuống sân trước phủ đệ của Nhân Thành hầu như hằn dấu lên từng viên gạch. Trần Khánh Dư bước thật chậm trên con đường mà cách đây năm chục năm ông đã chập chững tập đi. Những bước chân đầu tiên của ông được dìu dắt bởi một người quá sức quan trọng với họ Đông A: Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ. Một vài lần rảnh rỗi về Chí Linh, Trần Thủ Độ thường có thú vui dắt cháu nội chậm rãi đi trên con đường gạch ẩn dưới hàng muỗm già. Cậu bé Khánh Dư lẫm chẫm bám vào tay ông nội bước từng bước ngắn, thỉnh thoảng lại reo lên khi nhìn thấy những vệt nắng xuyên qua vòm lá đu đưa như đùa nghịch... Trần Thủ Độ là vị Thái sư đầu triều vô cùng bận rộn. Người ta thường nhìn thấy ông cau có suy nghĩ và trăn trở. Từ việc tìm mọi cách để Lý Chiêu hoàng kết hôn với Trần Cảnh, rồi nhường ngôi cho chồng; từ việc đem Thuận Thiên công chúa đang là vợ Trần Liễu gả cho Trần Cảnh cho đến việc ngăn Trần Cảnh bỏ lên núi tu... đều một tay Trần Thủ Độ lo liệu. Mọi sự lo lắng đều làm ông đau đầu tính toán. Mà những người thân của ông cũng không để ông yên. Khi thì vợ ông đòi bắt tội người lính cản đường không cho kiệu của bà đi vào lối cấm. Khi thì anh trai ông nằng nặc đòi quyền cao chức trọng. Vì thế, tiếng cười ròn và khuôn mặt ngây thơ của cậu bé Khánh Dư thực đã là thang thuốc an thần tốt nhất của Đức ông Thái sư.
Hầu tước trẻ tuổi Trần Khánh Dư thường được cha kể cho nghe rằng cậu rất được ông nội yêu thương. Nhưng rất ít khi cậu được gặp ông. Chỉ mỗi dịp cuối năm, Khánh Dư mới được theo cha về hương Quắc chúc thọ ông nội rồi cùng lên Thăng Long ăn Tết. Tết hồi ba bốn tuổi còn vui; càng lớn, Khánh Dư càng nhận ra nhiều điều chướng mắt. Mà tức mắt nhất, ấy là sự hậm hực ra mặt của các chi trong họ. Chi Trưởng Vạn Kiếp của An Sinh vương Trần Liễu không có quyền hành gì nhưng vẫn cứ là Trưởng. Chi thứ Tức Mặc cầm quyền làm vua, vừa có vẻ đắc ý mãn nguyện, vừa vướng víu chuyện Trần Liễu phải nhường vợ. Chi Út Long Hưng lại là nhánh của Trần Thủ Độ, việc trong họ tộc đều lọt vào tay chi Út. Trần Khánh Dư còn được nghe Nhân Túc vương Trần Toàn kể không ít chuyện rắc rối trong họ. Chẳng là cha của Nhân Túc vương lại là anh trai của Trần Thủ Độ nên Trần Toàn biết đủ thứ thâm cung bí sử. Nhân Túc vương kể cho Trần Khánh Dư nghe việc chọn mỹ hiệu cho Trần Tung đã khiến phủ Tông Chính một phen rối loạn. Chuyện thế này:
Trần Liễu là anh ruột Thái Tông, nên được đặc chỉ phong tước Hiển hoàng. Nhưng ông hoàng này đi thuyền ngang cung điện cũ của nhà Lý, trông thấy cung nữ xinh đẹp liền rẽ vào quây màn hưởng thú trần gian. Thế là bị hạ xuống thành Hoài vương. Rồi nổi loạn vì bị "cướp vợ”, lại hạ xuống thành An Sinh vương. Con cả của Trần Liễu là Trần Quốc Doãn, được bố chọn mỹ hiệu là Vũ Thành vương. Lúc đầu, không ai hiểu ra sao, tới khi phát hiện Trần Liễu không phục triều đình, không phục Thái sư ngấm ngầm chiêu binh thì mọi người mới hiểu nghĩa chữ "Vũ” trong mỹ hiệu của Trần Quốc Doãn. Dĩ nhiên, hồi ấy chưa ai biết, sau này Trần Quốc Doãn cũng dẫn cả nhà trốn sang Tống rồi lại bị người Tống trả về Đại Việt.
