← Quay lại trang sách

- 8 -

Đavít thức giấc. Chàng đang nằm trên giường, trong phòng tối om, ngoại trừ cái ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu lạc leo lét chiếu qua bức màn mỏng. Đêm tối? Nhưng sao lại có mặt trời…

- Lịch! - Chàng thều thào.

Trang nghe thấy tiếng thều thào của chàng. Nàng ngồi trên một cái ghế đẩu ba chân, để khỏi phải ngủ gật và để canh chừng hơi thở thoi thóp của chàng. Nàng rón rén bước đến bên giường, vén màn nhìn chàng. Chàng ngước mắt nhìn nàng.

- Lịch… - chàng khẽ gọi lần nữa.

- Lịch ngủ rồi. - Trang đáp.

Trang dùng chiếc khăn tay bằng lụa mỏng của nàng để lau má lau môi cho Đavít.

- Tôi thấy… trong người yếu lắm.

- Cậu cần ăn một chút ít mới được, nằm yên, đừng động đậy nha!

Nàng buông màn xuống, tiến đến cái lò than đặt ở góc phòng, mở vung một chiếc nồi đất, thò thìa múc một chén cháo gạo nấu với đường đỏ. Nàng làm rất nhẹ nhàng, bình tĩnh, không một tiếng động. Nàng trở lại bên giường âu yếm nói:

- Đavít để Trang đút cháo cho.

Trang sợ Đavít sẽ hỏi chuyện lôi thôi, chàng muốn biết tại sao lại ra cớ sự này. Nhưng Đavít không hỏi gì cả. Chàng nuốt chầm chậm, từng ngụm nhỏ, những muỗng cháo gạo nấu với đường. Đường đỏ có tác dụng bồi bổ cho máu huyết những người bị thương. Vì mất nhiều máu nên chàng cảm thấy yếu ớt. Đầu chàng nhức như búa bổ. Chàng nhớ rõ tại sao Lịch lại vung gươm chém chàng. Chàng sẽ nhớ mãi suốt đời. Dẫu cô ta có nói gì làm gì đi nữa cũng không có thể xóa bỏ được điều ấy trong tâm trí chàng. Vậy mà cô ta vẫn ngủ yên!

- Nhức đầu quá! - Đavít nói.

- Trang sẽ cho cậu hút một hơi a phiến.

Nàng đến bên bàn, lấy cái tẩu, hơ thuốc phiện cho đặc rồi quay trở lại kề tẩu vào môi chàng.

- Hút đi cậu.

Đavít hút nhiều hơi. Khói thuốc thâm nhập vào tận óc, cơn đau dịu dần. Khi đã tỉnh táo, chàng nhìn thấy khuôn mặt của Trang như có một vầng ánh sáng bao quanh.

- Tốt quá!... tốt quá!... tốt quá! - Đavít lẩm bẩm mãi không thôi.

Trang đặt tay lên miệng chàng để chàng đừng nói nữa. Nàng nói rõ từng tiếng một.

- Trang yêu cậu. Trang không thể nào hại cậu được. Trang yêu cậu, cậu có nghe Trang nói gì không?

Mơ màng, thích thú, chàng mỉm cười mà không thể trả lời. Chàng đắm chìm trong sự dịu dàng êm ái, phổi hít đầy hương thơm, tai nghe lời Trang thánh thót như một nhạc điệu, chập chờn nhìn thấy khuôn mặt kiều diễm của nàng với bao âu yếm, yêu đương; rồi hai mắt chàng ríu ríu dần và nhắm lại.

Khi biết chắc Đavít đã ngủ, Trang bắt mạch ở cổ tay chàng. Mạch nhảy mạnh hơn. Trang có thể để chàng nằm một mình mà không sợ. Nàng cần vắng mặt trong chốc lát để tin cho bà Era biết Đavít đã tỉnh dậy, đã ăn được một chút cháo và đã ngủ trở lại. Nàng đi ngang qua căn phòng kế cận, nơi đây, lão Hoàng ngồi bên một cái bàn, đầu gối lên hai tay, ngủ ngon lành. Ông Era đã bảo lão Hoàng tỉnh thức ở đây để phòng khi Trang cần gọi, nhưng vì nhân hậu, nàng để yên cho lão ta ngủ.

Ban đêm, ngôi nhà có vẻ huyền ảo, im lặng chập chờn trong bóng tối dịu dàng. Trang tiếp tục đi từ sân này qua sân khác, lẻ loi một mình. Trên mỗi cửa chính đều có treo tòng teng một cây đèn lồng để soi đường. Trang đi trong cái ánh sáng yếu ớt ấy. Khi đến sân nhà của chính nàng, con chó vểnh tai nghe, hít hít để đánh hơi, há miệng ngáp, rồi lúp xúp chạy theo.

Trang tới căn nhà của bà Era. Trong phòng ngủ còn ánh đèn. Trang bước vào thấy bà Era ngồi trên giường, đầu tựa vào gối. Bà muốn tỉnh thức nhưng sự mệt nhọc đã làm cho bà chợp mắt lúc nào không hay. Đầu bà nghẻo về một bên, miệng hé mở, ngáy khò khò.

Trang đứng bên khe hở của bức màn, không dám động mạnh, sợ bà giật mình.

- Bà chủ… Bà chủ!

Thoạt tiên, nàng khẽ gọi nho nhỏ, rồi sau đó gọi to dần để từ từ đưa hồn phiêu lưu và lo sợ của bà về nhập với thể xác.

