← Quay lại trang sách

- 3 -

Nhưng thưa cha, họ Era là người đồng chủng với chúng ta còn Ette thì đã phải đi đến chốn người ngoại giáo!

- Chỉ ở đây, gần giáo đường, cha mới cảm thấy ở đất thánh. - Giáo trưởng thở dài.- Chao ôi! Nếu cha được thấy nơi này!

Lịch vừa quàng tay lên vai cha, vừa nói:

- Cha cho con ở lại đây với cha…

Giáo trưởng vội vàng đáp:

- Không, không, không phải là cha phàn nàn. Chúa dìu dắt chúng ta. Người có định ý đối với nhà họ Era, và Người đã chọn con để thực hiện ý định của Người, Lịch ạ! Con này, con đưa cha vào phòng để cha cầu nguyện cho đến khi tìm thấy ý muốn của Người.

Chính giáo trưởng lôi Lịch đi theo con đường đã quen thuộc, còn nàng tựa đầu vào vai cha. Arông đưa mắt nhìn theo, rồi bước nhanh ra ngõ chuồn mất. Đến bậc thềm, giáo trưởng dò từng bước.

- Các con ạ...

Lịch quay lại và không thấy Arông, nàng dịu dàng nói:

- Thưa cha, em con đi rồi!

Mọi lần trước, nàng giấu không nói cho cha biết để giữ hòa khí trong nhà và khuyên cha tha thứ cho Arông vì chàng còn nhỏ dại. Nhưng bây giờ, nàng phải cho cha biết sự thật.

- Đi rồi à? Nó mới ở đây mà!

- Cha chắc thấy rằng con không thể xa cha được. Khi con đi khỏi rồi, em con nó sẽ bỏ đi chơi và để cha trơ trọi một mình với người ở.

Giáo trưởng nói, vẻ mặt thảng thốt:

- Cha phải đến trước bàn thờ Dêhôva.

Lịch van lơn:

- Cha ơi! Cha cho con ở lại để săn sóc cha và em con.

Nhưng giáo trưởng hất tay con gái ra, đứng thẳng giữa gian phòng, gõ gậy xuống nền đá lát than thở:

- Chính cha đã giấu con. Chính cha đã tỏ ra hèn yếu. Cha biết tính nết Arông. Con cứ đi và cha sẽ làm phận sự của cha.

- Thưa cha, Arông còn nhỏ, cha làm gì được?

Giáo trưởng đáp, giọng cương quyết lạ lùng:

- Cha có thể nguyền rủa nó như Ygiắc đã nguyền rủa Egian. Cha có thể đuổi nó ra khỏi thánh thất và không bao giờ được trở lại.

Lịch ôm cha:

- Chao ôi! Con nỡ lòng nào ra đi!

Giáo trưởng cố tự chủ. Ông ngập ngừng, quay lại, sờ soạng tìm chiếc ghế và ngồi xuống. Ông run lên, mồ hôi toát ra trên vầng trán nhợt nhạt.

- Bây giờ con hãy nghe cha. Đây không còn là lời của một người cha thể xác, mà là lời nguyền của giáo trưởng!

Lịch đứng thẳng, do dự: nàng cắn môi, hai bàn tay nắm chặt, đôi mắt mở rộng nồng nhiệt và bao la. Sau một lúc im lặng, giáo trưởng đứng đậy và với một giọng hùng hồn bảo:

- Lịch, đây là lời Chúa dạy: con hãy ra đi và nhớ nhiệm vụ của con. Lịch, con hãy trở lại với gia đình Era. Con hãy nhắc cho cha con họ nhớ rằng, họ là con cháu của những người mà ta đã dùng tay Maisen dìu dắt ra khỏi xứ Ai Cập để vào nơi Đất Hứa. Nhưng dân tộc ta đã phạm tội. Chúng đã lấy vợ người ngoại giáo và thờ phụng các tà thần. Ta đã đuổi chúng đi để chúng biết ăn năn, nhưng ta không quên chúng đâu. Chúng sẽ trở về với ta và ta sẽ cứu vớt chúng. Ta sẽ đem chúng về nơi quê hương xứ sở. Và làm sao được như vậy, nếu không phải do bàn tay của những kẻ vẫn trung thành với ta.

Mặt giáo trưởng có vẻ khác phàm. Chiếc gậy rơi xuống đất và cụ giơ hai tay lên trời. Lịch chăm chú nghe và khi giáo trưởng dứt lời, nàng cúi đầu khẽ đáp:

- Con xin vâng lời cha dạy. Con sẽ làm hết sức của con.

Giáo trưởng trở nên bối rối. Vừa đứng dậy đã thấy đuối sức, cụ lại ngồi phịch xuống ghế. Với một giọng mệt mỏi, cụ nói tiếp:

- Con hãy tuân theo ý Chúa. Thôi con hãy ra sửa soạn đi.

Lịch líu ríu đi ra và lẳng lặng sắp đặt suốt ngày hôm ấy. Căn nhà gần giáo đường lúc nào cũng sạch sẽ và tươm tất, nhưng Lịch vẫn quét dọn lại một lần nữa, xong mới đi sửa soạn bữa trưa cho cả ba người. Arông vẫn chưa về nên nàng để lại phần cho em. Hai cha con im lặng ngồi vào bàn ăn. Khi biết Arông không có mặt, giáo trưởng thở dài và dặn Lịch hễ thấy em về thì giục vào ngay cho ông bảo. Sau bữa ăn trưa, giáo trưởng đi ngủ. Trong lúc ấy, Lịch xếp một ít áo quần vào chiếc va-li da, tắm rửa và gội đầu. Nàng vừa sửa soạn xong thì có người gõ cửa. Rasen đến với một người đàn ông đội chiếc rương gỗ của mụ ta.

Mụ vắn tắt nói:

- Bà Era bảo tôi đến đây.

Lịch đáp:

- Chúng tôi đang đợi thím - nàng dắt mụ Rasen về phòng nàng - thím sẽ ngủ ở đây, gần phòng của cha tôi. Thím đã ăn cơm chưa?

- Tôi ăn rồi. Tôi đến sớm để cô bảo qua công việc cho tôi, rồi tôi nấu cơm tối, vì bà Era dặn tôi thưa với cô đừng thức khuya, để sáng mai bên nhà sang đón cô sớm. Tối nay cô cứ ngủ ở đây, tôi ngủ sau bếp cũng được.

Người đàn bà mập mạp chắc chắn này làm cho Lịch yên lòng, nàng cùng mụ ngồi xuống giường. Nàng giải thích cặn kẽ thức gì cha nàng ăn và thức gì không ăn, giờ nào cha nàng cần nước nóng để rửa ráy, cần phải săn đầu tóc và bộ râu của cha nàng như thế nào. Nàng căn dặn không ai được động đến đồ đạc của cha nàng để trên chiếc bàn riêng. Nàng lại dặn phải quét tước giáo đường, lau bụi nơi chiếc tủ đựng Thánh kinh, và săn sóc các bức màn nhung; vì nhung quá cũ nên phải làm rất nhẹ tay. Sau cùng, nàng buồn rầu nói về Arông:

- Nó còn dại và tệ lắm. Tốt hơn là tôi nói trước cho thím biết để thím đừng có tin cậy vào nó.

Rasen quả quyết đáp:

- Cô cứ để mặc tôi.

- Thím coi sóc nó chắc tốt cho nó hơn là tôi.

Rasen khom mình, hai tay mập mạp chống lên gối, nói:

- Tôi lớn tuổi hơn cô. - Rồi lắc đầu tiếp. - Thương hại cho con cừu non, người ta sắp dắt đi làm thịt…

Lịch nhìn mụ sửng sốt không hiểu:

- Nhà họ Era dễ chịu lắm mà. Tôi thường đến đó luôn, lúc tôi còn nhỏ, Đavít và tôi… - Nàng đỏ mặt và phì cười - Nhưng khi cha tôi và bà Era đã hiệp sức để ra lệnh cho tôi thì tôi biết làm thế nào khác được?

Rasen đáp một cách hài hước:

- Bà Era nói nhân danh người đời, còn giáo trưởng thì nhân danh Chúa. - Rồi mụ ta trở lại nghiêm nghị. - Cô đừng có kết hôn với một người mà cô không thể yêu. Khó thật! Nhứt là trong một gia đình như nhà họ Era, nơi mà người ta không dung chế độ đa thê. Đối với người Trung Hoa, hôn nhân không thành một gánh quá nặng đến thế. Khi người ta không yêu chồng thì cưới cho chồng một nàng hầu và người vợ chính vẫn giữ địa vị mình trong gia đình. Nhưng làm vợ một người mà ta có ác cảm thì chán thật!

