- 2 -
Đối diện với Đavít, Trang trách chàng bằng một giọng giận dữ lẫn âu yếm:
- Ghê gớm thật! Thế mà cậu không nói gì với tôi cả.
Sau khi rời khỏi gian phòng lớn, Đavít bước nhanh ra phía cửa ngõ, nhưng nhờ nhanh trí khôn, Trang đã đến trước chàng. Số là có lần chàng quay đầu lại và thấy nàng, nhưng nàng liền giả tảng thôi không đuổi theo chàng nữa và lẩn tránh sau một hành lang. Chàng quay nhìn lần nữa, mỉm cười đắc thắng và chậm bước lại. Rồi khi đến một lối rẽ, đột nhiên chàng thấy nàng đứng trước mặt, hai tay dang ra để bắt và giữ chàng. Chàng dừng bước, vòng hai tay trước ngực, và đăm đăm nhìn vào đôi mắt đầy trách móc của Trang. Chàng nói:
- Tôi không bị ràng buộc gì với nàng cả.
Trước ánh mắt của Đavít, khuôn mặt xinh đẹp của Trang run rẩy, phừng đỏ và héo hắt như một đóa hoa bị ngắt khỏi cành. Nàng thỏ thẻ:
- Không, chỉ có tôi là bị ràng buộc với cậu mà thôi. Và… và… cậu rất có lý. Cậu không cần nói với tôi… bất cứ điều gì.
Chàng hối hận:
- Trang ạ, tôi sẽ nói với Trang nếu tôi không bị bắt buộc phải nói.
- Cậu nói đúng, tôi thật có lỗi. Từ nay, tôi không thế nữa. Bây giờ tùy ý cậu.
Nàng chắp tay ra sau lưng, hai bàn tay siết chặt lấy nhau. Đavít đưa hai tay ra định giữ lấy nàng, nhưng nàng né tránh và vùng bỏ chạy. Giờ đây, nàng lại chạy trốn và chàng đuổi theo… Nàng thích chạy xiết bao! Nàng được may mắn làm a hoàn trong gia đình người ngoại quốc này. Nếu là chủ nhân Trung Quốc thì họ đã bắt nàng bó chân từ khi họ nhận thấy nàng có nhiều hứa hẹn sẽ trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. Vì nếu một cậu con trai gia chủ muốn lấy nàng làm vợ lẽ thì nàng sẽ làm điếm nhục gia phong bởi đôi chân thô kệch như bọn nữ tì. Trang vẫn chạy, nàng cười vì nghe tiếng chân Đavít đuổi theo. Chàng cũng cười, và nhịp cười của hai người hòa vào nhau theo thói riêng của họ hồi còn thơ ấu. Cũng như mọi lần, chàng tóm được nàng; nàng cũng biết thế và đẩy chàng ra để thoát thân - nhưng không thoát được hẳn: đôi tay Đavít quá mạnh - vì thính tai, nàng nghe có tiếng bước chân và biết cả hai đã bị bại lộ.
Nàng vội lớn tiếng kêu:
- Xin Thiếu chủ chớ trầm mình!
Đavít buông tay, nhưng chậm quá! Bà Era đã thấy đôi lứa thiếu niên. Bà xẵng giọng bảo:
- Trang, mày đã quên phận mày!
Trang ấp úng:
- Con níu lại, sợ cậu con trầm mình xuống giếng.
- Chuyện phi lý! - Bà Era nói.
Nhưng bà phân vân, Trang nói dối hay nàng đã kiếm cách giữ Đavít lại thật?
Đavít phì cười nói lớn:
- Nàng nói dối mẹ ạ. Chúng con chỉ giỡn đấy thôi!
Bất bình, bà Era lạnh lùng bảo con:
- Đã đến lúc con phải thôi đùa giỡn với nó.
Bất giác, vẻ đẹp trai của con bà làm bà kém vui hơn thường ngày. Nước da hồng hào ấy, dáng điệu chững chạc ấy lâu nay là mối vui thầm của bà thời bây giờ lại làm bà lo ngại. Còn Trang, nàng đã trở nên xinh đẹp đáng lo.
Bà vắn tắt bảo Trang:
- Sửa soạn để theo tao đến nhà Đức Thầy.
Và xoay qua phía Đavít, bà nói:
- Còn con, con vào lo việc học hành đi!
Bà đĩnh đạc bước ra theo dãy hành lang đưa đến ngôi nhà riêng của bà. Đavít nhăn mặt nhún vai. Trang thở dài; nàng nhướng mày trông theo bà Era và lần lữa để đặt một bàn tay nhỏ nhắn, êm ái tựa một đóa hoa, lên cánh tay Đavít.
- Cậu sẽ nói chuyện nàng với tôi không?
Đavít tươi cười hớn hở và Trang cũng âu yếm mỉm cười, cái cười mỉm mà hình như chàng thường chợt thấy mỗi khi nàng ngước mắt nhìn mình.
Chàng đáp:
- Tôi sẽ kể với nàng tất cả.
Hai người chia tay nhau và Trang trở về phòng riêng để sửa soạn đi với bà Era. Gian phòng nàng ở giữa một khuôn viên nhỏ, hơi cách biệt, nhưng thông với khuôn viên của thím Hoàng, khuôn viên này lại thông với dãy nhà của bà Era bởi một lối đi im mát đầy rêu. Gian phòng Trang ở bây giờ, xưa kia, trước đây ba đời, là phòng riêng của nàng hầu bán chính thức của tổ phụ ông Era. Chính thím Hoàng cũng ở phòng này cho đến ngày thân phụ ông Era gả thím cho lão Hoàng. Sau đó, gian phòng bỏ trống trong lúc Trang còn thơ ấu. Nhưng người ta đã cho nàng dọn ra ở đấy khi nàng đến tuổi mười lăm. Đấy là một gian phòng xinh đẹp, tường quét vôi trắng, nền lót gạch ca-rô xám bóng nhoáng tựa gương. Trên tường, Trang có treo bốn bức tranh Xuân, Hạ, Thu, Đông, do chính tay nàng họa.