Bà Era mở mắt ra. Bà giật mình đánh thót, kêu lên một tiếng sợ hãi, ngồi thẳng dậy, mắt ngó Trang trừng trừng. Bà chưa hoàn hồn; Trang cầm lấy lấy bà khẽ vỗ vỗ.

- Con mang tin mừng đến cho bà, nàng khẽ nói. Thiếu chủ con đã tỉnh; con đã đút cháo cho cậu và cậu đã ngủ trở lại.

Bây giờ bà Era mới hoàn hồn.

- Cậu có hỏi gì bà không con?

Để tránh khỏi phải trả lời rằng Đavít không có hỏi han gì đến bà. Trang chỉ đáp:

- Đầu cậu nhức nhối nên tư tưởng lộn xộn. Đút cháo cho cậu xong, con cho cậu hút vài hơi thuốc phiện để cậu bớt đau. Sau đó cậu mới ngủ yên.

- Cậu không nói gì cả sao? - Bà Era hỏi.

Bà rút tay ra khỏi tay Trang.

- Cậu con hỏi cô Lịch.

- Con trả lời sao?

- Con nói rằng cô Lịch ngủ rồi.

Bà Era tựa lưng vào đống gối, thở dài.

- Con phải trở lại cùng thiếu chủ. - Trang nói.

- Khi cậu tỉnh dậy, đừng có cho cậu biết cô Lịch đã chết, nghe con!

- Vâng, đó là điều dĩ nhiên!

Trang quay trở về phòng Đavít. Khi đi ngang qua phòng nàng, Trang dừng lại để nhốt con chó nhỏ, sợ nó đi theo làm rộn không cho Đavít ngủ.

Đavít vẫn ngủ khi Trang trở lại bên chàng. Nàng cảm thấy mệt lả người. Khi chàng ăn được chút cháo, nàng ít lo cho tính mệnh của chàng hơn. Nàng khẽ đặt mình nằm xuống chân giường, quấn chăn lại, nghĩ cách làm sao để giấu Đavít, đừng cho chàng biết số phận của Lịch ít nhất trong một vài ngày. Lương tâm chàng hết sức tinh tế, có thể chàng sẽ hối hận vì những việc đã xảy ra. Tuy nhiên người ta không thể trách cứ ai khác ngoài cô Lịch và linh hồn yêu chúa cuồng nhiệt của cô.

“Nhưng làm thế nào để chàng chấp nhận điều đó?” Nàng lo âu tự hỏi. Dù sao cũng phải cố gắng thuyết phục chàng cho được, nếu không cái chết của Lịch sẽ còn đeo đẳng ám ảnh Đavít mãi suốt đời. Cũng như mọi người Do Thái khác, chàng sẽ bám lấy sự đau khổ của chính mình suốt đời.

“Phải tìm cách cho chàng giải trí, vui đùa, để chàng được khuẩy khỏa, sung sướng” Trang thầm nghĩ. Và trong ý nghĩ đó, nàng đã ngủ thiếp đi.

Nhưng làm sao để giấu Đavít cái chết của Lịch? Buổi sáng thức dậy, chàng không hỏi gì, có vẻ mơ mộng. Trang thấy Đavít cựa mình khó khăn, bèn đến bên săn sóc giúp đỡ chàng.

Ông Era đến thăm Đavít vào lúc rạng đông, mặt chưa rửa, râu chưa cạo, áo quần xốc xếch. Bà Era đã đến liền sau đó. Bà bận một cái áo kép lông, dài và rộng. Rồi đến lượt lão Hoàng và vợ của lão. Lũ gia nô thì lấp ló ngoài cửa để ngóng tin về sức khỏe của thiếu chủ để thông báo ra ngoài.

Ông lang già trở lại. Ông gỡ cái băng lụa quấn quanh đầu Đavít. Ông cúi nhìn thật kĩ đường cao đen quanh bờ vết thương. Ông cho biết không có gì lo ngại nữa, và truyền làm cháo thập cẩm cho Đavít ăn để bổ huyết. Ông nói:

- Cho ăn huyết heo là tốt hơn cả.

Ông Era liếc nhìn vợ:

- Thưa lão huynh, chúng tôi không ăn thịt heo. - Ông dịu dàng nói. Nhưng vì tính mạng của con tôi thì…

- Cậu ấy còn trẻ và khỏe mạnh, thôi thì dùng huyết gà cũng được - lão thầy Tầu nói. Nếu là người già cả thì tôi khuyên nên uống sữa đàn bà kia đấy.

Người ta đã cắt tiết gà, nấu với gan, gạo đỏ, rễ rau ba lăng luộc chín và trứng gà. Món cháo thập cẩm này giúp Đavít thu hồi số máu đã mất. Mẹ chàng, ngày ngày đến ngồi bên giường bệnh của chàng. Cha chàng thì lo lắng, hết đi ra lại đi vào. Nhưng Đavít không hỏi han gì đến Lịch cả.

Ngày hôm sau, và hôm sau nữa, trong khi Đavít đang phục hồi dần dần sức khỏe thì những tiếng động trong nhà vẳng đến tai chàng. Những bước chân nhẹ nhàng qua lại không xa, tiếng khóc thét lên của vị giáo trưởng, và vào lúc chiều tối có tiếng búa đóng đinh vang dội.

Trang đang lom khom nấu nước trên lò than hồng. Ông bà Era đang ngồi bên giường bệnh của Đavít. Chàng nói:

- Mẹ!