Lịch dịu dàng nói:

- Không một ai có thể có ác cảm đối với Đavít được.

Nói xong, mặt nàng đỏ thêm lên.

Rasen nhìn nàng mỉm cười:

- À, vậy thì… Nhưng tốt hơn là tôi đi xem thử trong nhà còn gì để ăn tối đã.

Trong gian phòng nhỏ cạnh phòng thân phụ, suốt đêm cuối cùng này, Lịch thao thức không ngủ. Phòng của Arông ở phía bên kia sân. Đến bữa cơm tối, chàng cũng chưa về, mãi đã quá nửa đêm mới có ánh đèn rung rinh sau khung cửa sổ chấn song, và phản chiếu yếu ớt trên các bức màn trắng nơi phòng Lịch. Nàng đứng lên, nhìn ra sân và thấy em trai thấp thoáng trong phòng chàng như một chiếc bóng. Nếu không phải là đêm nay, có lẽ nàng đã qua hỏi thăm em đi đâu về, và đã ăn uống gì chưa? Nhưng nay nàng cảm thấy đã xa cách em rồi. Đời nàng đối với gia đình này đã chấm dứt và ngày mai một cuộc đời mới sẽ bắt đầu. Nàng lại nằm xuống, bình tĩnh, gối đầu trên hai bàn tay xếp lại sau gáy.

Trong một lúc, nàng cố gắng suy nghĩ đến những lời dạy của thân phụ. Người bảo nàng là dụng cụ của Thiên Chúa, nhưng nàng còn bán tín, bán nghi. Vì quá bận bịu việc nhà nên nàng không còn có thì giờ đọc kinh Tôrat, kể từ ngày mẹ nàng qua đời. Ngày đau khổ ấy đã quá xa xưa, đến nỗi muốn nhớ lại gương mặt mẹ, nàng phải xua đuổi mọi ý nghĩ khác ra khỏi tâm trí. Khi đã tập trung tư tưởng, hình như nàng thấy hiện ra trên bức màn xám của dĩ vãng một gương mặt xanh xao, gầy yếu, đôi mắt to, với cái miệng nhỏ và buồn rầu. Nhưng nàng còn nhớ rõ các lời trối trăn của mẹ nàng một tối hôm nọ, trước khi bà nhắm mắt:

- Lịch, con hãy chăm sóc cha con và Arông!

Lịch đã đáp ứng giữa cơn nức nở:

- Thưa mẹ, vâng!

Và mẹ nàng thở hổn hển dặn tiếp:

- Con ạ, mà con cũng phải lo cho bản thân con, chứ còn ai lo cho con nữa!

Nhưng đến bây giờ Lịch vẫn chưa hiểu thấu lời dặn cuối cùng của mẹ.

Nàng làm thế nào mà chăm sóc người khác được, nếu nàng phải lo nghĩ đến bản thân nàng?

Nàng thở dài, bỏ qua không tìm câu giải đáp và bắt đầu nghĩ đến Đavít.

Tâm trí nàng đi sâu vào dĩ vãng, cố nhớ lại những kỷ niệm xa xưa, thuở mà mỗi tháng một lần, thím Hoàng đến đón nàng về nhà bà Era. Sau khi ngắm nghía hỏi han nàng, người ta cho nàng kẹo, trái cây và cho nàng ra sân chơi với Đavít, cậu bé đẹp trai, ăn mặc sang trọng, vui vẻ và dễ thương. Nàng còn nhớ giọng cười của Đavít, một giọng cười giòn giã không ngừng! Bất kỳ cậu bé ở đâu, thời ở đấy có một không khí vui tươi. Nhà Lịch luôn luôn buồn tẻ, cha nàng miệt mài đọc Thánh Kinh hoặc cầu nguyện, Arông đau yếu, rên siết, tính khí bất thường, khi thì nương tựa vào chị, khi lại cộc cằn; và kèm theo là sự nghèo nàn, một sự nghèo nàn bất tuyệt!... Nàng phải tiết kiệm, giật gấu vá vai và cố gắng tập tành giặt giũ, nấu nướng. Trước kia, giáo trưởng có nuôi một người đầy tớ gái, nhưng khi Lịch được mười hai tuổi thì nhà đã cho người ở thôi. Từ đó việc nội trợ chỉ có một mình Lịch cáng đáng, không kể người lão bộc Trung Hoa dùng để đi chợ, chăm sóc mảnh vườn rau nhỏ bé phía sau nhà, hốt cỏ rác và làm các việc ti tiện khác. Người lão bộc đã điếc lại câm nên ngày này qua ngày nọ sống hoàn toàn trong sự tịch mịch.

Như vậy, nhà bà Era là nơi vui sướng độc nhất mà Lịch đã biết trong thời ấu thơ. Nay nếu Chúa và thân phụ nàng buộc nàng trở lại nhà ấy thời nàng còn gì vui mừng hơn. Nàng tự nhủ: “Nhưng ta sẽ thường về đây, sắp xếp việc nhà cho hoàn hảo hơn lên và nếu quả ta kết hôn với Đavít…”

Nghĩ đến dây, nàng có vẻ tự ti mặc cảm và một nỗi lo sợ xâm chiếm tâm hồn nàng. Nếu nàng lấy chàng, nếu bầu trời mở rộng thênh thang như vậy đối với nàng, suốt đời nàng sẽ cảm ơn Thiên Chúa và sẽ tỏ ra hết sức xứng đáng với đặc ân Ngài đã ban cho. Nàng sẽ chiếm được trái tim của Đavít nhờ tay chàng xây dựng lại ngôi giáo đường và thực hiện các điều ước nguyện của cha già. Số người Do Thái còn lại trong thị trấn, bấy lâu tản mát, sẽ đoàn tụ lại trong ngôi giáo đường mới. Đavít sẽ là người lãnh đạo họ, Arông sẽ phụ tá chàng, và có lẽ nhờ vậy mà em nàng sẽ hối cải chăng. Mọi việc sẽ được như sở nguyện đối với mọi người, nàng tự nhủ, lòng chứa chan hy vọng.

Bóng dáng một thiếu nữ Trung Quốc xuất hiện ven lề giấc mơ của nàng; bóng dáng của cô bé đã chơi đùa với Đavít, một cô bé tươi đẹp với mắt hạnh đào lớn, cái miệng đỏ chót xinh xinh. Cô bé ấy đã dần dần trở thành một thiếu nữ mảnh mai, càng xinh đẹp hơn trước. Cô ta mang nước trà đến hầu Đavít và nàng, ép hai người ăn nhiều bánh ngọt, và luôn luôn có mặt kia. Trang... Trang! “Nhưng Trang chỉ là một tì nữ” - Lịch tự nhủ.

Gần sáng, Lịch thiếp đi, áp má lên trên hai bàn tay chắp lấy nhau, và Rasen nhè nhẹ bước vào phòng không nỡ đánh thức nàng dậy. Người đàn bà tốt bụng trở lại nhà bếp nhúm lửa nấu nước, thổi cơm sáng và đập ba quả trứng làm thức ăn.

Lịch vẫn còn ngủ, khi Rasen nghe có tiếng ồn ào ngoài ngõ, mụ mở cửa nhìn ra và thấy thím Hoàng ngồi trên kiệu, sau có một chiếc kiệu khác để trống.

Rasen nói:

- Mời chị Hai vào. Trong nhà mọi người còn ngủ cả.

Thím Hoàng bước vào. Ai không biết thì sẽ tưởng thím là một bà chủ nhà đấy, vì áo quần thím toàn bằng lụa màu thiên thanh, mang hoa tai vàng và đeo nhẫn vàng. Đầu tóc thím chải dầu láng mướt có bao chiếc lưới tơ đen rất nhỏ sợi. Thím đánh má hồng, còn nhổ và kẻ lông mày là đàng khác.

- Mọi người còn ngủ. - Thím nhại lại.

Rasen và thím Hoàng là đôi bạn thân. Cả hai đều tuân theo lệnh chủ. Bà Era thường cho Rasen tiền mỗi khi chồng mụ đau ốm hoặc thất nghiệp, còn thím Hoàng thì vì bà là chủ của thím.

Rasen nói:

- Giáo trưởng thì già cả, cậu con trai lại đi suốt ngày đến quá nửa đêm mới về; còn Lịch, chắc là một cô gái khốn khổ…

Thím Hoàng chau mày:

- Sao lại khốn khổ? Cô ấy có phước lắm mới được đến đằng nhà chúng tôi.

Rasen nói, giọng làm lành:

- Đúng thế, đúng thế. Mời chị Hai dùng chén nước, tôi xin đi đánh thức cô Lịch.