Trải qua nhiều năm, nàng đã có dịp đến phòng Đavít học với cụ đồ dạy chàng. Nàng pha trà, lau quản bút, mài mực và học đọc, học viết. Nàng đã làm nổi thơ, không thua gì Đavít. Trên mỗi bức tranh nàng đều có đề vịnh hai câu thơ. Trên bức mùa Xuân, nàng đề:
“Xuân đến anh đào đua trổ hoa,
Sá gì giá lạnh sẽ phôi pha!”
Trên bức mùa hạ, dưới khóm hoa dạ hợp:
“Sang hè nắng cháy như thiêu đốt,
Suốt buổi ve sầu mãi hát ca.”
Dưới cành phong tượng trưng mùa thu:
“Sân trước vắng, hoa rơi lác đác,
Ngõ ngoài xa, lá rụng la đà.”
Và dưới cụm thông tuyết phủ:
“Đông tùng xanh biếc, hoa tàn úa!
Vạn vật bao trùm bạch tuyết sa.”
Nàng thường đọc lại các câu thơ trên và tìm cách gọt giũa cho hoàn mỹ hơn. Nàng tự hỏi, có bao giờ đạt được không? Nhưng giờ phút này, mấy vần thơ ấy đã thấm thía tận tâm can và làm nàng muốn rơi lệ.
Nàng vội vã choàng thêm chiếc áo đơn sơ màu sẫm, tháo đôi xuyến vàng đang mang, gỡ cất các đóa hoa đào trang điểm trên mái tóc. Nàng soi vào tấm gương nhỏ, thoa một tí phấn và tô lại môi son. Lúc nào, nàng cũng tết tóc đuôi sam và vấn lên trên vành tai; nhưng mỗi khi đi ra ngoài, nàng thả xuống theo tục lệ để phân biệt các a hoàn với các tiểu thư; sau cùng nàng chải tua tóc trước trán.
Xong, nàng vội vã men theo dãy hành lang đến phòng bà Era. Thím Hoàng trang điểm cho chủ gần xong. Trang phục của bà Era lộng lẫy và rất đặc biệt. Bà vẫn tưởng đã theo đúng phục sức Do Thái, có biết đâu trải qua nhiều thế hệ trú ngụ ở đất Trung Hoa này, rất nhiều chi tiết trong việc thêu thùa, may cắt, đã có đôi phần cải cách, so với y phục của các bà tổ mẫu xưa.
Trang dừng lại trước cửa, đằng hắng và chuẩn bị nét mặt cho vui tươi. Bà Era không quay lại. Thường ngày, bà rất tử tế với bọn nữ tì và năng hỏi han họ, nhưng mấy hôm nay mặc dù tâm trí bận rộn theo ngày lễ Quá Hải, bà cũng cảm thấy bất bình vì sự quá thân mật giữa Trang và Đavít. Vẫn biết bà đã mua Trang về để bạn bè hầu hạ Đavít. Nhưng năm tháng trôi qua quá mau. Bà tự trách đã không thấy sớm hơn rằng khi con trai bà cũng như Trang đã khôn lớn; và bà giận Trang vì theo bà thì lẽ ra nàng phải là người hiểu điều đó trước tiên.
Trang rất sành tâm lý. Nàng kiên nhẫn đợi chủ hỏi đến mình. Chợt thấy thím Hoàng sẩy tay làm rơi chiếc trâm vàng, nàng nhanh nhẹn nhoài mình ra mềm mại như một con mèo, lượm lên và tự tay gài vào đầu tóc chủ. Nàng bắt gặp nét nhìn của chủ trong gương và mỉm cười, bà Era giữ vẻ nghiêm khắc, nhưng chỉ được vài giây, bà mỉm cười nói:
- Mày không tốt, tao giận lắm đấy!
Trang buồn rầu hỏi:
- Thưa bà, bà có thể cho con biết vì sao không?
Rồi nàng thật thà tiếp:
- Thôi, xin bà đừng nói nữa. Con biết rồi. Nhưng bà hiểu lầm con, con biết địa vị con trong gia đình này lắm. Con chỉ ước ao một điều là được hầu hạ bà. Con sẽ làm tất cả điều gì bà dạy bảo. Ngoài nhà này con biết ở vào đâu? Con dám không vâng lời bà sao?
Nàng xinh đẹp quá, khẩn cầu và nhu thuận quá, bà Era phải động lòng. Quả thật, Trang lệ thuộc hoàn toàn vào chủ. Bà Era chẳng những biết rõ tính cương quyết và đức khôn ngoan ẩn giấu dưới vẻ nhu thuận ấy, mà còn biết Trang sẽ không dại gì vì một mối tình thơ ngây mà phá tan cuộc đời ấm êm đang sống. Nếu mối tình ấy quả thật có đi chăng nữa, thể tất nàng cũng tìm cách tự kiềm chế, nếu không, còn gì là đời nàng - và điều đó đã dĩ nhiên - bà Era tự nhủ: vì nếu ngày nào bà thấy Đavít và Trang vượt quá giới hạn sự giao thiệp đứng đắn giữa chủ và tớ thì ngày đó bà sẽ gả nàng cho một nông phu.
Bà Era không nói nhưng Trang đoán biết tư tưởng của bà. Vì nàng có thói quen nhận thức bằng trực giác. Nàng cứ yên lặng, không suy nghĩ, chờ đợi, vận dụng dung thụ tính và tư tưởng kẻ khác lặng lẽ truyền qua trí não mình. Lấy một nông phu là số phận thường lẽ của các tì nữ không biết giữ phận tôi đòi. Và điều đó đối với gia đình này lại còn quan trọng hơn là trong một gia đình Trung Hoa, vì người Do Thái không lấy vợ lẽ, bà Era thường bảo thế, thêm nữa là người Do Thái đứng đắn: Dêhôva, Chúa Trời của họ đã cấm điều đó.