Bà Era đứng dậy, rời khỏi cái ghế dựa bước tới bên con:

- Gì thế con?

Giọng bà buồn buồn và có vẻ từ tốn, đến nỗi trông bà khác hẳn trước kia.

- Lịch đâu rồi mẹ? - Chàng hỏi chậm rãi và rõ ràng.

Bà Era liếc nhìn chồng đang ngồi bên bàn sau lưng bà. Ông nói:

- Nên nói cho con rõ thì hơn, Naomy à!

- Mẹ đã trách phạt nàng sao? Đừng làm thế mẹ ạ!

- Chính Thiên Chúa đã phạt nó con ạ! - Bà Era nói.

Và, đột ngột bà bật khóc. Người đàn bà cao lớn khỏe mạnh này với một lòng nhiệt thành, suốt đời chỉ biết hành động theo ý mình, đang tuôn trào những dòng nước mắt tuyệt vọng. Bà nghẹn ngào không nói được tiếng nào, hấp tấp chạy ra khỏi phòng.

Ông Era chạy theo vợ. Chỉ còn lại một mình Trang, nàng bình tĩnh, và vắn tắt kể cho Đavít nghe sự thật. Nàng ngồi bên chàng, nói:

- Trong lúc Trang đang dùng thắt lưng lụa của Trang để băng đầu cho cậu thì cô Lịch chạy snag phòng bên kia một mình. Cô ta lượm cây gươm, cứa vào cổ…Cô đã chết.

Đavít nhắm mắt lại. Chính cái thanh gươm mà chàng đã dùng để cắt lớp vải dày bên ngoài các kiện hàng của đoàn thương hồ, bây giờ chàng như đang thấy nó xuyên sâu vào người Lịch. Đột nhiên chàng buồn nôn - Trang la lên kinh hoảng. Nàng vội quơ lấy tấm chăn hứng dưới miệng Đavít.

- Trời ơi! Cô ta đã chết rồi mà vẫn còn hại cậu!

Đavít để rơi đầu xuống gối.

- Im đi! - Chàng hổn hển… - Ngươi sẽ không bao giờ hiểu được.

Câu nói này chẳng khác nào những mũi nhọn đâm vào con tim tế nhị của Trang. Nàng không nói gì; nàng không thể nói được. Nàng lẳng lặng cầm tấm chăn mang đi ra ngoài cho lũ nô tì giặt giũ. Khi quay trở lại, nàng dừng bước sau cánh cửa, thấm nước mắt bằng cánh tay áo phồng.

Trang đi sang phòng bên cạnh, nơi đây những người thợ mộc đã đóng xong một cái quan tài. Quan tài rất chắc chắn, bằng gỗ long não, tấm ván thiên đang dựng bên tường. Mấy con ở gái đã liệm xác Lịch vào quan tài. Trang cũng như thím hoàng không mó tay vào việc gì hết. Bọn tớ gái làm tất cả. Một đứa đang đứng sửa lại nếp áo của Lịch, rồi đặt vào tay xác chết một cây nến để soi đường về cõi âm.

- Em che cổ cho cô ta. Một con ở khẽ nói.

Nó lấy một cái khăn lụa phủ lên vết thương ở cổ của Lịch.

Trang bước đến nhìn khuôn mặt của Lịch bây giờ đã hóa ra nhợt nhạt. Khuôn mặt ấy dường như thanh mảnh và hư ảo, có vẻ như được tạo nên bằng một chất liệu trắng và sáng. Đôi mắt sâu, hai hàng mi đen dày in bóng lên má. Làn tóc nâu tuyệt đẹp phủ xuống vầng trán nhợt nhạt, đôi môi bất động và cứng đờ.

Có tiếng chân vấp vào ngưỡng cửa, Trang quay lại và thấy vị giáo trưởng tay cầm gậy, tay quờ quạng về phía trước để tìm lối vào.

- Có ai giúp lão đến bên con lão không?- Cụ hỏi, giọng trầm trầm. (Trang tiến đến cầm lấy tay cụ và đưa cụ tới bên quan tài. Nàng chờ đợi trong lúc giáo trưởng có vẻ như đang ngắm nhìn mặt Lịch). - Tôi nhìn thấy con tôi, cụ nói tiếp. Tôi thấy nó với mẹ nó. Mẹ nó đã kéo nó ra khỏi địa ngục. Bà dẫn nó đến trước đấng Dêhôva và khẩn cầu van xin cho đến khi người nhận lời.

Vị giáo trưởng già tiếp tục lẩm bẩm:

- Mẹ nó khóc sướt mướt, bà đám ngực cầu xin và đấng Dêhôva sẽ nhận lời. Lịch, con ơi! Chúa thử thách lòng người, người hiểu tất cả mọi sai lầm của tư tưởng. Nếu con cầu đến người, người sẽ không bỏ con.

Lời của cụ già mù lòa này hết sức thành khẩn, thống thiết, đến nỗi con ở gái sợ hãi chuồn mất. Còn lại một mình Trang. Chính nàng, nàng cũng phát sợ, nhưng nán đứng lại vì xót thương cho người cha đau khổ. Nàng ngọt ngào nói:

- Xin mời lão sư đi nghỉ!

Nàng cầm lấy ống tay áo của giáo trưởng và khẽ kéo về phía mình.

Nghe tiếng nói của Trang, ông cụ quay phắt lại. Đôi mắt mù lòa mở lớn, chòm râu bạc và dài run rẩy:

- Đàn bà kia, người là ai? - Ông thét lớn.