Thím Hoàng quả quyết nói:

- Để tôi đi cho. Còn chị hãy chăm sóc giáo trưởng và Arông. Tốt hơn là chúng tôi phải làm nhanh lên vì có lẽ đoàn thương hồ sẽ về đến nơi hôm nay. Khi tôi đi ngang qua cổng, người gác cổng có nói với tôi rằng, lúc hai giờ sáng có người lại báo cho biết là đoàn thương hồ đã về đến làng Tam Chung rồi. Nhưng xin chị đừng nói với cô Lịch. Bà tôi dặn không được làm rộn trí cô ta.

- Đoàn thương hồ đã về thật à, chị Hai được ở đằng ấy, thật có phước quá!

- Quả thật là có phước về nhiều phương diện, có điều là… Nhưng thôi, chúng ta hãy lo làm phận sự!

Thím Hoàng nhún vai. Rasen gật đầu ra hiệu và dẫn thím Hoàng vào phòng Lịch. Khi Lịch vừa thức dậy, nàng nhìn thấy trước tiên gương mặt hồng hào xinh tươi của thím Hoàng. Tâm trí còn bâng khuâng vì giấc mộng đêm qua, nàng phân vân tự hỏi:

“Vì sao, vì sao, ta còn ở nhà kia mà?”

- Xin cô dậy thôi, đằng nhà cho tôi lại đón cô đây.

Lịch vùng dậy và lấy tay hất tóc ra sau lưng. Với một giọng buồn rầu, nàng khẽ nói:

- Chao ôi! Sao hôm nay tôi lại dậy quá trưa như thế này!

Thím Hoàng nói:

- Không sao đâu cô ạ. Cô hãy mặc tạm thứ gì cũng được và xin mời cô đến đằng nhà. Bà tôi đã may sắm quần áo mới cho cô rồi. Cô đừng đem theo gì cả, vô ích.

- Tôi đã sắp sửa đâu vào đấy cả rồi.

Lịch vừa nói vừa nhanh nhẹn đứng dậy và ngượng ngùng liếc nhìn thím Hoàng. Chưa bao giờ nàng thay y phục trước mặt ai nên nàng phân vân e lệ. Thím Hoàng thấy vậy liền nói:

- Kìa, xin cô chớ ngại. Nếu cô ở luôn đằng nhà thời chính tôi sẽ tắm gội và săn sóc cô, ít ra cho đến lúc Trang quen việc ấy, và cô không có gì phải che giấu đối với một bà già như tôi cả.

Lịch xoay lưng lại phía thím Hoàng để cởi y phục và bước vào chậu tắm.

Thím Hoàng không ngớt thúc giục:

- Hơi đâu cô phải nhọc sức thế! Tôi sẽ tắm gội cho cô với nước thơm trước khi cô mặc áo quần mới.

Rasen bưng vào một bát cháo gạo nóng và phụ lực với thím Hoàng để sửa soạn cho Lịch mọi việc. Nàng chỉ có việc vào từ giã thân phụ và em trai là điều hai người không thể giúp được mà thôi. Nàng rón rén bước vào phòng Arông. Chàng còn yên giấc. Nàng nhìn em hai mắt ứa lệ. Em nàng ốm yếu xác xơ, gương mặt xấu xí xanh xao ấy làm Lịch phải động lòng. Người em này, ai mà yêu được? Nơi chàng không có gì đáng yêu cả. Nàng cảm thấy bừng dậy trong lòng biết bao niềm yêu thương đứa em hèn yếu. Nàng cúi xuống, hôn lên trán em. Hơi thở chàng nặng nề và đầu tóc hôi hám.

- Chao ôi! Arông - nàng khẽ gọi. - Chị có thể làm gì cho em?

Chàng mở đôi mắt đen bé nhỏ, nhận ra chị, trề môi lầm bầm:

- Chị để em ngủ nào!

- Nhưng chị đi đây em ạ.

Chàng nhìn chị đăm đăm, không hiểu.

- Em hãy chăm sóc cha, Arông. - Nàng khuyên lơn em. - Em nên tu tỉnh. Arông yêu dấu, chị van em!

- Chị có trở về không? - Chàng hỏi, giọng khàn khàn.

- Nếu được phép, chị về luôn. Vả lại, cũng đã có Rasen ở đây.

- Như vậy thì tốt lắm.

Chàng quay mình chui vào chăn.

Lịch bước ra khẽ khép cửa, rồi vào phòng thân phụ nàng. Giáo trưởng đã khăn áo chỉnh tề và đang đọc kinh.

- Cha!

Giáo trưởng quay lui, và nàng lại nói:

- Thưa cha, người ta đến đón con.

- Sớm thế à! Nếu vậy, con phải mau lên, con ạ. Con đã sẵn sàng chưa?

Nàng đến gần cha. Sau khi lấy tay sờ đầu, mặt, vai, tóc và áo nàng, giáo trưởng khẽ gật gù nói:

- Ờ có thế chứ, con đã sửa soạn xong. Vậy con đã ăn sáng chưa?

- Thưa cha, rồi ạ. Rasen đã sắp đặt mọi việc cho cha.

Cảm động, nàng ngả đầu vào ngực cha già, thổn thức:

- Cha ôi!

Giáo trưởng vuốt tóc con an ủi:

- Nhưng con có đi xa đâu. Con sẽ trở về gần như hằng ngày và con thử nghĩ mọi việc sẽ tốt đẹp biết bao đối với chúng ta tất cả.

Nàng ngửng đầu dậy, lau nước mắt và mỉm cười:

- Xin cha đừng tiễn con làm gì. Cha cho con từ biệt cha tại đây. Chốc nữa Rasen sẽ vào hầu cha.

Nàng đi ra không quay đầu trở lại, và sau khi chào Rasen nàng bước ra ngõ. Khi các bức màn kiệu đã buông xuống. Lịch có cảm tưởng là nàng đang bắt đầu một cuộc viễn du, có lẽ không hẹn ngày về.

Tại nhà bà Era, Trang đã đợi sẵn trước sân ngoài. Thím Hoàng đã truyền lại lệnh ấy của bà chủ cho Trang lúc tảng sáng, và nàng đã trừng trừng đôi mắt hỏi:

- Tôi có phải hầu hạ cô ta không?

Thím Hoàng đã xích lại gần, lấy tay véo vào má Trang.

- Nếu trong đầu chị có một chút khôn ngoan, thì chị sẽ không hỏi điều gì chị ưa làm, điều gì không. Nếu lúc trước thím cũng hỏi như thế thì bây giờ thím đâu có được ở đây. Vâng lời… vâng lời… và tự do làm theo ý mình muốn. Hai điều đó đi đôi với nhau hoàn toàn nếu mình khéo léo một chút. – Bây giờ thì chị phải nhanh lên, đoàn thương hồ không còn bao xa nữa. Ông chủ đã đi đón từ lúc chưa sáng kia.

- Đoàn thương hồ! - Trang kêu lên.

- Phải, mà sao? - Thím Hoàng hỏi có vẻ sốt ruột.

Rồi vừa bỏ đi vừa dặn tiếp:

- Đừng nói với Lịch đấy, bà cấm.

Khi thím Hoàng bước vào, Trang mới bắt đầu tết tóc và lúc thím bỏ đi, chiếc đuôi sam dài thườn thượt đã đánh xong. Trang chỉ còn nghĩ đến đoàn thương hồ, xúc động vì cái tin đoàn ấy đã trở về. Rồi đột nhiên nàng quên bẵng chuyện ấy. Thím Hoàng đã bảo chuyện gì kia? - “Vâng lời… vâng lời… và tự do làm theo ý mình muốn. – Hai điều đó đi đôi với nhau, - nếu mình khéo léo một chút”. Câu nói kỳ lạ, đầy khôn ngoan! Trang ngẫm nghĩ về ý nghĩa các lời này như một châm ngôn, thấm dần, thấm dần vào tận đáy tâm hồn nàng. Bỗng nhiên, nàng chúm chím cười, làm cho đôi má lúm đồng tiền trông rất xinh.

Nàng không vấn đuôi sam lên mé tai như thường nhật mà buông thõng xuống lưng. Nàng buộc tóc lại ngang gáy với một sợi tơ đỏ thắt nơ, và giắt vào đấy một đóa hoa sơn chi vừa ngắt ngoài vườn. Bận y phục màu thiên thanh, Trang có vẻ duyên dáng, khiêm tốn, Lịch trông thấy nàng trước tiên, vì lúc đến cổng chính Trang tươi cười vén màn kiệu và đon đả hỏi:

- Cô đã đến, thật là quí hóa. Xin mời cô xuống kiệu.

