- 7 -
Giáo trưởng không trở lại nhà họ Era. Khi Đavít đã ra đi, cụ ở một mình trong đền thờ, rồi lui về nhà riêng. Thấy cụ trở về, Rasen từ bếp chạy ra, ngạc nhiên hỏi:
- Có việc gì vậy? Thưa thầy?
- Ta muốn ở yên một mình. Hãy tin cho bà Era biết, ta sẽ không trở lại nhà bà ấy nữa, và gọi con trai ta về luôn.
- Còn cô Lịch thì sao thưa thấy?
Giáo trưởng suy nghĩ:
- Để nó ở lại đằng ấy.
Rasen chăm chú nhìn ông cụ. Trông cụ có vẻ kiệt sức, cả tâm hồn lẫn thể xác. Khuôn mặt nhợt nhạt, râu ria xồm xoàm; hai tay ôm ghì cây gậy, run rẩy. Rasen tưởng chừng như thấy được những dấu vết của bệnh tê liệt trên khuôn mặt của cụ, một điều từ trước tới nay mụ chưa hề để ý đến. Mụ hoảng hốt nắm lấy cánh tay cụ và nói:
- Trước khi đến nhà bà Era, con sẽ nấu cho thầy một chén cháo kê thật nóng để thầy dùng, rồi thầy nằm nghỉ.
Vừa nói, mụ Rasen vừa đỡ cụ giáo trưởng vào phòng, nơi đây đã được quét dọn sạch sẽ. Cụ để mặc mụ đưa đi, cụ buông cái gậy, đưa hai cánh tay áo lên chùi vào đôi mắt đã mù.
- Được trở về đây sung sướng biết bao! - Cụ thở dài. - Sống chung với lũ nhà giàu, không thể sung sướng được!
Rasen vui vẻ nói:
- Thầy chỉ sung sướng trong sự đau khổ, đó là sự thật. Thầy hãy nằm nghỉ.
Nỗi phẫn uất đã làm cho khuôn mặt của cụ có khí lực. Đột nhiên cụ trở lại cái phong độ từ trước. Cụ thét hỏi:
- Ngươi đã thay đổi những gì trên giường của ta?
Cụ nằm dài trên giường, đột nhiên vùng dậy.
Hai tay chống vào hông, Rasen nhìn cụ, dằn từng tiếng một:
- Con đã lót một cái mền bông dưới chiếu để thầy nằm khỏi đau xương. Thầy đã già, thầy không có thể nằm trên gỗ…
Giáo trưởng đứng dậy, quay đôi mắt mờ đục nhìn mụ Rasen, thét:
- Cất cái này đi cho ta!
Mụ Rasen nhún vai lắc đầu phản đối. Giáo trưởng không thấy gì, nhưng cụ lớn tiếng nói một cách nghiêm khắc, khiến mụ chẳng dám ho he, chỉ biết vâng lời. Mụ muốn cất cái mền bông và trải chiếu ra trên chiếc giường tre. Cụ giáo trưởng nằm xuống, thở dài, hai tay chấp lại trên ngực:
- Con mụ kia, cút đi. Đi ra ngoài kia, để một mình ta với Chúa.
Mụ Rasen vừa ra đi, vừa càu nhàu, rủa thầm ông cụ già thánh thiện. Mụ xếp cái chăn cất vào rương. Mụ tức giận vì phải sang nhà bà Era. Ngày mai mụ mới đi. Khi cụ giáo trưởng hỏi mụ Arông đã về chưa, mụ nói dối rằng cô Lịch yêu cầu cậu ấy nán lại với cô một hai hôm nữa. Cụ giáo trưởng thở dài mà không nói gì. Sáng hôm sau, cụ thức dậy thật sớm, ăn một chén cháo kê và đọc kinh Tôrát.