Trang sợ đến chết cứng. Ông cụ già này đã chế ngự nàng, làm nàng kinh khiếp.

Lời nói của ông lão lại vang lên trùm lấy nàng:

- Thượng Đế đã tước đoạt lý trí của người đàn bà này. Người không cho nó sự hiểu biết rộng rãi. Nó đã đuổi mồi bắt bóng. Nó ở nơi những kẻ chết.

Giáo trưởng đưa hay tay ra như vồ lấy nàng. Trang nhìn thấy đôi tay gầy gò ấy có một sức mạnh kinh khủng đang tiến dần về phía nàng, nàng hoảng hồn vụt chạy như bị ma đuổi.

Giáo trưởng nghe tiếng chân chạy mau, xa dần. Cụ mỉm cười ranh mãnh.

- Hãy dang ra xa khỏi ta, những kẻ bất công. - Cụ lẩm bẩm một mình.

Rồi cụ ngẩng đầu nhìn quanh một cách đắc thắng. Cụ thở dài, mò mẫm lối đi một cách khó khăn. Cụ đưa tay mò quanh, không ngờ đúng vào cái hòm. Cụ sờ soạng từ đầu đến cuối rồi thò tay vào phía trong áo quan. Cụ rờ rẫm xác con cụ, từ hai chân lên đến gối và hai bàn tay giá lạnh. Cụ sờ nhầm cây nến, liền gỡ ra vứt xuống đất.

Đoạn, rất chậm rãi, với một vẻ run sợ hãi hùng, cụ đau đớn sờ vào vết thương quanh cổ Lịch và mò mẫm khuôn mặt thanh mảnh nhợt nhạt của xác chết. Người ta đã nói rằng Lịch đã dùng gươm tự sát. Chính ông Era đã nói với cụ như thế, nhưng cụ không thể nào tin được. Bây giờ, cụ đã tin và không chịu đựng được nỗi khổ đau, cụ ngã sấp xuống nền nhà bất tỉnh.

Một lát sau, khi người ta mang vôi đến để đổ đầy vào hòm và những người thợ mộc đến đóng nắp áo quan, thì họ nhìn thấy cụ đang nằm bất tỉnh bên quan tài. Họ đỡ cụ dậy, đặt nằm trên giường, rồi đi thông báo cho bà Era.

- Phải cho gọi thằng Arông đến gấp. - Bà bảo.

Nhưng không ai tìm thấy Arông đâu hết. Mụ Rasen không thấy gã trở về từ đêm hôm trước. Vậy, chỉ có một việc là săn sóc giáo trưởng, cứu cụ tỉnh lại. Bà Era ra lệnh mang cụ đến căn phòng mà trước đây cụ đã ở.

Chính bà Era đã nhìn thấy điều khốn khổ này trước tiên. Cụ giáo trưởng đã tỉnh lại, cụ thở dài và một tiếng kêu ảo não phát ra từ đôi môi già cả. Cụ vật mình vật mẩy như đang chiến đấu với một sức mạnh vô hình.

Nhìn thấy vậy, thím Hoàng vội vã chạy đi tìm bà Era. Khi bà bước vào phòng, giáo trưởng giương đôi mắt mờ đục, trừng từng nhìn bà. Bà dịu dàng nói:

- Thưa cha!

Nhưng đôi mắt cụ vẫn bất động.

Thím Hoàng hốt hỏang:

- Ôi! Thưa bà, cụ ấy đã mất trí rồi.

Đúng như vây. Trong nhiều ngày, giáo trưởng không nói một tiếng. Cụ nằm dài trên giường, im lặng, dẫu khi ăn uống hay cầu nguyện cũng vậy.

Rồi một hôm, bỗng nhiên cụ mở miệng nói, và nói không ngừng. Cụ đã mất trí thật. Cụ không còn biết ai, không còn nhớ ai, mà chỉ nhớ đến Lịch hồi còn bé đang sống bên mẹ.

Như thế, giáo trưởng đã về trời trước khi cụ chết.

Với lòng quảng đại tự nhiên, ông Era đã bảo lũ nô bộc:

- Hãy dọn một căn phòng trong nhà cho giáo trưởng. Ta sẽ săn sóc cụ cho đến ngày cụ chầu trời.

Ông Era vì tốt bụng mà nói như vậy, nhưng điều này đã làm cho vợ ông vô cùng cảm động. Khi chỉ còn có hai người, bà quay trở lại với chồng, và bà tỏ ra rất khiêm nhượng dịu dàng đối với ông như chưa từng có.

- Mình quá tốt! Bà vừa nói vừa khóc. (một tay bà đưa ra nắm lấy tay chồng, một tay che hai mắt). Em muốn cư xử với mình tốt hơn nữa, Era ạ!

- Nhưng xưa nay, mình vẫn cư xử rất tốt kia mà! Ông nói với một chút vui vui trong lòng.

Ông cầm lấy tay vợ, siết chặt.

- Không, bởi vì tôi thường hay giận dữ…

- Kìa, Naomy! Chính anh cũng có đôi khi làm phật lòng mình kia mà!

- Từ rày em xin sẽ khá hơn xưa.

- Ấy, mình đừng có quá hiền nhé! - Ông Era nói pha trò để an ủi vợ. - Nếu không, làm sao anh theo cho kịp em được! Thỉnh thoảng nổi sung một chút cũng vui.

- Mình thật tốt…thật tốt.

Bà nói mãi; ông biết bà rất bồng bột, ông không nói gì. Ông cặp tay vợ kéo bà đi ra ngoài, vừa đi vừa an ủi vỗ về bà.