Vừa nói nàng vừa đưa cánh tay ra để Lịch vịn. Nhưng Lịch đã nhanh nhẹn xuống khỏi kiệu không phải nhờ tới sự giúp đỡ ấy. Nàng lớn hơn Trang một cái đầu. Nàng chỉ mỉm cười mà không nói gì.

Trang nhích sang một bên để nhường lối, và hỏi:

- Cô đã dùng sáng chưa?

Lịch thành thật đáp:

- Cám ơn chị, tôi đã ăn điểm tâm rồi nhưng hãy còn đói.

- Vì cô đi sớm quá. - Trang lịch thiệp nói. - Hôm nay khí trời ấm áp và trong lành quá. Đưa cô về phòng riêng xong, tôi xin mang thức ăn đến để cô dùng. Hôm qua, tôi đã dọn dẹp đâu vào đấy cả, và chốc nữa tôi sẽ đưa hoa sơn chi tươi đến tặng cô. Tôi sợ hái sớm quá, hoa sẽ có quầng đen, mất đẹp.

Hai thiếu nữ cùng nhau đi vào. Cả hai đều ý thức mối liên hệ mới giữa đôi bên, và mỗi người đều có ý định xử trí cho thích nghi. Thím Hoàng đã vào trước để trình với bà Era và để Trang dẫn Lịch về phòng riêng.

Khi Trang dừng bước, Lịch ngạc nhiên hỏi:

- Cả tòa nhà này dành riêng cho tôi à?

Chưa bao giờ nàng được ở những gian phòng đẹp đẽ như thế này. Nàng nhớ lại lúc nàng còn nhỏ nàng đã thấy bà tổ mẫu của Đavít ở đây và cứ đến tối là bà cụ thắp nến sáng trưng.

- Chỉ có hai gian. - Trang đáp. - Gian này để làm phòng ngủ, còn gian kia để tiêu khiển khi vắng vẻ một mình.

Nàng đưa Lịch đi xem từng gian một. Trang đợi người đàn ông xếp xong chiếc rương của Lịch vào một góc và lui ra, nàng mới trỏ cho Lịch các bộ y phục Do Thái mà bà Era mặc lúc còn trẻ. Bộ thì đỏ thẫm dát kim tuyến, bộ thì xanh tươi viền nguyệt bạch, bộ nữa màu vàng viền lục, bộ nào cũng thẳng nếp, vừa rộng lại vừa dài.

- Hôm nay cô nên bận áo màu đỏ.

Và Trang tiếp:

- Nhưng trước tiên xin mời cô dùng bữa sáng, xong còn tắm và gội đầu với nước thơm. Đây là đồ nữ trang. Bà chủ lại còn dặn đừng để cô thui thủi một mình ở đây. Cô nên dạo chơi sân này qua sân khác để làm quen với mọi người trong nhà.

- Bà thật chu đáo quá!

Rồi Lịch e lệ tiếp:

- Nhưng không biết ngày đầu tôi có đủ dạn dĩ không.

Với một giọng khoan nhã, Trang nói:

- Sao lại không? Ở đây không ai có ác ý mà cô ngại.

Vừa nói Trang vừa mở chiếc hộp sơn đỏ để trên bàn trang điểm, và Lịch trông thấy rất nhiều đồ nữ trang bằng vàng, bằng bạc nạm ngọc thạch.

Lịch ngồi cạnh bàn ngước trông lên, nàng gặp nét nhìn tươi vui và bí mật của Trang. Với một giọng rõ ràng và hóm hỉnh, Trang hỏi:

- Đám cưới phải không cô? Tôi tin là bà tôi quyết định cưới cô cho tiểu chủ tôi.

Lịch hơi bối rối, nhưng trấn tĩnh được ngay và hăng hái đáp:

- Người khác không quyết định cuộc hôn nhân thay cho mình được.

Trang bạo dạn hỏi:

- Thế nghĩa là sao? Tất cả các cuộc hôn nhân, không phải đều sắp đặt à?

Lịch kiêu hãnh đáp:

- Đối với dân tộc chúng tôi thì không.

Nàng quay đầu nhìn Trang một lần nữa và thầm nghĩ, người thiếu nữ Trung Quốc xinh đẹp này chỉ là một thiếu nữ, không tiện thảo luận với người ta về cuộc hôn nhân này, một vấn đề thiêng liêng, rất thiêng liêng ngay đối với tư tưởng của chính nàng – một điều xa vời và cao cả như ý định của Chúa.

Với một giọng lạnh lùng và rắn rỏi, Lịch nói:

- Bây giờ tôi cần ăn chút ít gì, nhờ chị nhé. Xong tôi thay y phục một mình… tôi đã quen thế rồi. Chị nói hộ với thím Hoàng rằng thím ấy khỏi phải giúp tôi trong việc này, và chị cũng vậy.

Nghe giọng nói, Trang thấu hiểu sự diễn biến trong tâm trí Lịch. Nàng cúi đầu mỉm cười, và đáp một cách dịu dàng khả ái:

- Thưa cô, vâng ạ!

Rồi nàng lui ra.

Một lát sau, có người đầy tớ gái bưng mâm đến, đợi Lịch ăn xong dọn dẹp rồi trở ra. Lịch rửa mặt, chải tóc, rồi bận bộ y phục màu đỏ thắm. Nhưng nàng không dùng nước hoa và cũng không sờ đến món nữ trang nào trong hộp. Khi đã sửa soạn xong, nàng sang ngồi đợi tại gian phòng trông ra sân.

Trang lui về phòng riêng, nước mắt chứa chan, xúc cảm vì sắc đẹp của Lịch. Nàng đến trước bàn trang điểm, nhìn vào gương và nhận thấy vẻ kiều mĩ của mình hình như hèn mọn, vô nghĩa. Nàng chỉ là một vật nhỏ bé, nhẹ nhàng, khác nào một con chim, và tuy mặt nàng “khuôn trăng đầy đặn” nhưng thân mình nàng quá mảnh mai, thiếu khí lực. Lịch giống một bà công chúa, nàng chỉ là một đứa trẻ thơ. Dù thế nàng cũng không cảm thấy ganh tị, vì người thiếu nữ Do Thái này quang minh và tốt bụng quá. Trang tự biết nàng không có đủ các đức tính ấy. Mà dù có muốn minh chứng chăng nữa cũng không thể được một khi phải tranh thủ điều sở hữu bởi mưu mô mánh khóe?

“Ta không có gì cả, không có gì cả, chỉ một mình thôi.” - Trang thầm nghĩ thế và sa sầm nét mặt.

Nàng xếp gương, gục đầu xuống bàn khóc nức nở, cho đến lúc không còn giọt nước mắt nào. Nhưng nhờ vậy mà tinh thần nàng đã trở nên tỉnh táo, sáng suốt, và lòng tự nhủ lòng: “Mày không khi nào sẽ là một người vợ trong gia đình này. Mày đừng mơ mộng hão huyền. Mày cũng không thể là một nàng hầu, - Chúa của họ cấm điều đó. Nhưng không ai hiểu Đavít bằng mày. Mày là hạnh phúc của chàng. Mày đừng bao giờ để chàng lãng quên điều đó. Mày hãy là nguồn an ủi, là điều tối cần thiết, là niềm vui độc nhất và là nụ cười kín đáo của chàng.

Thầm nghĩ như vậy, nàng ngửng đầu lên và mỉm cười. Nàng lại soi vào gương, cuốn đuôi sam lên trên mé tai và ngắm kỹ hồi lâu từng nét biểu lộ trên khuôn mặt và đôi mắt nàng. Rồi nàng cởi bộ áo quần màu thiên thanh ra, mặc bộ y phục khác sáng tươi màu hồng đào và giắt một đóa hoa sơn chi lên mái tóc. Nàng hái thêm một ít hoa để biếu Lịch. Nàng đã phải lấy hết can đảm để sắc mặt khỏi ủ ê khi trông thấy Lịch tươi phơi phới trong bộ y phục đỏ thắm với chiếc thắt lưng màu vàng.

Khi đưa tặng hoa cho Lịch, Trang cố tỏ vẻ hớn hở và mỉm cười nói:

- Ồ, cô đẹp quá! Xin biếu cô ít hoa tươi. Tôi sẽ đến thưa với bà chủ rằng cô đã sẵn sàng để vào hầu.

Nàng vừa đi, vừa chạy, dường như vui sướng với việc nàng làm vì Lịch. Đến cửa phòng bà Era nàng dừng lại, nuốt hai hàng lệ ứa, chỉnh lại thần sắc, đằng hắng và đứng đợi.

Bà Era bảo:

- Cứ vào.

Bà Era vừa ăn cơm xong và sắp sửa đi soát xét khắp nhà, nhất là nhà bếp để xem tôi tớ có chăm lo phận sự không, vì bà muốn không một việc gì được hoãn lại ngày mai, vì là nghỉ lễ Sa Ba 1.