Vì bà Era không nói gì nên Trang đi ra và đợi bà ở cửa ngõ. Lát sau, nàng bước lên chiếc kiệu tầm thường theo chiếc kiệu rực rỡ diềm sa tanh của chủ. Nàng nhìn ra ngoài qua chiếc kính nhỏ ở cánh diềm phía trước. Con đường này không hề thay đổi suốt đời Trang cũng như hằng mấy trăm năm trước khi có nàng và luôn luôn ồn ào nhộn nhịp. Hai bên đường san sát những căn nhà thấp, tường gạch, tường đá, và sau những bức tường ấy, vợ chồng con cái sống chung, hạnh phúc hay không, nhưng yên ổn. Con đường rợp bóng, mát mẻ, vì trước mỗi nhà hàng đều có căng những bức đệm bằng lau, khung tre để che nắng. Bọn người gánh nước bằng thùng gỗ đi qua, một ít nước đổ loang lổ trên mặt đường, hơi nước bốc lên càng làm cho con đường thêm dịu mát. Đám trẻ bò lết, chạy nhảy khắp nơi, rẽ người qua đường để giành lối. Đàn bà mua cá bán rau, mặc cả om sòm, còn đàn ông thì hoặc bôn ba cho kịp công việc hoặc la cà ở các trà đình tửu điếm. Khắp nơi là một cuộc sống yên vui bình dị, nhưng Trang tự nhủ trong đó nàng có phần nào đâu.
Vừa ngắm nhìn quang cảnh quen thuộc ấy, nàng vừa ngẫm nghĩ đến cuộc đời nàng. Năm tháng thấm thoát thoi đưa, năm tháng vui tươi đầy hạnh phúc và nàng hãi hùng nghĩ tới ngày sẽ trở thành thiếu phụ, ngày mà một sự thay đổi sẽ xảy đến. Lâu nay, nàng có cảm giác nàng là con cái trong nhà, nhưng mấy ngày gần đây, nhất là trong ngày lễ Quá Hải kỳ dị vừa rồi, nàng đã hiểu, nàng chỉ là người xa lạ đối với gia đình này. Dù cố gắng đến đâu, Trang cũng không làm sao nhớ lại được mẹ hay cha nàng. Nàng chỉ là một đứa trẻ bỏ rơi, bị bắt trộm hay mua đi, bán lại…
Có một hôm nàng hỏi bà Era:
- Thưa bà, ai đã bán con cho bà?
Bà chủ đáp:
- Một người buôn con nít.
- Người đó có bán nhiều đứa như con không?
Thím Hoàng lanh chanh nói:
- Những hai chục đứa con gái và hai đứa con trai.
- Thưa bà, con không hiểu vì sao bà lại không chọn một đứa con trai để hầu hạ cậu con?
Bà Era đáp:
- Ông chủ chọn đấy. - Theo bà, ông đã chọn Trang là vì nó có đôi mắt rõ to. - Lúc đó, con gầy như chiếc que, con ạ. Bà còn nhớ con ăn nhiều đến nỗi cả nhà đều sợ.
Dọc theo con đường chật chội, Trang ngất ngưởng ngồi trên kiệu, suy ngẫm đến số phận mình. Ngoài gia đình chủ ra, nàng không quen biết một ai, nàng không có ai bầu bạn. Tất cả mọi người đều xa lạ cũng như những kẻ qua đường kia. Nàng muốn khóc. Nàng biết đi tìm bầu bạn hoặc một gia đình nơi đâu? Vì vậy nàng phải bám chặt vào hiện tại, vào gia đình độc nhất mà nàng đã biết.
Mình không có ai hết, nàng nghĩ thầm đau đớn.
Nhưng lòng nàng trung thực, tận đáy tâm can đã xua đuổi ý nghĩ này. Nàng đã tự dối mình! Nàng muốn ở lại trong nhà chủ vì ý nghĩ phải xa Đavít làm nàng đau khổ. Nàng thầm gọi chàng bằng tên và còn gọi luôn như vậy mặc dù ngoài miệng buộc phải thưa “Thiếu chủ”.
Ta yêu chàng, nàng tự thú. Dù ai có cho ta gì đi nữa ta cũng không rời bỏ nơi đây.
Trang thầm nghĩ trong lòng như vậy, và sự thật đã làm nàng bình tĩnh, sáng suốt. Bây giờ nàng biết rõ điều nàng muốn, và điều mà nàng sẽ có. Chỉ còn có việc làm thế nào để chiếm đoạt và gìn giữ nó thôi.
Nhà vị giáo sĩ ở cạnh nhà thờ Do Thái mà người Trung Hoa thường gọi là “Đền Dị giáo”. Con đường ngang qua trước nhà thờ này, đã từ lâu người ta thường quen gọi là đường “Trích Cân” do chỗ người Do Thái có cái tục huyền bí là mỗi khi ăn thịt đều rút gân bỏ đi. Trước đây, thỉnh thoảng đi ngang qua đường này người ta phải bực mình vì những lời bi thán não nuột từ nhà thờ vẳng ra. Nhưng với thời gian, những lời bi thán hầu như đã chấm dứt hẳn và bây giờ bảy ngày một lần người ta chỉ còn nghe văng vẳng những bài ca dài, hát rất chậm rãi. Đến các bài ca này cũng càng ngày càng hát nhỏ dần, và kẻ qua đường tò mò đã phải dừng bước lắng tai mới nghe rõ tiếng ca sau các cánh cửa nặng nề đóng kín. Chính ngôi giáo đường cũng đổ nát dần. Mỗi mùa hè bão tố lại hoành hành, và những nơi hư hỏng không hề được sửa chữa.
Nhà giáo sĩ ở sát đấy cũng trong tình trạng ấy. Trong sân và giữa các kẽ đá, rêu đã mọc đầy. Bà Era và Trang xuống kiệu từ ngoài ngõ. Lão Hoàng đã đến trước để báo tin, và đang đứng ở ngưỡng cửa gian phòng khách.
- Bẩm bà, Ngài còn giấc. Chỉ có một mình cô ấy dưới bếp thôi. Cô ấy đang chạy đi thay đồ và cô nhờ con mời bà ngồi chơi. Cô ấy sẽ xin ra hầu bà ngay.