- Bây giờ, Naomy ạ, chúng ta hãy nghĩ đến con trai của chúng ta. Chúng ta có bổn phận làm lại cuộc đời cho nó, làm cho nó được hạnh phúc. Đàn cháu nội phải được sinh ra tại nơi đây và chúng ta hãy quên đi quá khứ.

Ông tìm cách dẫn bà hướng về tương lai và bà đã tỏ ra tùng phục chồng.

Sự tòng phục của bà đã làm cho ông lo ngại. Ông chỉ sợ bà bệnh. Rồi ông nghĩ rằng điều này sẽ không kéo dài lâu. Bà còn khỏe mạnh lắm. Thời gian sẽ làm cho bà khỏe mạnh và hăng hái như cũ; lúc bấy giờ ông sẽ để cho bà muốn nói gì thì nói. Nhưng cõi lòng bà Era đã tan nát vì khổ đau. Bà cảm thấy mọi dự tính, mọi hy vọng của bà đều bị đảo lộn tất cả, người bà có vẻ như yếu đi, ít nhất là trong một thời gian.

Khi ông Era đưa bà trở về phòng, đỡ bà ngồi xuống ghế bành, thì bà run run hỏi:

- Chúng ta sẽ làm gì cho con của chúng ta?

Đó chính là cái câu hỏi đã ám ảnh bà trong suốt thời gian kể từ khi bà thấy Lịch chết.

Ông Era đứng trong khi bà đang khóc. Đây là lần đầu tiên trong đời, ông cảm thấy ông làm chủ người đàn bà này, người mà ông đã yêu theo lối của ông, nhưng bây giờ ông mới biết yêu thật. Ông cầm lấy bàn tay mập mạp của vợ, vuốt ve.

- Chúng ta chỉ nghĩ đến hạnh phúc của nó thôi, mình ạ! Chúng ta sẽ cưới vợ cho nó khi nào có thể.

Bà nhìn ông, đôi mắt dịu dàng và phục tùng:

- Mình muốn nói…

Bà bối rối.

Ông gật đầu chấp nhận:

- Tôi nghĩ đến người thiếu nữ mà con nó yêu, mình ạ. Cô con gái bác Khương Sơn. Tôi sẽ thưa chuyện cùng bác ấy, rồi chúng ta sẽ mang niềm vui về nhà.

- Nhưng Lịch…

Ông Era nói rất nhanh, như là ông đã quyết định tất cả rồi:

- Ngày mai sẽ chôn cất. Sau một tháng để tang. Đavít sẽ bình phục.

Bà Era không biết nói sao. Một Tháng! Bà cúi đầu, rút tay ra khỏi tay chồng.

Ông đợi một lát, rồi hỏi với một giọng trầm trầm và vang dội:

- Mình có đồng ý không, mình?

Bà cúi đầu.

- Vâng, em xin nghe mình!

Giọng bà mệt mỏi. Bà không còn chống đối nữa. Ông Era cúi xuống hôn lên má bà mà không nói them tiếng nào.

Đám tang Lịch nhằm vào một ngày mưa. Ông Era cấm không cho Đavít rời khỏi giường, điều này đã khiến chàng phải khổ tâm phản ứng lại, vì chàng quả quyết rằng chàng có đủ sức khỏe để đi đưa đám nàng.

Lịch chết đi nhưng đã làm cho Đavít nghĩ mãi đến nàng, một điều mà khi còn sống nàng không có thể làm được. Chàng cảm như đã có lỗi đối với nàng. Chàng nghĩ rằng, nếu trong mấy ngày vừa qua, chàng kiên nhẫn hơn, Lịch sẽ không đến nỗi phải mất cả lý trí như vậy và chàng đã có thể cứu nàng khỏi chết. Bây giờ, chàng có bổn phận phải đưa nàng ra tận huyệt.

Nhưng ông Era không muốn như vậy. Đavít ngạc nhiên vì cái vẻ cả quyết trong giọng nói chắc nịch của ông. Mẹ chàng dường như cũng cùng một ý với cha chàng. Đavít nhìn bà với hy vọng bà sẽ giúp đỡ chàng. Nhưng Đavít càng ngạc nhiên hơn khi nghe mẹ chàng nói:

- Con ơi, hãy vâng lời cha con.

Như vậy, song thân chàng đều không đồng ý, Đavít đành phải nhượng bộ. Chàng tự lấy làm mãn nguyện được đến bên quan tài của Lịch. Chàng tựa vào vai một tên thơ đồng, đứng rất lâu bên quan tài nàng. Trang luôn luôn theo sát, trông chừng chàng, sợ chàng xây xẩm mặt mày vì quá yếu. Chàng đứng như thế cho đến khi căn phòng trở thành trống không. Các phu đòn đã khiêng chiếc quan tài nặng nề ra đi, một vài người theo sau, trong số này có vị giáo trưởng vẻ mặt bỡ ngỡ, tươi cười:

Arông vắng mặt. Người ta vẫn chưa kiếm ra gã; ông Era phỏng đoán gã đã chuồn ra khỏi thành rồi.

- Sau khi trong nhà đã bình tĩnh trở lại, tôi sẽ đích thân đi kiếm nó về. – Ông Era nói với vợ.

Nhưng có ai luyến tiếc gì nó đâu? Giáo trưởng đã mất trí, còn Lịch thì không còn nữa.