Hồi sáng, khi thím Hoàng đánh thức bà dậy để báo tin đoàn thương hồ có lẽ sẽ về đến nhà nội nhật, bà đã kêu lên:

- Mai là ngày lễ Sa Ba mà hôm nay đoàn về à!

Rồi bà dặn:

- Không được nói cho cô Lịch biết để tâm trí cô khỏi xao nhãng điều ta muốn nói với cô ấy.

- Bẩm bà, vâng.

Bà Era sợ trong nhà náo động vì tin đoàn thương hồ về mà xao lãng chuẩn bị công việc cho ngày lễ Sa Ba chăng. Bà đứng dậy sắp sửa đi xem xét và đôn đốc bọn tôi tớ, thì chợt nghe Trang đằng hắng ngoài cửa. Bà lại ngồi xuống. Có vẻ sốt ruột, bà giục Trang:

- Vào đây, mau lên con!

Trang bước vào gian phòng đặc biệt vì khác hẳn các gian phòng khác trong nhà. Trên tường căng đầy vải hoa và trướng sa tanh. Đồ đạc chạm trổ bày la liệt trong phòng nhưng không phải theo kiểu Trung Quốc, ở đây người ta không tìm ra được khoảng trống không nào cần thiết cho một bà mệnh phụ Trung Quốc tìm sự yên tĩnh cho tâm hồn và trật tự cho tư tưởng. Bà Era sống vui sướng giữa khung cảnh của cải chồng chất ấy, và mặc dù Trang không thích, nàng cũng đã phải khen gian phòng đẹp đẽ để lấy lòng chủ. Nếu hẹp hơn thì gian phòng này đã trở nên xấu xí. Nhưng bà Era từ khi mới về nhà chồng đã cho triệt hạ hai bức tường ngang, và ba gian phòng cũ hợp thành một, rộng thênh thang.

Trang kính cẩn:

- Bẩm bà, cô Lịch xin vào hầu!

- Cậu con đâu?

- Bẩm bà, khi con vào cậu con còn ngủ!

Tối hôm qua, Trang đã không vào phòng Đavít để sửa soạn mùng màn cho chàng. Nàng làm như vậy một phần vì sự cấm đoán của bà Era nhưng nhất là để dò ý tứ Đavít. Than ôi! Đavít đã không gọi đến nàng! Nàng đã tức tối khóc, nhưng sáng dậy ăn năn nên nàng đem nước trà đến phòng chàng rất sớm để hỏi chàng hôm qua đi đâu và vì sao không làm cho xong bài thơ. Nhưng Đavít còn ngủ say sưa, cánh tay mặt gác lên trán. Trang âu yếm nhìn chàng hồi lâu rồi lui ra.

Bà Era bảo Trang:

- Nói với thím Hoàng vào đánh thức cậu con dậy. Còn ông chủ ở đâu nhỉ?

- Bẩm bà, con nghe thím Hoàng nói ông con đi đón đoàn thương hồ.

- Mong đoàn ấy về hôm nay đi cho rồi! Nếu không, Đavít chỉ để tâm trí vào đấy mà thôi.

Trang tỏ vẻ buồn bã để đẹp lòng chủ:

- Bẩm bà, thím Hoàng có cần thưa với cậu con lại đây trước khi đoàn thương hồ về đến nơi không?

- Ừ, phải rồi, con nói với thím ta thưa với cậu con như thế. Lát nữa, bà đi kiểm soát cũng được. Bây giờ con mời cô Lịch đến đây.

Bà Era mở cái tráp cẩn xà cừ lấy ra một bức thêu. Trang lui ra. Gặp thím Hoàng, làm như truyền lại lệnh của chủ, nàng bảo:

- Thím đi tìm cô Lịch đến hầu bà, còn tôi, tôi đi đánh thức tiểu chủ dậy đây. Mau lên nghe thím.

Trang vừa nói xong đã bỏ chạy. Nhưng nàng không vào phòng Đavít mà lại chạy đến thư phòng vắng vẻ vào giờ này. Nàng vội vã lấy quản bút lông, rút thép, mài một chút mực và móc yếm lấy bài thơ bỏ dở ra. Nàng chau mày suy nghĩ một chốc, rồi viết thêm ba câu thơ trên tờ hoa tiên. Xong nàng vừa xếp bút nghiên vừa thì thầm:

- Đavít thứ lỗi cho tôi.

Đoạn nàng vội vã về phòng riêng, mở ngăn kéo lấy ra một chiếc túi đựng tiền mà ông bà Era và khách khứa đã cho nàng. Nàng bỏ chiếc túi vào yếm và lẩn vào các đường cầu để đi ra phía cổng sau, chiếc cổng nhỏ hẹp mà các nhà giàu sang đều có, đề phòng khi nhiễu loạn quân cường đạo cướp bóc theo chính môn ùa vào thì gia đình có ngõ mà tẩu thoát.

Ra khỏi cửa hậu nhà chủ, Trang tránh đường lớn, men theo các con đường nhỏ vắng vẻ dẫn đến phía cửa hậu nhà họ Khương. Trang gõ cửa. Bác làm vườn rút then. Nàng nói:

- Tôi vào đưa một bức thư.

Bác làm vườn gật đầu và đưa ngón tay lấm đất chỉ đường cho Trang vào nhà.

Gia đình họ Khương sống một cuộc đời nhàn rỗi, đến trưa mọi người mới rời khỏi giường. Mụ Chu, người vú già, mới ngủ dậy, mụ đang đứng ngáp trong phòng riêng và lấy chiếc trâm bạc gãi đầu, thì Trang hé cửa, hỏi nhỏ:

- Thím Hai đây phải không?

Mụ Chu mở rộng cánh cửa hỏi lại:

- Ồ! Chị Trang đấy à? Có chuyện gì mà chị lại chơi sớm vậy?

- Không giấu gì thím, tôi phải vội lên mới được. Đàng nhà không ai biết tôi đến đây cả, trừ Thiếu chủ tôi là người sai tôi đưa đến tặng tam nương bài thơ này. Nếu có phúc đáp, nhờ thím trao lại cho tôi nghe.

Trang có phần quen thuộc nhà này, vì một hôm ông Era đã sai nàng mang bảo vật đến đây để trao tận tay cho ông Khương Sơn. Nhân đấy, Trang đã làm quen với thím Chu. Sau đó, thím Chu và Trang đã đến thăm viếng chúc mừng nhau trong dịp Tết Nguyên Đán, vì thế tình quen biết càng thêm đượm đà. Đó là sự dĩ nhiên giữa gia nhân hai nhà mà chủ nhân có quyền lợi liên hệ. Đành rằng bà Era không phải là bạn của bà Khương, nhưng ông Era và ông Khương giao thiệp với nhau rất mật thiết.

Mụ Chu nhìn chăm chú tờ hoa tiên:

- Nói cái gì trong này?

Trang lấy giọng đọc bài thơ mà nàng đã sáng tác.

Mụ Chu thở dài:

- Giọt sương dưới ánh mặt trời. Đẹp tuyệt!

Mụ Chu là một người to béo phục phịch, mụ là vú nuôi Quí Lan hồi còn nhỏ. Mụ đến giúp việc cho nhà họ Khương từ hồi còn trẻ và ở luôn mãi tới bây giờ để hầu hạ Quí Lan. Mụ tốt bụng, rất dễ vui nhưng cũng rất dễ buồn. Suốt đời mụ cúc cung tận tụy với Quí Lan, là người mà mụ chăm sóc từ hồi măng sữa.

Mụ Chu nói tiếp:

- Tôi sẽ trao bài thơ cho nàng. Thế này là không tốt, nhưng cậu ấy đẹp trai quá nên tôi không nỡ từ chối. Tôi đã thấy cậu ấy; lúc cô Ba chạy vào nói với tôi, tôi vội vàng lại gần chấn song để nhìn, chỉ tiếc cậu ấy là người ngoại quốc… nhưng nghĩ cho cùng, người ngoại quốc cũng là người như chúng ta, và cậu ấy đẹp quá! Như một ông hoàng! Tôi đã nói với Quí Lan như thế, cường tráng và uy nghi làm sao! Quí Lan sẽ biết cách hóa cậu ấy thành người Trung Quốc. Cậu ấy có yêu Quí Lan tha thiết không?

Trang gật đầu, rồi rút túi tiền ra:

- Đây là của cậu tôi tặng riêng thím.

Mụ Chu vờ phản đối:

- Cha mẹ ôi! Chị cất đi, ai lại lấy vậy kìa. Tôi hứa giúp là vì… - Nhưng mụ cầm lấy chiếc túi khi Trang dúi vào tay. - Tôi sẽ giao tận tay cô tôi và sẽ cho chị biết tin tức. Chị rảnh trở lại chơi nhé!