Cuộc loạn của Trần Liễu xảy ra rồi, tới khi chọn mỹ hiệu cho Trần Tung, phủ Tông Chính cương quyết chọn chữ "An” của Trần Liễu nối xuống. Trần Liễu nhất nhất đòi dùng chữ "Vũ”. Phủ Tông Chính nói vụng với nhau: "Con ông Liễu mà cứ cho chữ "Vũ”, thì hai chi Vạn Kiếp – Tức Mặc còn động binh đao không biết đến bao giờ”. Biết chuyện tranh cãi, Trần Thủ Độ nổi cáu, mắng cả Trần Liễu lẫn phủ Tông Chính. Chỉ Trần Toàn mới biết, Thái sư lẳng lặng vào cung nói với Thái Tông: "Việc này xử không khéo, họ Đông A hỏng mất”.
Thế là Thái Tông nhận Trần Tung làm con nuôi, chọn mỹ hiệu bắt đầu bằng chữ "Hưng”. Từ ấy, chi Vạn Kiếp chuyên dùng chữ "Hưng” được vua ban.
Nghĩ đến người là người đến. Sau lưng đã nghe thấy tiếng oang oang của Nhân Túc vương Trần Toàn:
– Lại phiền anh Dư phải chờ rồi...
Trần Khánh Dư quay lại:
– Lạy chú, cháu chỉ biết hôm nay có Tá Thiên vương tới, ai ngờ lại cả chú cũng đến Chí Linh. Thành thử cháu không kịp đón tiếp đàng hoàng. Thực là có lỗi.
Trần Toàn cười:
– À, cái việc sửa lỗi thì dễ lắm. Chiêu Văn vốn không có lỗi gì, ấy thế mà vẫn thường tạ lỗi với ta bằng cá khô hương Hoằng với rượu mít đấy. Anh Dư không biết chứ, hai món ấy đi với nhau thì tuyệt lắm nhé.
Trần Khánh Dư tủm tỉm:
– Tưởng sao chứ tạ mà dễ như vậy thì còn gì bằng. Cháu làm tướng Vân Đồn, không tạ được Đức ông Phán thủ phủ Tông Chính bằng rượu ngon nhắm tốt thì không kể là mang danh trấn nhậm Vân Đồn nhé.
Hai chú cháu đã lâu không gặp, thế nên câu chuyện của hai vị vương gia vốn chẳng coi lề luật ra gì cứ bỗ bã như chuyện của dân thường. Đám hầu cận thì quen, nhưng Tá Thiên vương Đức Việp mới tới thì há hốc mồm ra vì ngạc nhiên quá. Mãi Đức Việp mới dám lên tiếng chào, vì sợ đứng thêm thì còn nghe hai vị vương nói tiếp những chuyện người ngoài chớ có nên biết.
Hai vương quay lại, cười ha hả đáp lễ Tá Thiên vương. Nhân Huệ vương nheo mắt nhìn Tá Thiên vương, hỏi:
– Ông Thái úy, có việc lớn gì mà triệu ta chưa đủ, lại phải triệu cả Đức ông Nhân Túc thế hử?
Trần Đức Việp cuống cả lên:
– Bẩm chú, chú nhầm thế nào chứ, cháu đâu có phải Thái úy. Chú nói vậy cháu mang tội với triều đình.
Trần Khánh Dư được thể càng trêu khỏe:
– Ngươi thử hỏi Đức ông Nhân Túc xem... Quyền tướng quốc sự, chỉ sau Thái sư, chẳng là Thái úy thì là cái chức gì hả? Chẳng qua họ còn thử xem ngươi làm tốt đến đâu rồi mới phong thôi...
Chẳng ai như Nhân Huệ vương. Gọi hai vua là "họ" mà mặt không biến sắc. Trần Đức Việp càng hoảng không biết nói sao cho phải.