Với đôi mắt buồn bã, Đavít nhìn đám tang thưa thớt băng qua sân, ra cửa, rồi trở về nằm. Chàng vẫn nằm dài trên giường, bất động, hai mắt nhắm nghiền. Trang rất không ngoan, nàng không nói gì hết. Nàng vẫn luôn luôn ở bên cạnh chàng để chàng cảm thấy sự hiện diện lặng lẽ của nàng. Nàng biết nỗi khổ đau phải được tiêu tan trước khi đón nhận niềm vui mới. Nhưng nàng cũng biết rằng, sự đau khổ chỉ có thể tan biết dần dần.

Lịch được chôn cất bên cạnh mẹ nàng, trong một mảnh đất dành riêng cho người Do Thái, bên ngoài thành phố. Vị giáo trưởng đứng giữa ông bà Era, tươi cười chẳng biết gì dưới ánh nắng mát mẻ của trời thu. Ông Era nói lớn vào tai cụ:

- Cha cầu nguyện đi!

Thình lình, cụ nói, mặt ngửa lên trời:

- Mặt trời nóng nhỉ? - Cụ lẩm bẩm. (Rồi cụ cầu nguyện). - Từ nơi cao, nơi Vinh quang và Chí Thánh của Chúa, Chúa hãy nhìn xem… Chúa thật là Thiên Chúa của chúng con, mặc dầu Tổ Phụ Abraham không biết chúng con, và Israel đã chối bỏ chúng con. Nhưng Chúa là Chúa và là Cha của chúng con. Danh Người sẽ hằng hữu đời đời, chúng con thuộc về Người…

Rồi giáo trưởng tưởng như mình đang ở trong đền thờ, dang hai tay ra theo nghi thức thường lệ và xướng lớn:

- Chúa là Thượng Đế, Deehôva, là Thiên Chúa Độc Nhất Chân Thật.

Những người qua đường tò mò dừng lại xem kinh ngạc, trong lúc các phu đòn người Trung Hoa lạ lùng về sự hiện diện của cụ già Do Thái.

Không ngờ giáo trưởng đã cầu nguyện bên mộ phần con gái cụ như vậy mà cụ không biết. Bà Era òa khóc, ông thấy thế bèn đứng giữa, một tay đỡ lấy bà, một tay đỡ giáo trưởng.

Khi lấp đất đầy huyệt, người ta lấy những miếng đất có cỏ xanh để đắp lên nắm mồ.

Ông Era dìu hai người trở về nhà.

Lễ thành hôn của Đavít được định vào một ngày cuối thu, tháng chín âm lịch, ba mươi ba ngày sau ngày Lịch tử tự, trên nấm mồ của nàng vẫn còn xanh.

Đavít đã đến viếng mộ nàng lần đầu tiên kể từ ngày chôn cất. Khi cha chàng nói cho chàng biết lễ cưới đã được định đoạt và hai họ đã trao đổi lễ vật, chàng chỉ lặng lẽ bằng lòng. Ông hỏi:

- Con có ưng như thế không?

- Thưa ba có, nếu điều đó làm vui lòng ba má.

Vết thương của chàng đã lành, đã làm sẹo trên trán, cái sẹo đó chỉ có thể mất đi khi thể xác chàng hóa thành tro bụi. Thân xác đã bình phục nhưng tâm hồn bị tổn thương. Ban ngày chàng thẩn thơ, đôi khi nằm bất động, còn ban đêm thì trằn trọc ngủ không yên. Trước kia chàng thích ăn và thường ăn rất ngon miệng, nhưng bây giờ chàng không thiết gì hết. Trang nhận thấy như vậy mà không nói gì.

Nàng săn sóc cái ăn cái mặc cho chàng như hồi còn bé. Bà Era không còn cấm đoán nàng nữa.

Ông Era lo lắng hỏi:

- Con ơi! Con hãy nói cho ba biết con thích gì?

Ông đặt bàn tay mập mạp nóng bỏng của ông lên bàn tay quá gầy gò của Đavít. Đavít ngập ngừng thụt tay lại. Cha chàng quá hăng hái, quá nhiệt thành và thiếu kiên nhẫn. Sức lực của chàng thanh niên không đủ để chịu đựng tình yêu nồng nhiệt của người cha.

- Con biết, con cần cưới vợ. - Đavit nói.

- Nhưng không phải bắt buộc… không phải là ép uổng đâu. - Ông Era nói, mặt ông tối sầm lại.

- Tuy thế, cũng phải…

- Không, nếu con không yêu con gái bác Khương.

- Có lẽ, con chưa yêu ai cả. - Đavít nói và nhếch mép cười.

Ông Era bối rối hết sức. Ông ngồi thụt lại, hai tay đặt lên gối.

- Ba tưởng con có gởi cho cô ta một hai bài thơ gì đó kia mà?

- Dạ, đúng thế!

- Con đã thay đổi ý kiến trước khi…

Ông Era không dám nói đến tên Lịch.

Đavít liền nói thay ông:

- Ba có ý nói rằng con đã thay đổi ý kiến trước khi Lịch chết à? Không… à, cũng có nghĩa rằng có; con đã bỏ dở một bài thơ, vì con đã gặp Lịch ngoài vườn đào.

- Con có khóc thương nàng không?

Đavít suy nghĩ một lát trước khi trả lời. Chàng đang ngồi trong phòng của cha. Ông Era đã cho tìm chàng đến để thông báo lễ đính hôn đã được thực hiện.