Trang lại theo các con đường nhỏ trở về nhà. Nàng vào thẳng phòng Đavít thấy chàng đang còn ngủ ngon lành. Nàng lần lượt xoa nhẹ vào hai má chàng để chàng tỉnh dần, vì sợ đánh thức mau quá thời linh hồn còn vẩn vơ đâu đấy, lạc đường không kịp nhập vào xác.

Nàng gọi khe khẽ, êm ái như tiếng ru:

- Thiếu chủ ơi! Dậy đi thôi. Thiếu chủ! Dậy đi nào!

Đavít mở mắt, ngồi dậy vươn vai ngáp dài. Trang cười hớn hở khi sự biểu hiện của linh hồn trong đôi mắt lóng lánh của chàng.

Chàng nhìn Trang, vẻ nhìn bất định như tâm thần còn phiêu diêu trong giấc mộng.

Trang dịu dàng:

- Xin Thiếu chủ mau lên, bà cho tôi lại gọi Thiếu chủ đây.

- Để làm gì vậy?

Chàng thòng chân khỏi giường; Trang cúi xuống mang đôi giày vải vào cho chàng. Đavít đã không để ý đến nàng gọi chàng bằng “Thiếu chủ” và cũng không nghĩ rằng, lẽ ra nàng không nên đến phòng chàng như thế này nữa.

Trang không đả động gì đến điều ấy mà chỉ nói:

- Lịch đã ở đây rồi.

- Vô lý.

- Nhưng mà đúng vậy.

Nàng đi lại một góc phòng rót nước ở chiếc bình đồng chạm vào một cái thau to, rồi lấy một chiếc khăn lông và miếng xà phòng thơm Tây phương.

- Dù sao, tôi cũng không thể vâng lời mẹ tôi được.

Trang quay lui. Hai tay chống nạnh, nàng ngắm nhìn Đavít và nhượng bộ sự xúi giục của con tim, nàng đã dịu dàng bảo chàng:

- Cậu viện cớ gì mà không vâng lời bà? Tốt hơn là cậu nên nói rằng ông bảo cậu đi đón đoàn thương hồ và sau đó cậu sẽ về ngay.

- Đoàn thương hồ! Thật không? Thân phụ tôi nói với Trang à?

- Bác gác cửa kể lại với thím Hoàng là ông chủ được tin từ lúc nửa đêm, và thím ấy mách lại với tôi như thế. Bây giờ tôi đi bảo người nhà mang thức ăn sáng đến đây cho cậu và sau đó tôi sẽ vào trình lại với bà.

Trang bước vào phòng bà Era, đầu cúi xuống, có vẻ tư lự buồn bã:

- Bẩm bà, chúng con vào không kip! Thím Hoàng vào thì cậu con đã ra đi từ lâu rồi. Con cho người đi kiếm, nhưng cậu con cũng không có mặt tại trà thất. Viên thủ môn của thị trấn cho biết cậu con đã qua đấy hơn một giờ rồi, cậu đi Tam Chung để đón đoàn thương hồ.

Bà Era thở dài:

- Rõ đến chán! Mai lại là ngày lễ Sa Ba. Còn Lịch?

- Bẩm, cô Lịch sắp đến.

Trang đợi một chốc rồi tiếp:

- Bẩm bà, bà có sai bảo con điều gì nữa không ạ?

- Không, con cứ lo công việc như thường ngày là được. Ta còn đợi Lịch.

- Con xin phép đi hái hoa tươi để trang trí khách đường vì mai là lễ Sa Ba. Sau đó, con sẽ ra cửa ngõ đợi, hễ cậu con về con mời vào đây ngay.

Trang thủng thẳng lui ra. Chân đi giày sa tanh, nàng băng qua sân lát đá nhẹ nhàng không một tiếng động.

Lúc thím Hoàng vào thì Lịch đang dùng bữa sáng.

- Tiểu thư hãy thong thả, đừng vội.

Thím Hoàng kéo chiếc ghế đẩu ngồi đợi gần cửa phòng.

Lịch đặt chiếc muỗng sành xuống, vẻ bối rối:

- Có gấp không thím Hai?

Thím Hoàng thủng thẳng đáp:

- Dạ không. Tiểu thư hãy thong thả dùng cháo cho xong đã. Rồi cùng tôi vào hầu phu nhân cũng vừa.

Lịch lại cầm chiếc muỗng lên, nhưng không còn thấy muốn ăn nữa.

Thím Hoàng ngắm nhìn nàng. Trừ hai khuyết điểm nhỏ: sống mũi hơi cong và vóc dáng hơi cao, thím nhận thấy nàng xinh đẹp lạ thường.

- Trông tiểu thư giống phu nhân chúng tôi hồi bà còn là cô dâu mới về đây.

Thím Hoàng hồi tưởng lại ngày hôm ấy thím đã khóc vì sợ không còn được hầu hạ Era, trang thanh niên anh tuấn với dáng điệu nửa Âu nửa Á ấy. Lúc bấy giờ thím là một cô gái trẻ, thím đã bớt lo khi thấy cô dâu cao hơn chồng đến nửa cái đầu. Không đời nào chàng có thể yêu một người cao thế ấy, thím tự nhủ. Và nửa cái đầu cao hơn ấy đã quyết định việc thím ở lại nhà này và lấy lão Hoàng, người gác cổng. Nhưng dù chỉ mới mười bảy tuổi, bà Era đã tỏ ra rất sành sỏi. Tối lại, bà trông chừng cho đến khi chồng vào phòng ngủ, không để ông la cà thơ thẩn một mình trong các hoa viện. Mãi đến tuổi tứ tuần, Đavít đã mười hai, bà mới thuận cho chồng ở căn nhà riêng. Lúc đó thím Hoàng đã béo phì và nơi thím không còn có vẻ gì khác hơn là một kẻ nô bộc. Thím đã có với lão Hoàng bốn người con nhưng thím đều cho về quê làm ruộng cả. Thím nhận thấy từ lâu rằng bà Era đã làm chủ thật sự trong nhà. Và bà Era cũng biết người nữ tì đã nhận thức được điều trên. Trong cuộc tranh đấu thầm kín kéo dài suốt bao nhiêu năm ấy, giữa hai người đàn bà không có một tiếng trao đổi về vấn đề này. Cho đến bây giờ, cuộc tranh đấu đã kết thúc, và bà Era đã thắng lợi.

Thế là vừa ngắm Lịch, thím Hoàng vừa hồi tưởng lại thời xưa, rồi thẫn thờ tiếp:

- Nhưng tiểu thư nhu mì hơn. Đôi môi ít rắn rỏi và tóc thưa hơn.

- Chao ôi! Tóc tôi… - Lịch lộ vẻ buồn nản. - Không khi nào tôi có thể buộc chặt được cả.

Thím Hoàng nhìn dải sa tanh đỏ thắt trên tóc Lịch một hồi lâu. Thím nói:

- Cái băng đáng lý phải bằng vàng kia. Tôi nhớ có một cái rất xứng hợp với màu áo của cô.

Rồi thím tìm trong chiếc tráp mà bà Era đã cho đưa đến và lấy ra một cái băng vàng.

- Để tiểu thư dùng cháo xong…

- Không, tôi không thể ăn thêm gì nữa.

- Thế thì để tôi mang cái này cho tiểu thư.

Thím Hoàng với đôi tay khéo léo đính cái băng vàng lên mái tóc Lịch.

- Còn đây là đồ nữ trang. - Thím Hoàng vừa tiếp, vừa rút trong tráp ra một chiếc kiềng và đôi hoa tai vàng.

Lịch ngoan ngoãn để thím mang nữ trang cho nàng.

- Bây giờ xin rước tiểu thư cùng tôi lại chào bà chủ. - Thím Hoàng cầm tay Lịch và nhận thấy bàn tay đẫy đà, rắn rỏi, thím ngạc nhiên nhấc lên ngắm đi ngắm lại. - Ồ, giống như tay đàn ông!

Lịch bẽn lẽn:

- Thím nghĩ, tôi đã phải làm lụng…

- Lòng bàn tay mát, da dẻ còn mịn, ngón tay búp măng. Mỗi buổi tối, tôi sẽ thoa dầu cho. Vài tuần sau, tiểu thư sẽ có đôi bàn tay xinh xắn.

Nhẹ nhàng, thím Hoàng dắt Lịch đi. Bà Era đang ngồi thêu, ngửng đầu lên nói với Lịch:

- Vào đây con. Con ngồi bên dì đây.

Lịch rón rén ngồi xuống. Bà Era chăm chú nhìn nàng:

- Con đẹp lắm, con có biết không?