Bà Era khẽ gật đầu bước qua bậc cửa một và vào trong phòng khách. Đây chỉ là một gian phòng nhỏ hẹp, sạch sẽ, tuy bàn ghế tầm thường, và Lịch có bày một bình hoa huệ trắng thơm ngát.
Ở đây, người ta không mời khách dùng trà, vì đó là tục lệ của người Trung Quốc. Bà Era ngồi và chỉ một chiếc ghế đẩu bảo Trang.
- Ngồi đấy, con. Khi không có ai thì con khỏi phải giữ lễ. Còn bác Hoàng thì đi về để lo công việc ở nhà.
Lão Hoàng cúi chào và bước ra. Bà Era ngồi đợi trong gian phòng thanh vắng. Bà lặng thinh, Trang cũng không nói gì. Nàng lặng lẽ ngồi xuống ghế, hai tay chắp lại trên gối, trông rất duyên dáng. Nàng ngồi thẳng, điềm tĩnh và kín đáo. Khi nghe có tiếng chân kéo lệch xệch, nàng đứng dậy và đến đứng hầu sau lưng bà Era.
Lịch vén bức màn cửa bằng vải đã bạc màu dắt thân phụ đi ra. Tay mặt của giáo sĩ cầm một chiếc gậy dài còn tay trái vịn lên vai con gái. Lúc còn trẻ, giáo sĩ cao lớn khác thường và bây giờ tuy đã già mà dáng người trông vẫn còn dong dỏng cao. Cũng như mọi hôm, sáng nay, người mặc quốc phục. Áo quần tuy có chỗ vá nhưng trông rất tươm tất. Râu của người dài và bạc phơ như tuyết, da đã có nhiều vết nhăn nhưng gương mặt trông rất tinh anh. Người nói với bà Era:
- Con…
Bà Era vội vàng thưa:
- Thưa thầy, con đã phá giấc ngủ của thầy.
Bà đứng dậy và bước tới gần giáo sĩ. Người khẽ nắm lấy tay bà, rồi người đưa tay lên đầu bà để làm dấu ban phúc. Lịch dắt người đến ngồi trên chiếc ghế đối diện với ghế bà Era ngồi lúc nãy. Nàng quay lại nói với bà:
- Xin mời dì ngồi!
Và khi bà Era đã ngồi xuống, nàng lấy một chiếc ghế đẩu đặt cạnh ghế của thân phụ. Ngập ngừng, nàng nhìn Trang:
- Còn chị… mời chị ngồi!
Trang khẽ cúi đầu dịu dàng đáp:
- Cám ơn tiểu thư, em bận đợi sẵn để bà em sai bảo.
Lịch ngồi xuống. Kể từ lúc Trang và nàng không còn là hai cô bé chơi đùa với Đavít nữa, đã có những thay đổi, nhưng không có gì đánh dấu sự kiện ấy rõ rệt hơn bằng lúc này. Một người là tì nữ, còn người kia đã là gia chủ.
Giáo sĩ nói với bà Era, giọng sang sảng:
- Lẽ ra, thầy dậy sớm hơn nhiều. Nhưng lạ thực con ạ, lễ Quá Hải đã nhắc nhở cho thầy những kỷ niệm buồn phiền và thầy đã thức suốt đêm. Đôi mắt tội nghiệp này (người sờ đôi mắt mù) không còn thấy đường nhưng còn khóc được con ạ.
Bà Era thở dài:
- Thưa thầy, trong cảnh đầy ải, tất cả chúng ta đã không cùng nhau than khóc sao?
Giáo trưởng tiếp:
- Thầy mỗi lúc mỗi già, Arông còn trẻ quá chưa có thể thay thế thầy được. Arông đâu, Lịch?
- Thưa cha, em con đi từ sớm chưa về.
Giáo trưởng hỏi:
- Em con có nói đi đâu không?
- Thưa cha không.
- Đáng lẽ con phải hỏi em con cho biết!
Lịch dịu dàng đáp:
- Con có hỏi nhưng em con không nói.
Bên cạnh bóng dáng ốm yếu già nua của thân phụ, vẻ xinh đẹp của Lịch nổi bật lên một cách lộng lẫy. Ánh mặt trời mùa xuân rọi qua khung cửa làm thành một hình vuông trên nền lát đá hoa và phản chiếu lên người Lịch khiến nàng trở nên rực rỡ lạ thường. Thân hình nàng thanh lịch, da dẻ hồng hào, trông dáng mạnh mẽ, nhưng vẻ e lệ đã làm cho nàng có một bộ điệu khiêm tốn gần như thơ ngây. Môi nàng thắm và dưới đôi mày rậm, mắt nàng sắc nâu với hàng mi cong trông rất xinh. Một dải sa tanh đỏ buộc gọn tóc nàng trên gáy. Chiếc thắt lưng cũng bằng sa tanh đỏ càng làm tăng thêm sắc trắng của chiếc áo dài tận gót. Tay áo ngắn để lộ đôi cánh tay ngà ngọc của nàng.
Trang ngắm nhìn Lịch với đôi mắt kín đáo sau hai hàng mi thẳng. Xúc động và ngạc nhiên, Trang thầm đặt nhiều câu hỏi về người thiếu nữ ngoại quốc xinh đẹp ấy, nhưng nàng không giải đáp được một cách minh bạch. Nếu vạn nhất Lịch về làm vợ Đavít, liệu nàng sẽ có đủ sáng suốt để hiểu thấu mọi diễn biến dưới mái nhà thênh thang này chăng? Liệu nàng sẽ lại lôi cuốn Đavít vào các mộng tưởng của dân tộc Do Thái…
Bà Era nói:
- Thưa thầy, đáng lẽ Arông phải xin phép thầy trước khi đi!
Giáo trưởng thở dài:
- Nó còn dại quá!
Bà Era giọng rắn rỏi:
- Thưa thầy, còn dại gì đến nỗi quên cả bổn phận. Cậu ấy là người độc nhất để thay thế thầy sau này. Cậu ấy phải nhớ nhiệm vụ đối với dân tộc. Nếu không, ai sẽ là người dìu dắt chúng con về xứ sở khi đến lúc.