Cuối cùng, Đavít nói:

- Không, con không khóc. Con không muốn cô ấy chết như thế. Nếu cô ta còn sống…

Chàng lại ngập ngừng. Ông Era cảm thấy ngứa rần rần từ chân tóc xuống đôi tay và đến tận hai chân.

Thấy Đavít vẫn còn im lặng, ông Era hỏi:

- Nếu cô ta còn sống, con có cưới cô ta không?

Đavít chậm rãi lắc đầu. Động tác này đã làm cho chàng cảm thấy nhức nhối từ vết thương đã thành sẹo.

- Không.

Rồi chàng hăng hái tiếp:

- Không ba ạ! Ba cứ tin như thế. Nhưng nếu Lịch còn sống thì con cưới Quí Lan với một niềm vui trọn vẹn hơn. Ba hiểu không?

Ông Era há miệng kinh ngạc nhìn sững Đavít. Ông lắc đầu, không thể nào hiểu nổi. Điều này đã vượt quá tầm mức hiểu biết của ông.

- Ba kính mến! - Chàng dịu dàng nói. - Sao ba cứ mãi lo lắng cho con đến thế? Này nhé, con sẽ lấy vợ rồi sinh con, và sống trong hạnh phúc đầy đủ. Sau lễ cưới, con sẽ trở lại cửa hàng để buôn bán như trước… nhưng vui hơn…vui hơn nhiều.

Chàng ngước đầu nhìn cha, cố gắng mỉm cười, chào ông và lui ra. Còn lại một mình trong phòng, ông Era phân vân do dự mãi. Ông thở dài và đi lo công việc. Suốt ngày hôm ấy ông Era mặt khó đăm đăm.

Về phần Đavít, lòng chàng không được yên, gắt gỏng cả với Trang, đến nỗi nàng không dám nói cười, chỉ ngồi im lặng vá may. Thường thì Trang thêu thùa, nhưng hôm nay nàng thay miếng lót giày bằng một thứ vải trắng mịn.

Đavít mải ngồi nhìn những ngón tay thon nhỏ của nàng thoăn thoắt luồn chỉ vào vải với một cây kim nhỏ.

Một lát sau, chàng hỏi nàng làm gì. Trang bình tĩnh nói:

- Lâu ngày nằm trên giường, da chân cậu bây giờ mỏng lắm, Trang sợ mấy đôi tất vải làm đau chân cậu. Trang khâu cái này với những đường chỉ rất nhẵn để cậu khỏi đau chân.

Đavít không nói gì, vẫn yên lặng nhìn nàng. Chàng nằm trong một cái ghế dựa, vẻ lười biếng. Đột nhiên chàng nói:

- Tôi sắp cưới vợ, Trang ạ!

Nàng ngước nhìn chàng, rồi cúi xuống tiếp tục may.

- Tôi biết rồi!

- Bây giờ, Trang đã bằng lòng chưa?

- Không phải tôi bằng lòng hay không bằng lòng mà được. - Nàng dịu dàng nói.

- Trang vẫn ở lại đây với tôi. - Trang ạ. - Như bấy lâu nay.

- Cám ơn cậu.

Rồi nàng tiếp:

- Thiếu chủ ạ…

Chàng nói, không một chút ngập ngừng:

- Tôi nghĩ rằng tôi sẽ cưới Trang trong một ngày gần đây. Trang cũng nghĩ như thế chứ?

- Đợi đến lúc đó hẵng hay.

Đột nhiên Trang may rất nhanh, những ngón tay nàng thoăn thoắt đâm kim xuyên qua lần vải. Đavít không nghĩ gì đến nàng nữa. Tư tưởng của Đavít hướng về chính chàng, nàng biết thế. Nhưng nàng không đoán được những gì chàng sắp nói.

- Tôi muốn đi thăm mộ cô Lịch.

Trang đặt tấm vải xuống gối và nhìn chàng, tình yêu dâng lên khóe mắt.

- Sao lại đi thăm mộ vào đúng hôm nay vậy? Ngày vui mà xen chuyện buồn vào không tốt đâu.

- Tôi muốn nhìn mộ nàng để được biết chắc rằng nàng đã chết. - Chàng nói với một vẻ hết sức lạ lùng.

Trang nhìn chàng, lo lắng:

- Nhưng, cậu đã biết cô ta chết rồi mà!

- Tôi cứ nhìn thấy cô ta hoài.

Gian phòng hai người đang ngồi chính là nơi mà Lịch đã tự tử. Trang nghĩ đến điều đó nhưng không muốn nói ra. Nàng thường nghĩ rằng Đavít cần phải thay đổi chỗ ở. Ban đầu vì chàng bị thương quá nặng, không tiện di chuyển. Ít lâu sau, khi nàng nói đến chuyện thay đổi căn nhà khác, chàng liền đáp, chàng thích các gian phòng này vì là nơi chàng đã ở từ thuở bé. Bây giờ Trang nghĩ, nàng phải trình bà Era biết, sau khi đã cưới vợ, Đavít cần ở trong những gian phòng khác lớn hơn, có sân rộng rãi hơn. Nơi đây để dành làm phòng trọ cho khách.

Trang gấp tấm vải lại và cất trong một cái tráp khảm ngà dùng để đựng đồ thêu may.

- Nếu cậu định đi thăm mộ cô Lịch thì tôi sẽ đưa đi. - Nàng nói.

- Đi bây giờ à? - Chàng hỏi.

- Bây giờ.