- Thím Hoàng trang điểm cho con đấy. Không có thứ này thì…

Và nàng lấy ngón tay sờ các món nữ trang bằng vàng.

Thím Hoàng đỡ lời:

- Bẩm bà, con thấy tiểu thư ăn mặc đơn sơ quá. Tiểu thư có thể mang nhiều vàng, tiểu thư cao lớn thật.

Bà Era vội nói:

- Còn kém Đavít.

Lịch e lệ:

- Anh Đavít cao lớn lắm.

- Chốc nữa anh ấy sẽ đến đây để chào mừng con.

Bà Era lại cúi xuống tiếp tục thêu và thím Hoàng đi sang phòng bên cạnh.

Còn lại một mình Lịch với bà Era, hai tay nàng không làm việc gì nên cảm thấy băn khoăn khó chịu lạ. Nàng rất yêu mến người bạn cũ của mẹ nàng. Không một ai gần gũi nàng hơn, về nhiều phương diện. Bà Era mong ước nàng sẽ là con dâu của bà, Lịch rõ điều này lắm, nhưng nàng phân vân không biết người ta muốn nàng làm gì đây, nên nàng vẫn đợi.

Như đoán được tư tưởng của Lịch, bà Era ngẩng đầu lên. Gian phòng lặng lẽ. Ngoài tiếng chân nhè nhẹ của thím Hoàng quanh quẩn sắp dọn đồ đạc ở gian phòng ngủ bên cạnh thì không còn một tiếng động nào khác trong tòa nhà thênh thang.

- Lịch, con rõ vì sao con lại ở đây chứ?

- Thưa dì, con chưa được rõ lắm.

- Con biết được lời hứa giữa mẹ con với dì ngày trước, lúc con còn nằm ngửa trong nôi kia.

Lịch cúi nhìn xuống không đáp, hai bàn tay xoắn chặt lấy nhau.

- Dì ước mong con kết hôn với Đavít.

Bà Era cảm động đến rơm rớm hai hàng lệ. Bà vừa lật cánh tay áo phồng lót lụa lên lau nước mắt, vừa ngắm khuôn mặt dần ửng hồng của Lịch.

Thiếu nữ quay nhìn bà Era, vẻ chân thành, khổ sở.

- Vì sao dì lại không nói rõ ràng với con ý muốn của dì đã chứ? Điều ước mong duy nhất của dì… nhưng không phải của riêng dì.

Bà xích ghế lại ngồi gần Lịch và tiếp:

- Con biết và chắc không ai biết rõ bằng con, điều xảy đến cho dân tộc ta ở đây, trong thị trấn Trung Quốc này… Có mấy người giữ được lòng trung thành đâu. Lịch, con có thấy không, hỏng mất con ạ!

- Người Trung Hoa đối với chúng ta rất tốt.

Bà Era khoát tay bất bình:

- Ông Era cũng nói thế đấy! Tốt bụng… dì chán lắm! Người Trung Hoa không tàn sát chúng ta, nhưng đó có phải là một lý do để cho rằng họ không đang tìm cách phá hoại chúng ta không? Lịch ạ, lúc dì bằng tuổi con, ngôi giáo đường chật ních tín đồ mỗi chủ nhật. Bây giờ, con thấy, còn mấy người đâu?

Lịch phân vân:

- Nhưng đó không phải lỗi tại người Trung Quốc.

- Tại họ, chính tại họ. Họ tốt ngoài miệng… Lúc nào họ cũng tươi cười, mời mọc chúng ta tham dự hội hè của họ, giao thiệp với chúng ta trong công việc làm ăn. Họ không ngớt nói rằng không có sự khác biệt nào giữa hai dân tộc Trung Hoa và Do Thái. Nhưng chúng ta mới là con của Đức Chúa Trời chân thật và họ là người ngoại giáo. Họ thờ các hình tượng bằng đất sét. Có khi nào con vào trong một đền thờ Trung Quốc chưa?

- Thưa dì có, lúc chúng con còn nhỏ, Arông và con, có vào đấy... chỉ để xem cho biết mà thôi.

- Như vậy con ắt hiểu rồi.

Lịch vẫn phân vân:

- Họ đối xử tử tế mà chúng ta nỡ ghét họ sao?

- Không phải tử tế vì tốt bụng đâu. Không, không, dì cam đoan với con, thủ đoạn đấy! Họ thắng ta bằng thủ đoạn. Họ xúi giục phụ nữ quyến rũ đàn ông Do Thái. Họ tự hào rất khoan dung về tôn giáo… Họ còn nói họ sẵn sàng thờ phụng Đức Dêhôva của chúng ta chung với các pho tượng mà họ sùng bái!

Sắc mặt bà Era hồng hào, trang nghiêm, và hăng hái trong lúc bà giải thích cho thiếu nữ nghe.

Lịch chăm chú nghe, hai tay vẫn chấp lại trên gối. Đợi bà ngừng lại, nàng mới hỏi:

- Thưa dì, dì muốn con phải làm gì?

- Dì muốn rằng con… rằng con phải thuyết phục Đavít. Con và Đavít phối hiệp, Lịch! Con nghĩ coi, Đavít sẽ chịu ảnh hưởng của con đến mực nào.

Lịch thành thật đáp:

- Nhưng Đavít còn lạ gì con! Anh ấy sẽ ngạc nhiên nếu con tỏ ra khác với lâu nay.

Bà Era năn nỉ:

- Bây giờ chúng con đã lớn thì phải khác chứ.

- Lâu nay, lúc nào, chúng con cũng coi nhau như anh với em vậy.

Bà Era đẩy bức thêu và đứng dậy. Bà đi tới, đi lui trong phòng.

- Chính là điều mà dì muốn các con quên đi. Điều ấy chỉ thích hợp lúc các con còn ấu thơ kia, Lịch ạ!

Thiếu nữ cũng đứng dậy:

- Thưa dì vâng ạ!

Bà Era hỏi, giọng cụt ngủn:

- Con hiểu dì muốn nói gì rồi chứ?

- Con hiểu, nhưng con không biết hành động cách nào.

Và đôi mắt xinh đẹp của Lịch rưng rưng ngấn lệ.

Bà Era vẫn với giọng cụt ngủn:

- Hãy chinh phục lòng nó!

Lịch, giọng cương quyết:

- Không thể được. Anh ấy sẽ chế nhạo con và chính con cũng sẽ buồn cười cho con quá. Con sẽ không còn là… là con nữa.

Nàng với tay nắm lấy tay bà Era trong hai tay mình và tiếp:

- Con phải vẫn là con như lâu nay, phải không dì? Con cũng hiểu Đavít lắm. - Nàng cảm thấy tim mình ấm áp khi nghĩ đến Đavít và nàng trở nên bạo dạn đối với mẹ chàng, người đàn bà mà nàng vừa mến yêu vừa kiêng nể. - Có lẽ con còn hiểu anh ấy hơn dì nữa kia. Dì tha lỗi cho con! Dì hẳn rõ chúng con xuýt xoát tuổi nhau. Và con cảm thấy nơi anh ấy một cái gì… một cái gì cao cả - và tốt lành. Nếu có thể, hướng trực tiếp về đặc tính thiên nhiên ấy của Đavít – đặc tính đồng nhất giữa anh ấy và con…

Bà Era chăm chú nghe, tim hồi hộp, mắt không rời thiếu nữ vừa nói vừa nhìn bà tha thiết. Bà nghĩ thầm: “Ừ, rất có hy vọng”.

Nhưng bà chưa kịp thốt nên lời, bỗng có tiếng ồn ào inh ỏi nổi dậy từ phía sân ngoài, tiếng người, tiếng lạc đà, tiếng chiêng lẫn lộn. Thím Hoàng lật đật chạy đến:

- Bẩm bà, đích thị đoàn thương hồ rồi!

Rồi thím chạy ra cửa, và chạm trán với chồng thím. Lão Hoàng ráng gân cổ kêu om sòm:

- Đoàn thương hồ!… Đoàn thương hồ! Bẩm bà, ông chủ bảo con vào mời bà… Xin bà ra mau cho… Đoàn thương hồ đã về!

Bà Era rút tay ra khỏi tay Lịch:

- Ra xem con. Thà về hôm nay còn tốt hơn là ngày mai, ngày lễ Sa Ba.

Nhưng Lịch vẫn đứng yên:

- Dì cho phép con đợi ở đây, để suy nghĩ cho chín... những lời dì dạy.

- Tùy ý con. Hãy suy nghĩ đi. Nhưng lúc nào muốn xem thì con cứ lại.

Lịch thở dài:

- Vâng ạ!