Giáo trưởng giọng rầu rĩ:
- Chao ôi! Ước gì lúc ấy đến trong khi thầy còn sống!
Bà Era vẫn giọng rắn rỏi:
- Nếu không được thế đi nữa, chúng ta cũng phải sẵn sàng. Thưa thầy, chúng ta phải tu bổ lại giáo đường và khơi lại nguồn sống cho những gì còn tồn tại của dân tộc. Đồng bào chúng ta quên di sản của tổ tiên, và con cái chúng ta sẽ không biết đến di sản ấy. Có lẽ thầy nên giao cho Arông việc quyên góp để trùng tu… Thưa thầy, đấy là một ý kiến hay và để bắt đầu, con xin cúng năm trăm.
Giáo trưởng đáp:
- Ồ! Nếu tất cả đồng bào ta đều được như con cả. Nhưng quả là một ý kiến hay! Phải không Lịch? Cha sẽ giao cho Arông lo liệu và như vậy nó sẽ có việc để làm.
Lịch đáp vẻ nghi ngờ:
- Thưa cha vâng!
Và nàng cúi đầu nhìn vạt ánh sáng dưới chân mình.
Thật là những người kỳ lạ. Trang thầm nghĩ. Ông già quắc thước này, người con gái xinh đẹp của ông ta và đến cả bà Era trang nghiêm thảy đều có một ngọn lửa bên trong nung nấu lòng họ. Và vì sao, khi họ nói, mắt họ sáng lên như thế, nét mặt họ trở nên cương quyết và giọng họ có vẻ nghiêm trọng đến thế kia? Nơi họ dường như có một thần lực tỏa ra bao trùm lấy họ trong một sự hòa hợp huyền bí và đã gạt ta ra ngoài. Trang bỗng nhìn đôi bàn tay Lịch chắp lại trên đầu gối, đôi bàn tay mạnh mẽ, rắn rỏi, ngón to như tay đàn ông. Trang lại nhìn bàn tay nàng vịn trên thành ghế bà Era, bàn tay mềm mại nhỏ thó, ngón thon thon. Bàn tay Lịch giống bàn tay bà Era nhưng bàn tay Era suôn sẻ mịn màng, không có dấu vết của sự làm lụng, và mang nhiều nhẫn quí nơi ngón cái và ngón trỏ. Tay Lịch không mang nữ trang.
Bà Era nói:
- Thưa thầy, con đến định thưa với thầy về chuyện ngôi giáo đường.
Giáo trưởng nghiêng mình, một chiếc mũ tròn chụp trên chỏm đầu, để lộ ra chung quanh một vành tóc bạc phơ. Người nhã nhặn hỏi:
- Con muốn nói gì về chuyện ấy?
Bà Era vừa trìu mến ngắm nhìn Lịch vừa nói:
- Không biết cô Lịch có nên ở lại trong lúc này không?
Lịch đứng dậy:
- Con xin phép vào trong.
Nhưng bà Era bỗng quả quyết:
- Không. Sao con lại phải đi ra? Con đã lớn rồi và chúng ta có phải là người Trung Hoa đâu. Chúng ta có thể nói chuyện hôn nhân của con trước mặt con.
Lịch ngập ngừng ngồi xuống ghế. Trang ngắm nhìn Lịch và thấy khi nghe hai tiếng hôn nhân, một luồng máu đỏ phát từ vai, từ cổ, rồi dồn dần lên trên đôi má và tận đến chân tóc nàng.
Và Trang cảm thấy mặt mình tái đi, trái tim mình đập thình thịch. Lẽ dĩ nhiên là câu chuyện sẽ diễn ra trước mặt nàng. Có ai bận tâm để biết một con tì nữ cũng có một trái tim không? Bà Era rất tế nhị nên bà thấy rằng để cho Trang nghe chuyện hôn nhân của Đavít là một điều hay. Trang cúi đầu, hai tay chắp lại trên lưng ghế bà Era, nàng giống như một bức tượng nhỏ bằng cẩm thạch.
Bà Era nhắc lại:
- Việc hôn nhân… Thưa thầy, lúc này nói chuyện về đôi trẻ là vừa, chúng đã khôn lớn cả!
Giáo trưởng đáp:
- Lịch mới mười tám. - Người do dự. - Vả lại, không có Lịch thì thầy biết làm sao đây?
Bà Era thưa:
- Mười tám tuổi lấy chồng là vừa, và thầy cũng không thể giữ Lịch lại suốt đời được. Chúng ta sẽ mướn một thiếu phụ Do Thái đảm đang để thay thế Lịch; con có biết một người như thế rồi… Rasen, con gái của Êly.
- Một thiếu phụ Trung Hoa? - Giáo trưởng hỏi, vẻ do dự càng tăng thêm.
- Thưa thầy chỉ một phần thôi. - Bà Era đáp, giọng quả quyết. - Bây giờ khó lòng tìm cho được người giúp việc Do Thái trăm phần trăm. Chính con cũng có gia nô người bản xứ thôi. Tốt hơn là đừng thuê người tạp chủng! Nhưng lẽ dĩ nhiên là để thay thế Lịch ở đây chúng ta phải chọn một người hiểu nghi thức để có thể giúp đỡ thầy được. Rasen có thể đảm đương được việc ấy.
Với một giọng rền rĩ, giáo sĩ nói:
- Người chồng Trung Hoa…
Bà Era đáp:
- Thưa thầy bây giờ chúng ta đã khá vất vả để hỏi cho các con trai chúng ta những người vợ cùng trong chủng tộc. Vì lẽ đó mà con muốn Đavít kết hôn ngay lúc này. Lịch này, con phải giúp dì mới được.
Một vẻ bối rối thoáng hiện trong đôi mắt Lịch. Nàng khẽ nói:
- Bằng cách gì con giúp dì được?
- Con lại đằng dì. Khi đến tuổi cập kê, con đến ở nhà người bạn thân của mẹ con là một điều phải, và tự nhiên. Xưa kia mẹ con và dì như đôi chị em, và đã từ lâu dì muốn ngỏ ý bảo con ở lại đằng dì.