Mụ Rasen đi sang nhà bà Era để trình bày cho bà hay quyết định của giáo trưởng. Bà Era đang đứng xem lũ người làm chùi một cái hồ cá vàng cạnh nhà bếp. Đàn cá vàng bơi lội lúc nhúc trong một cái thùng gỗ, trong khi hai người đàn ông đang cạo vét dưới đáy hồ. Bà Era đang bực tức về mấy con cá, về mấy người vét hồ nên bà không được vui khi nghe mụ Rasen đến thưa chuyện. Bà gắt gỏng:
- Việc gì đã xảy ra vậy? Ngày hôm qua đây có gì đâu, vẫn vui vẻ như thường. Tại sao ngài lại bỏ về?
- Hôm qua cụ từ đền thờ mò mẫm trở về nhà một mình. Con chỉ biết có thế.
Bà Era cho gọi thím Hoàng và Trang. Thím Hoàng chẳng biết gì, còn Trang thì chỉ biết rằng đêm qua Đavít và ông chủ trở về nhà rất khuya.
- Lẽ ra, ngươi phải tin cho ta biết chứ. - Bà Era nói.
- Thưa bà chủ, con ngỡ rằng bà chủ đã biết rồi.
Bà Era khoát tay bảo mọi người lui ra. Bà chỉ giữ một mình Trang lại và nói:
- Ta về phòng trang điểm một chút. Nhà ngươi hãy đi mời cô Lịch đến cho ta nói chuyện.
Trang lui ra và sau khi chỉ bảo qua loa đôi điều cho hai gã chùi hồ cá, bà Era quay về phòng.
Khi đến phòng Lịch, Trang khẽ ho trước khi bước vào. Nghe tiếng Trang, Lịch gọi vào, Trang đến bên nàng, cúi đầu thưa:
- Bà chủ sai tôi đến mời cô.
Rồi nàng lại cúi chào một lần nữa và trở ra. Trang nghĩ ngợi: việc gì đã xảy ra giữa cụ giáo trưởng và Đavít thế nhỉ? Có liên quan gì đến cô Lịch không?
Sự chờ đợi đã quá sức chịu đựng của Trang. Nàng muốn khám phá tất cả những gì nàng có thể biết, với bất cứ phương tiện nào. Nàng rón rén chạy nấp mình sau một cây mương lớn trong vườn bà Era. Cây mương này ở cạnh khung cửa sổ mở rộng vì sáng hôm nay trời nóng bức. Từ chỗ nấp, Trang nghe bà Era nói với Lịch với một giọng nghiêm nghị, rõ ràng:
- Tại sao con dám quả quyết rằng không có gì xảy ra giữa con và Đavít cả? Chính mắt ta đã thấy, một hôm nọ, trong vườn đào, hai đứa đứng bên nhau kia mà!
Tiếp theo là tiếng nói của Lịch, hối hả, dịu dàng, và có vẻ rất xúc động:
- Thưa dì, nếu không có gì xảy ra thêm nữa, phải chăng lỗi tại con? Quả thật, ngày hôm ấy chúng con đã ở bên nhau.
- Còn những ngày cả hai đứa ngồi chung học kinh Tôrát thì sao?
- Anh ấy gần như là không nói với con một lời nào.
Giọng nói của Lịch yếu đàn như thú nhận.
Bà Era đột nhiên nổi giận, quát:
- Chính là lỗi tại con đấy Lịch ạ… Con đừng có thử thách… Con đã dè dặt, đợi chờ…
- Nếu không đợi chờ thì con biết phải làm gì khác hơn, hở dì?
Trang đã nghe tất cả. Đôi mắt nàng bừng sáng, đôi môi mím lại. Thì ra chưa có quyết định gì ráo! Đavít không yêu Lịch. Nhưng nếu chàng yêu nàng thì sao? Ai biết được? Nàng lén ra khỏi chỗ nấp, chạy đến phòng Đavít. Trong phòng khách của chàng không có ai. Nàng nhìn vào phòng ngủ, chàng vẫn còn an giấc. Mặt trời buổi trưa tràn ngập cả phòng. Tối hôm qua, Trang đã buông màn lúc dọn phòng ngủ cho Đavít, nhưng bây giờ các bức màn ấy đã được vén lên móc vào các móc lớn bằng bạc. Chàng nằm ngủ mình bận áo quần bằng lụa trắng, hai tay mở rộng, mặt quay ra phía nàng.