Khi còn lại một mình trong phòng, nàng ngồi xuống ghế, gục đầu vào hai cánh tay khoanh lại trên bàn. Một lát sau, nàng đứng dậy, đi lại một góc phòng, quay mặt vào tường, nàng đọc kinh cầu nguyện giọng trầm trầm, thỉnh thoảng lại khóc nức lên.

Mỗi năm, hễ đoàn thương hồ về là cả thị trấn lại nô nức khác thường. Người ta đã loan tin từ miệng người này sang người khác nên khi đàn lạc đà dài thườn thượt kéo ngang qua các đường phố, thiên hạ chen nhau ra xem chật cả hai bên lề đường, Cao Liên, người chung vốn tin cẩn của ông Era chễm chệ trên lưng một con lạc đà sắc trắng đi dẫn đầu. Tiếp đến là đoàn người hộ vệ võ trang bằng gươm giáo và súng trường Tây phương. Sau cùng là đàn lạc đà mang hàng hóa. Cả đoàn người cũng như vật đều cảm thấy mệt nhừ sau cuộc hành trình dài đằng đẵng để đến tận Tây phương, băng qua Tân Cương rồi lại trèo đèo vượt núi để trở về. Nhưng vào thị trấn, đoàn người đã cố gắng để chỉnh đốn lại hành trang, và đàn lạc đà cũng ngẩng đầu lên, xăm xăm rảo bước ra dáng oai vệ lắm.

Ông Era ngồi xe la theo sau. Từ mấy ngày trước, ông đã rải người đợi sẵn từng quãng dọc theo đường về của đoàn thương hồ để lấy tin. Sáng tinh sương hôm ấy, một người đã hồng hộc chạy về cho ông hay đoàn thương hồ không còn bao xa và cứ tốc độ ấy thì một giờ nữa sẽ về đến cửa thành. Người đem tin sợ tính sai nên khi vào đến ngõ vội dặn lão Hoàng thuê xe chực sẵn, thành thử ông Era có thể lên đường ngay. Tại một làng kia, cách thị trấn khoảng mười dặm, ông Era gặp đoàn thương hồ và ôm chầm lấy Cao Liên mừng rỡ. Sau khi ăn vội vàng qua bữa, cả hai lại lên đường. Ông Era đi đoạn hậu trong chiếc xe la, qua các đường phố chật ních người đứng xem. Ông cho vén các diềm xe bằng sa tanh xanh lên và tươi cười vẫy tay để đáp lại sự chào hỏi của những người quen biết.

Đến trước cửa một trà đình ở con đường chính của thị trấn, chợt thấy ông Khương Sơn đang đứng phì phèo cái điếu bọc da, ông Era bảo dừng xe lại. Theo phép lịch sự, ông Era xuống xe đến chào hỏi bạn.

Ông Khương Sơn nói:

- Bác Cao Liên và đoàn thương hồ đã về đến nơi bình an vô sự, tôi có lời mừng đại huynh.

- Chuyến này có nhiều hàng quí giá lắm, lúc nào có rảnh xin đại huynh quá bước đến xem. Đại huynh tha hồ mà chọn, tôi dành ưu tiên cho đại huynh, còn lại bao nhiêu mới nhường cho bạn hàng.

- Đa tạ đại huynh! Đa tạ đại huynh!

Lối xã giao của ông Khương Sơn đã làm đôi bạn thêm thân mật. Ông ta là một người to béo phì nộm. Ông bận áo gấm dài, ngoài khoác một cái áo cụt bằng nhung đen. Cái bụng phệ của ông đã làm cho vạt áo trước ngắn hơn vạt sau.

Ông Era nói:

- Hay là ngày mai xin mời đại huynh đến tệ xá dùng chén rượu nhạt cho vui, rồi sau đó chúng ta tha hồ xem hàng hóa. À, không! Xin lỗi đại huynh. Tôi quên. Mai lại là ngày lễ Sa Ba của chúng tôi. Xin đại huynh cho ngày khác vậy.

- Xin vâng, xin vâng!

Ông Khương Sơn vừa đáp vừa nghiêng đầu chào và đẩy nhẹ bạn lên xe. Đoàn thương hồ lại tiếp tục đi.

Lúc sắp đến nơi, ông Era thấy Đavít từ trên thành gạch xây quanh nhà nhảy nhẹ xuống chạy theo bên cạnh con lạc đà đi đầu và vẫy cả hai tay để chào mừng Cao Liên. Rồi chàng vội chạy trước vào cửa ngõ.

Mấy gã đánh xe cả cười nói:

- Thế nào cậu Thiếu chủ cũng làm náo động cả nhà lên cho mà xem.

Nghe vậy, ông Era cười một cách hãnh diện. Đến cửa ngõ, chiếc xe la dừng lại. Ông Era mở ví thưởng thêm tiền cho mấy gã đánh xe. Họ vui vẻ cảm ơn và cho xe lui về.

Các con lạc đà lần lượt quỳ xuống. Chúng thè lưỡi thở. Người ta liền bưng hàng xuống và đưa vào nhà. Lạc đà được dẫn về chuồng, các cửa khóa lại. Nhiều kẻ qua đường tò mò đến nỗi nếu không có lão Hoàng ngăn lại thời họ đã xông vào sân để xem cho tận mắt số hàng hóa ngoại quốc.

Lão Hoàng không ngớt tiếng la lớn:

- Có lui ra không? Các người có phải là kẻ cướp không mà xông xáo như thế?

Ông Era dẫn Cao Liên đến khách đường. Đavít níu lấy cánh tay Cao Liên nũng nịu:

- Bác kể cho cháu nghe tất cả nhé!

Hai ông Era và Cao Liên không phải là họ hàng thân thuộc. Họ chỉ là đôi bạn thuở ấu thơ. Cao Liên gốc Do Thái nhưng mẹ là người Trung Hoa, nhờ vậy mà rất được việc cho ông Era trong công chuyện giao dịch thương mại. Đối với người Do Thái, Cao Liên là Do Thái mà đối với người Trung Hoa, ông ta là Trung Hoa.

Lúc Cao Liên băng qua các sân lát đá nắng chói, gương mặt dài với đôi lưỡng quyền hẹp của ông trông có dáng mệt mỏi, nhưng trên môi đang nở một nụ cười khả ái và đôi mắt đen có vẻ hiền lành. Ông ta ăn nói chững chạc, giọng khoan thai và trầm trầm.

Bà Era đợi ở cửa khách đường, Cao Liên nghiêng đầu chào. Bà nói:

- Bác về được bình an, xin có lời mừng bác!

- Xin cám ơn bà chị, đây cũng là nhờ ơn trên phù hộ.

Bà Era thụt lùi để ông Cao Liên bước vào. Ông ta kính cẩn cúi mình khi đi ngang qua trước mặt bà Era nhưng bà chỉ khẽ gật đầu đáp lại để chứng tỏ rằng Cao Liên không hoàn toàn ngang hàng với bà. Cao Liên không lạ gì kiểu cách của bà nên không tỏ vẻ hờn dỗi. Ông ta hỏi:

- Thưa bà chị, bây giờ chúng tôi phải xếp hàng hóa vào đâu đây?

Khi có mặt bà Era, lúc nào Cao Liên cũng hỏi ý kiến bà, nhưng đối với ông ta người đàn ông vẫn là chủ nhân thật sự của gia đình. Ông Era rất thông cảm với bạn về điểm này.

Bà Era đáp:

- Tôi ngồi xuống chiếc ghế này, bác mở từng kiện hàng cho tôi xem.

Bà ngồi xuống và ông Era cũng ngồi xuống chiếc ghế đối diện bà, thím Hoàng pha trà trong lúc một người đầy tớ trai hầu bánh ngọt trên một chiếc khay bằng sứ. Tôi tớ trong nhà lặng lẽ xâm nhập khách đường. Họ xếp hàng dọc theo tường để có thể nhìn tận mắt số hàng hóa sắp được trưng ra. Đavít rút dây kiện thứ nhất, lật đật muốn mở ra ngay.

Cao Liên vội nói:

- Thiếu chủ cẩn thận. Trong đó có một món quí giá lắm.

Ông liền chạy đến giúp Đavít, và nút dây mà chàng đã hì hục mãi không mở được hình như tự nó tung ra dưới bàn tay nhanh nhẹn của ông. Tháo lớp vải bọc ngoài, ông lấy ra một chiếc hộp bằng kim khí, giở nắp và rút khỏi lớp giấy độn bên trong một vật nặng vàng chói.

Đavít reo lên:

- Cái đồng hồ! Nhưng đã có ai từng thấy một cái đồng hồ như thế này bao giờ chưa?

Cao Liên khoe:

- Có phải là vật thường đâu.

Ông Era tần ngần ngắm nghía cá