Có tiếng động ngoài cửa. Thình lình Arông bước vào, rồi dừng lại luống cuống trước mấy người khách bất ngờ ấy. Chàng gượng cười bối rối.
Với một giọng buồn phiền, Lịch khẽ gọi em:
- Arông!
Giáo trưởng kêu lên:
- Con đấy à! Con về rất đúng lúc. Chúng ta có thể cùng nhau bàn bạc. Đến đây con. Con ngồi xuống cạnh cha đây.
Giáo trưởng sờ soạng tìm một chiếc ghế, nhưng Arông chần chờ không muốn đến gần cha. Chàng cởi chiếc khăn trên đầu và lau mồ hôi trán. Lịch đứng dậy, đặt một chiếc ghế cạnh giáo trưởng và ra dấu bảo em trai ngồi. Chàng ngồi xuống và cố nén cơn thở dốc.
Giáo trưởng hỏi:
- Vì sao con phải chạy thế?
Arông cau có đáp:
- Vì con muốn.
Là một thiếu niên gầy yếu xanh xao, với đôi mắt ti hí, sống mũi mỏ diều, đầu tóc rối bù, Arông trông rất đáng ghét.
Với một giọng kẻ cả, bà Era bảo chàng:
- Cậu không có gì tỏ ra xứng đáng là con trai của một giáo trưởng cả. Cậu tầm thường như con của bất cứ một người nào khác.
Arông chỉ đáp lại bằng một khóe mắt giận dữ và hiềm thù.
Lịch khẽ gọi em:
- Arông!
- Chị im đi! - Arông nói một cách giận dữ, nhưng rất nhỏ.
- Con đã chào hỏi khách chưa con, Arông?
Bà Era nói:
- Thưa thầy, con xin tiếp tục câu chuyện hồi nãy.
- Vâng, vâng!... Này Arông, bà Era muốn Lịch lại ở đằng bà một thời gian.
Arông cáu kỉnh hỏi:
- Ai sẽ săn sóc chúng ta?
Bà Era đáp:
- Rasen sẽ đến đây.
Lịch có vẻ e lệ hỏi em:
- Arông, em có buồn về nỗi chị đi không?
- Can hệ gì đến em. Chị muốn làm gì thì làm.
Mắt Arông đảo quanh gian phòng và chợt thấy Trang, chàng nhìn sững. Trang cảm thấy đôi mắt Arông trân trân nhìn mình cách thô bỉ, nàng liền cúi gầm mặt xuống.
Bà Era thấy vậy, bất bình đứng dậy chắn ngang giữa hai người. Bà nói với giáo trưởng:
- Thưa thầy, chúng ta hãy quyết định như thế này. Lịch có thể lại đằng con trong ngày mai, con sẽ cho kiệu đến đón và Rasen sẽ đến đây trước đấy một chút. Lịch ạ, như vậy con có thể chỉ bảo những việc cần thiết cho mụ ấy. Con chớ định trước ngày về. Có lẽ dì sẽ giữ con ở lại lâu đấy.
Bà Era mỉm cười, khẽ gật đầu với Lịch trong lúc nàng đang vội vã đứng dậy. Rồi sau khi chào giáo trưởng, bà bước ra khỏi phòng như không trông thấy Arông. Giáo trưởng cũng đứng dậy, người vịn vào vai con trai, tiễn bà Era đến tận cổng.
Lịch cũng theo một bên cha. Trang đã ra trước để tin cho phu kiệu sửa soạn.
Thế là bà Era trở về nhà, bất mãn về những tư tưởng của chính mình. Trang nhận thấy điều đó. Bà lặng thinh về phòng riêng và vắn tắt bảo dọn dẹp căn nhà phía đông cho Lịch. Nghe xong lời chỉ bảo của chủ, Trang lui ra để làm phận sự. Nhưng khi nàng vừa ra đến cửa, bà vội gọi giựt lại dặn thêm:
- Bọn thiếu nữ có tài tiên tri. Con hãy sắp xếp hai gian phòng ấy theo cách con nghĩ, để cho Lịch vui lòng. Ở đấy, con hãy cho treo những bức tranh, bày những bình sứ, cắm các thứ hoa và dùng loại nước thơm mà nàng thích hơn cả.
- Nhưng thưa bà, làm sao con biết được sở thích của một người lạ?
Rồi đôi mắt mở to và ngây thơ của Trang gặp nét nhìn đăm đăm của bà Era.
Bà xẵng giọng nói:
- Thì hãy đoán lấy!
Nét nhìn ngây thơ của cô gái dao động.
Khi ra đến dãy nhà cầu rêu đóng, Trang dừng lại một chút. Rồi nàng vội vã trở về phòng riêng. Nàng cởi bộ y phục sắc sẫm, mặc bộ áo quần bằng lụa mịn màu hồng đào. Nàng lấy nước thơm rửa mặt, rửa tay, cuốn cái đuôi sam lại lên trên vành tai và cài vào đấy một chiếc trâm vàng; rồi nàng mang một chuỗi ngọc, thoa một lượt phấn trên mặt, tô son lên môi. Xong, nàng men theo những dãy hành lang kín đáo của ngôi nhà cổ để đến khuôn viên Đavít, cạnh khuôn viên thân phụ chàng.
Một gia đình Trung Quốc giàu có và đông đúc đã kiến tạo ngôi nhà này từ mấy trăm năm trước, và trải qua nhiều thế hệ kế tiếp người ta đã tùy nhu cầu hoặc sở thích mà lập thêm nhiều tòa ngang dãy dọc san sát. Bây giờ có nhiều chỗ vắng vẻ không dùng đến, nhưng Trang và Đavít vì tò mò đã giẫm chân khắp nơi, rồi đôi bạn trẻ càng lớn lên, mọi xó xỉnh hóc hiểm đối với họ đều là những nơi quen thuộc. Dưới mái nhà thênh thang ấy, nào hành lang, nào nhà cầu, liên tiếp làm thành một hệ thống đường đi kín đáo, thích hợp cho một đời sống thầm kín. Cái dinh cơ này là cả một thế giới đối với Trang. Nàng sống ở đây với gia đình chủ nhân, nhưng lắm lúc dường như nàng chỉ cô đơn một mình. Hàng giờ hàng buổi, nàng thơ thẩn trong một khuôn viên hoang vắng, cây cối um tùm, tha hồ ngẫm nghĩ về cuộc đời hoặc thả hồn mơ mộng. Nhưng từ trước đến nay, chưa bao giờ Trang hoàn toàn cô đơn, vì Đavít luôn luôn có mặt. Thực sự có mặt hay không, hình ảnh chàng cũng không ngớt hiện ra trong những điều mộng tưởng hoặc suy tưởng của nàng thiếu nữ.