Nhân Túc vương thương hại liền đỡ lời:
– Thôi anh Nhân Huệ đừng có trêu cháu Tá Thiên nữa. Xem ra Đức ông quyền tướng quốc sự mà bỏ cả quốc sự về đây, việc lần này chẳng phải vừa đâu nhỉ?
Tá Thiên vương vội đáp:
– Bẩm hai Đức ông, cháu vâng mệnh hai vua về Chí Linh hỏi ý nhị vị vương gia. Theo tính toán của Quốc công, ta phải chuẩn bị một chỗ giấu quân, giấu lương ở núi Chí Linh. Hai vua chuẩn tấu. Cháu xin với hai vua, để phủ Tông Chính đứng ra sửa sang nơi thờ Đức ông Nhân Thành hầu làm cớ vận chuyển gạch đá gỗ lạt, tránh giặc nhòm ngó. Hai vua liền sai cháu về xin ý hai Đức ông.
Trần Khánh Dư hiểu ngay. Nếu không cần lấy việc sửa sang nơi thờ Nhân Thành hầu làm cớ nghi binh thì Đức ông Hưng Đạo đã không gửi sớ về triều. Đức ông chỉ cần báo cho Trần Khánh Dư là đủ. Cái chính là tài nhìn người của Quốc công Tiết chế. Hẳn Quốc công đã đoán định trước rằng, chỉ cần sớ xin lập căn cứ ở Chí Linh gửi về, hai vua sẽ nhìn ngay ra ẩn ý mượn động tĩnh của thái ấp để đánh lạc hướng. Bất ngờ là ở chỗ, Tá Thiên vương mới chỉ được giao chính sự chưa lâu, đã nhận ra được ý ẩn ấy. Hẳn khi nghe Đức Việp tâu bày, hai vua mừng lắm.
Trần Toàn lại nghĩ khác. Ông nói:
– Ta xin cảm tạ cháu Tá Thiên. Hai chi Trưởng - Thứ càng hòa hoãn, thì chi Út càng vắng vẻ. Cháu giao việc lớn cho phủ Tông Chính, cũng là nâng đỡ chi Long Hưng. Việc này, ta nợ cháu Tá Thiên một ân huệ đấy.
Trần Khánh Dư hơi giật mình trước lời nói của Trần Toàn. Hóa ra việc này thật có ý nghĩa với quá nhiều người. Thuận việc quân, chỉ dùng thêm một tờ sớ, Đức ông Hưng Đạo đã góp sức cố kết thêm cho vững chắc mối đại thống của họ Đông A, lại nhân thể đo được người tài trong họ. Điều ấy, Trần Khánh Dư chưa thể nghĩ tới.
Ba vị vương gia bàn bạc công việc thật lâu. Khi những tia nắng cuối cùng tắt trên rặng muỗm, đám hầu cận vẫn thấy ba vị bàn thảo say sưa. Riêng có Tá Thiên vương, dù bàn việc nước nhưng đôi lúc vẫn cứ giả bộ bâng quơ nhìn xung quanh tìm bóng dáng Thị Thảo. Hồi lâu, biết chắc lần này sẽ không được gặp cô gái Vân Đồn, Trần Đức Việp đành ngậm ngùi mà thôi nghênh ngáo.
Cũng trong lúc ấy, trên đất Quỳnh Châu, Hoàng Chí Hiển đang khua chân múa tay chỉ trời vạch đất giữa một khu rộng lớn. Bên cạnh, Quỳnh Châu An phủ sứ Trần Trọng Đạt và đại phú thương Vương Kế đang kính cẩn chắp tay lắng nghe. Thỉnh thoảng, họ lại khẽ liếc nhìn nhau ra ý: "Đấy, thấy chưa, Hoàng đại sư có khác. Thực là may mà đón được ngài sang!”
Họ không hề biết, nấp sau tảng đá phía xa kia, có một tiểu thư và con hầu gái đang âm thầm nhìn trộm "Hoàng đại sư”. Tiểu thư ấy chính là con gái rượu của Trần Trọng Đạt, đã được hứa gả cho Vương Thành, con trai Vương Kế!