Chiều hôm ấy, Đavít ngồi xe lửa, ra khỏi các bức tường thành thị trấn, đến nghĩa địa Do Thái để viếng mộ Lịch. Trời cuối thu êm đềm và mát mẻ. Nghĩa địa Do Thái là một khu đất yên tĩnh nằm cạnh ngôi giáo đường, khá xa bờ sông. Đavít biết rõ nơi đây vì là nơi ông bà tổ tiên chàng đã an nghỉ giữa những người Do Thái chết từ bao thế kỷ, kể từ khi họ đến cư ngụ tại thị trấn này. Những nấm mồ được đắp cao, giống như mồ của những người Trung Hoa, nhưng có một hàng đá nhỏ bao quanh.

Trang dẫn Đavít đến mộ phần của Lịch. Hôm chôn cất Lịch, Trang không có đi theo, vì nàng không thể rời Đavít trong lúc chàng bị thương, nhưng thím Hoàng đã nói lại cho nàng biết Lịch được chôn cạnh mẹ nàng.

Khi hai người tới nơi, Đavít ngồi lên một cái áo choàng mà Trang đã trải ra trên mặt cỏ. Vạn vật yên tĩnh dưới bầu trời màu xám; không khí ẩm ướt và mát lạnh. Những nấm mồ lớn bao quanh Đavít, nhưng chàng chỉ nhìn ngôi mộ của Lịch. Cỏ non đã bén rễ trên nền đất lạnh. Một vài đoá hoa thuỳ cúc hoang dại, màu hổ hoàng, nở ra trong đám cỏ.

Đavít thở dài nói:

- Thật tôi không thể nào tưởng tượng được rằng Lịch đang nằm dưới nắm đất này.

- Chính nàng đã nằm dưới đó. - Trang nói như xác nhận.

- Trang có tin người ta có linh hồn không? - Đavít hỏi.

- Trang không nghĩ gì về linh hồn cả - Nàng cúi xuống sờ vào má của chàng. - Cậu có cảm thấy lạnh không?

Chàng lắc đầu:

- Trang để tôi ngồi đây một mình một lát.

- Không, tôi không thể để cậu ngồi một mình ở đây được. Bổn phận của tôi là trông nom chăm sóc cậu. Nếu cậu có bề nào, người ta sẽ trách mắng tôi.

Nàng vẫn đứng bên chàng. Thân hình thon nhỏ, thẳng băng, mặt quay về nấm mồ của Lịch. Nhưng đôi mắt nàng nhìn mãi tận đằng xa, qua bức tường thấp, nàng nhìn thấy đồng ruộng làng mạc, và xa hơn nữa một cánh buồm căng gió đang lướt nhẹ trên mặt nước phẳng lì lóng lánh của dòng sông.

Trang không rõ những gì đang diễn ra trong tâm hồn Đavít, nhưng nàng nhất quyết không thể để hình ảnh Lịch mãi ám ảnh chàng. Tuy miệng nói không tin, nhưng trong thâm tâm, Trang tin con người ta có linh hồn và nàng biết rằng linh hồn của người chết lẩn quẩn mãi bên người sống. Tuy nhiên nàng quyết chống lại hồn phách Lịch với tất cả sức mình.

- Hãy nằm yên trong mộ. - Trang thầm nói với Lịch trong lòng. - Cô đã mất hẳn Đavít, cô không còn làm hại gì chàng được nữa cả.

Trang cương quyết chống lại với mỗi một kỷ niệm của Lịch và chống lại với bất cứ những gì liên quan đến cô ta.

Đavít thở dài đứng dậy, buồn bã nói:

- Nàng đã chết!

- Để Trang khoác áo cho. Cậu lạnh rồi đấy.

Đavít rùng mình.

- Phải. Lạnh thật, chúng ta về thôi!

- Đi. Nhanh lên cậu!

Nàng kéo chàng đến xe lửa và ra về trên con đường đá lởm chởm. Khi đến cổng, Trang đỡ chàng xuống xe đưa thẳng về phòng riêng. Nàng đặt chàng nằm xuống, chạy đi kiếm những viên đá nóng để sưởi chân chàng. Nàng mang cháo nóng đến cho chàng ăn và ngồi bên giường mãi cho đến khi chàng an giấc.

Sau đó, Trang chạy đến phòng bà chủ, thành thật kể lại cho bà nghe tất cả những gì đã xảy ra. Bà Era lắng nghe, chăm chăm nhìn Trang với đôi mắt sầu thảm. Trang chột dạ, ngỡ rằng bà chủ sẽ nổi cơn lôi đình. Nhưng không, bà Era nghe mà không tỏ vẻ gì tức bực cả. Bà thở dài và dịu dàng nói:

- Bây giờ, cậu thấy mồ cô Lịch rồi. Chúng ta hãy quên hết quá khứ và chuẩn bị cho tương lai.

Đây là lần đầu tiên trong đời, Trang nghe được một câu nói như vậy từ miệng bà Era, đối với bà quá khứ là những gì hết sức đắt giá. Bất giác nàng cảm thấy mến thương bà. Nàng ngọt ngào nói:

- Thưa bà, con xin đoan chắc với bà rằng tương lai sẽ cũng mang lại cho bà nhiều hạnh phúc.

Bà Era lắc đầu, hai hàng lệ chảy dài trên má.

- Nếu Chúa thứ tha! - Bà lẩm bẩm.

Trang lẳng lặng cúi chào bà để ra về. Nàng vừa đi vừa thầm nghĩ: Thần thánh xem chừng cũng không làm gì nên chuyện trong công việc của loài người.