Trang vừa tiếp tục đi theo con đường bí ẩn, vừa lo sợ phập phồng. Nàng vẫn biết và đã biết từ lâu rằng, một ngày kia sẽ có một người đàn bà về làm vợ Đavít. Nhưng nàng không cho rằng người đàn bà ấy sẽ có thể chia rẽ Đavít với nàng. Nghĩa là mọi sự sẽ cứ tiếp diễn, sẽ không ai chú ý đến sự thân mật giữa hai người trong cuộc sống hàng ngày của gia đình. Nhưng nếu người ta đưa Lịch về đây, liệu nàng có tha thứ điều ấy không? Liệu nàng có đòi hỏi toàn thể con người Đavít, thể xác, linh hồn và lý trí không?
Có lẽ nàng sẽ khuôn rập tín ngưỡng của chồng theo hình ảnh tín ngưỡng của nàng, nàng sẽ lôi kéo chồng theo đúng tôn giáo của ông cha và người chồng sẽ chỉ gắn bó với một mình Lịch mà thôi. Có lẽ sẽ không có một chỗ nào cho một người đàn bà khác trong trái tim của chàng trai trẻ. Trang e sợ Lịch vì nàng cảm thấy Lịch đủ sức để chiếm đoạt hoàn toàn một người đàn ông và giữ vững lấy. Đôi mắt Trang đầy lệ. Phải mau mau đến gần Đavít, chinh phục chàng và nối lại tất cả các dây liên hệ. Nàng hấp tấp bước, trong nỗi lo sợ này nàng cả gan dám trái lời bà Era. Chân mang giày satanh, nàng lặng thinh chạy mãi đến thư phòng, nơi Đavít đang đọc sách, mà không gây nên một tiếng động nào.
Chàng ngồi nơi bàn học, chồng sách đẩy cả ra xa. Lúc vào đến cửa, Trang thấy chàng cúi xuống trên một mảnh giấy, vẻ rất chăm chú, miệng cắn quản bút lông, không biết có nàng tì nữ xinh trẻ, tươi cười, đang đợi chàng ngửng mắt nhìn nàng. Chàng vẫn ngồi bất động, nàng phì cười. Chàng quay đầu lại, mặt còn giữ vẻ mơ mộng và xa xăm. Nàng đến gần, rút trong tay áo ra một chiếc khăn lụa trắng, cúi xuống lau đôi môi lấm mực của chàng.
- Chao ôi! Miệng với mồm. Cậu xem đây này.
Nàng chỉ vết mực trên chiếc khăn, nhưng chàng còn mơ màng như hồn để cả ở đâu đâu.
- Trang tìm giúp tôi một vần với “tiên” nào.
Nàng nhanh nhẩu đáp, vẻ đùa cợt:
- “Điên”.
Vừa đặt quản bút xuống bàn, chàng vừa nói:
- Chính Trang điên thì có.
- Cậu viết gì đây?
- Một bài thơ.
Trang giật lấy mảnh giấy, nhưng Đavít giành lại nên mảnh giấy rách làm đôi.
- Kìa, báo hại chưa! - Chàng kêu lên, giận dữ. - Tôi chép lại đến lần thứ năm rồi đấy.
- Để nộp cụ đồ à?
Và nàng cất cao giọng ngâm thơ của Đavít:
Thình lình lạc bước chốn hoa viên,
Ngào ngạt mùi hương tưởng cảnh tiên.
Trăm đóa hoa thơm đều tủi phận,
Trước cây huệ trắng…
Trang hỏi:
- Sao lại cây huệ? Tôi cứ tưởng là cậu thấy nàng giống như một con linh dương kia chứ. Một thiếu nữ không thể nào vừa giống một cây huệ lại vừa giống một con linh dương được.
Đavít đáp:
- Nàng không hoàn toàn giống một cây huệ. Thân hình nàng đâu có cao đến thế, tôi đã muốn ví với một cây lan, thứ lan nhỏ, nhưng không tìm ra vần.
Trang vò bài thơ.
- Dầu nàng giống hoa gì đi nữa, tặng thơ cho nàng cũng vô ích.
Chàng nắm lấy tay nàng bảo:
- Tiện tì!
Chàng giành lại bài thơ, vuốt cho thẳng, rồi nhìn Trang và sực nhớ những điều nàng vừa nói.
- Trang vừa bảo gì thế?
Trang im lặng một lúc, rồi nói với một giọng quả quyết:
- Lịch sắp đến.
- Ở đây? - Chàng vội hỏi.
Sự kinh khủng đọc được trong đôi mắt của Đavít làm Trang vui thích. Nàng khẽ gật đầu, đáp:
- Sáng mai nàng đến, - và nàng thật rất xinh đẹp; tôi chưa bao giờ thấy ai đẹp đến thế! Sao lại không giữ lấy bài thơ? Hoa huệ xứng hợp với nàng lắm.
Đavít cắn môi bứt rứt:
- Vì sao nàng lại đến đây?
- Lại còn phải hỏi nữa, cậu biết… cậu biết lắm. Nàng đến để kết duyên với cậu.
- Thôi đừng đùa nữa (chàng đứng phắt dậy, nắm chặt hai cườm tay nàng). Kể đầu đuôi cho tôi nghe đi. Mẹ tôi bảo nàng đến phải không?
Trang gật đầu:
- Tôi theo bà đến nhà giáo trưởng và tôi nghe rõ đầu đuôi cả. Họ sắp trùng tu lại ngôi đền, - ngôi đền thờ Chúa của cậu ấy mà, - và Lịch đến ở đây.
- Ồ, mẹ ta cứ tưởng…
- Chao ôi! Bà sẽ làm theo ý muốn của bà. Bà có quyền hơn cậu, bà sẽ buộc cậu lấy Lịch.
- Không thể được, tôi không muốn… Thân phụ tôi sẽ bênh vực tôi.
- Ông chủ không có quyền bằng bà đâu.
- Nhưng thân phụ tôi và tôi hiệp sức lại…
- À! Nhưng họ, họ cũng hai người đấy chứ. - Trang đáp vẻ đắc thắng. - Lịch và mẹ cậu!... Họ mạnh hơn cha cậu và cậu nhiều.
Nàng cảm thấy có một ý muốn lạ lùng là trêu Đavít làm cho chàng đau khổ để chàng phải cầu cứu đến nàng. Rồi nàng sẽ giúp đỡ chàng. Nàng ngẩng mặt lên, nhìn vào mắt Đavít và thấy chàng có vẻ bối rối.
Chàng khẽ bảo:
- Trang phải giúp tôi mới được.
Nàng khăng khăng đáp:
- Lịch đẹp lắm!
- Nhưng Trang đã biết, tôi yêu một người khác kia mà!
- Con gái ông Khương Sơn có phải không? Nàng tên gì?
Với một giọng thiểu não, chàng đáp:
- Nào tôi có biết.
- Nhưng tôi, tôi biết.
Trang đã chế ngự được Đavít. Chàng buông hai tay nàng.
- Tên nàng là gì?
- Cậu muốn ví nàng với hoa hoàng lan là gần đúng rồi đấy. Tên nàng là Quý Lan.
- Quý Lan! Ồ! Tôi đã biết mà!
Trang ngọt ngào nói:
- Và nếu cậu muốn, tôi sẽ đích thân mang đến tận tay nàng bài thơ của cậu, khi cậu làm xong.
Đavít rút ngăn kéo, lấy một tờ hoa tiên khác.
- Mau lên, Trang nghĩ hộ tôi câu đầu đi nào.
- Đừng ví với hoa, thường lắm!
Chàng sốt sắng hỏi:
- Không ví với hoa… Ở địa vị tôi, nàng sẽ ví với gì nào?
Trang đáp:
- Nếu là tôi, tôi sẽ nhắc lại với người… người tôi yêu… một… mùi hương… phảng phất trong gió lướt chiều hôm hay sương sa buổi sớm.
- Sương sa buổi sớm. - Chàng nhắc lại giọng quả quyết.
Chàng ngồi xuống trước tờ hoa tiên và cầm lấy quản bút lông.
Trang lấy lòng bàn tay và xoa nhẹ vào má chàng, dịu dàng bảo:
- Trong lúc cậu viết, tôi đi làm việc này cho bà đã.
Chàng không nghe Trang nói và cũng chẳng hay nàng đang bước ra. Thấy chàng chăm chú đến thế, Trang mím môi, mắt long lanh tựa hạt huyền và nàng đi dọn phòng cho Lịch.
Nàng lăng xăng sai bảo hai người tì nữ mà nàng gọi đến để giúp mình. Còn chính nàng thì không nhúng tay vào một việc gì cho đến khi một cái xó dưới gậm giường cũng đã được quét tước, các bức màn lụa rũ hết bụi, đôi chăn xếp để trên giường và chiếc bàn bằng gụ chạm lau chùi sạch sẽ. Bấy giờ Trang mới cho hai người nữ tì lui ra, và nàng ngồi xuống nghĩ đến Lịch.
Trong thâm tâm, Trang muốn để các gian phòng này như vậy: sạch sẽ nhưng trống trải. Vì sao nàng lại phải trang hoàng? Rồi Trang thở dài. Nàng biết mình vốn độ lượng, vậy không nên ganh tị với Lịch mới phải. Vả lại Lịch là người tốt bụng kia mà. Trang miễn cưỡng đứng dậy và đi kiếm các đồ vật xinh đẹp: đôi chậu sứ vẽ hoa sặc sỡ, chiếc tráp sơn, hai bức tranh phi điểu có đề thơ, chiếc ghế đẩu bằng trúc, một bình thủy tiên, và nàng trang trí hai gian phòng dành cho Lịch một cách rất mỹ thuật.
Lúc đã hoàn tất, nàng nhìn quanh một lượt và cảm thấy bổn phận mình đã làm xong, rồi đóng các cửa lại. Ra đến sân nàng dừng bước nghĩ ngợi. Chắc Đavít đã làm xong bài thơ. Nàng có nên đến hỏi chàng muốn dùng bài thơ ấy để làm gì không? Nàng lại băng qua các hoa viên mãi đến tận thư phòng. Thấy vắng vẻ, nàng khẽ gọi:
- Đavít!
Gian phòng vẫn im lặng. Nàng rón rén bước vào và nhìn thấy tờ hoa tiên trên án thư. Đavít chỉ mới viết được một câu:
“Hạt sương lóng lánh nụ sen hồng.”
Sau đó, chắc chàng đã phải ném bút. Trang sờ thử ngòi bút và thấy đã khô. Đavít đi đâu, chàng ở đâu nãy giờ?
Trang nhìn quanh gian phòng vắng, trên kệ la liệt sách vở. Nàng thử vận dụng khả năng trực giác và thấm nhuần không khí của gian phòng. Đavít đã cảm thấy xấu hổ, nhưng vì sao? Trang chỉ muốn chạy đi tìm chàng, nhưng đời đã dạy nàng phải kiên nhẫn. Nàng tự kiềm chế và đứng yên bất động. Rồi nàng cầm lấy quản bút, đậy tháp đồng lại và cất vào hộp; nàng sắp xếp lại cái nghiên và thỏi mực. Nàng đợi một lát nữa, xếp cẩn thận tờ hoa tiên với bài thơ bỏ dở, cất vào túi áo, xong mới trở về phòng riêng. Suốt buổi chiều hôm ấy, nàng mải miết thêu thùa quên cả ăn uống mà không một ai để ý đến tìm nàng cả.