Tim Trang đập rộn ràng vì vui mừng. Không có gì quá muộn! Cụ giáo trưởng đã bỏ đi và chưa có việc đính hôn giữa Đavít và Lịch. Lòng Trang vui như mở hội. Hạnh phúc sẽ đến chẳng muộn gì.
Trang đến quỳ một bên giường ngủ của Đavít, khẽ gọi:
- Đavít, Đavít!
Chàng thức giấc, mỉm cười, đưa tay quàng lấy vai Trang.
- Sao Trang lại dám đánh thức tôi? - Đavít nói, giọng ngái ngủ.
- Đã trưa rồi - Trang nói. - Tôi đến để cho cậu biết tin này, một tin tuyệt diệu!
- Tin gì thế?
Vui sướng quá, Trang phải chần chờ một lát.
- Mặt trời lấp lánh trong mắt cậu, trông như là có vàng ở bên trong.
- Đó là điều tuyệt diệu của Trang đấy à?
Chàng bật cười và tỉnh ngủ hẳn.
Mặt trời chiếu sáng trong miệng cậu, trông nó dịu ngọt như một trái thạch lựu.
- Có phải vì thế mà Trang quấy tôi không cho tôi ngủ nữa, phải không?
Chàng ngồi dậy trên giường và bây giờ đã tỉnh táo.
Trang cầm lấy tay chàng áp vào ngực nàng.
- Đavít, trưa nay… nàng… đi lễ chùa để tạ Phật. Nàng bị ốm mới khỏi.
- Sao Trang không nói gì cho tôi hay cả?
Trang cảm thấy bàn tay Đavít trở nên cứng cỏi.
- Tôi không muốn nói cho cậu hay. Nhưng bây giờ cô ấy đã khỏi rồi, tôi thề với cậu như vậy. Vả lại cậu thấy cô ấy thì cậu nhận ra ngay mà!
Đavít vẫn chăm chăm nhìn vào đôi mắt Trang. Nàng vội vàng nói:
- Cậu dậy đi. Tôi mang điểm tâm đến cho cậu. Rồi cậu chỉ có việc đến chùa, bước vào cánh cửa bên phải. Cậu sẽ gặp cô ấy khi cô ấy tới trước tượng Phật Bà Quan Âm bằng bạc đặt ở phía Nam ngôi chùa.
- Nhưng tôi ngại cô ta cho rằng tôi đến đó để nhìn trộm cô. - Đavít rụt rè nói.
- Như thế cô ấy lại càng sung sướng hơn chớ sao! - Trang cười, nói (nàng buông tay Đavít, đứng dậy). - Để tôi đi dọn điểm tâm cho cậu.
Nàng bước đi vội vã. Phải hành động gấp rút. Nàng chỉ ngừng lại chốc lát để lấy tiền riêng của nàng mang theo. Nàng hấp tấp đi tới nhà họ Khương. Tại đây Trang gặp mụ Chu đang ăn cơm trưa. Mụ Chu béo phục phịch, đang bưng một bát cơm đầy trộn thịt và vào miệng. Mụ vừa ăn vừa nghe Trang nói.
- Một lát nữa cậu chủ tôi sẽ tới chùa. Bây giờ thím làm sao đưa cô Quí Lan đến đây, tại sân đền Phật Bà Quan Âm.
- Nhưng bà chủ tôi cản trở thì biết làm sao?
- Cô chủ của thím chỉ có việc khóc cho dữ. Dọa dẫm cho nhiều, nói rằng cô đau tức ở trước ngực, cô muốn đến chùa để cầu khẩn. Đây, cậu tôi gửi biếu bà.
Trang đút vào tay mụ Chu tất cả số tiền nàng mang theo. Đoạn nàng lột đôi hoa tai ngọc bích đưa cho mụ Chu và nói:
- Còn phần tôi, tôi biếu cho thím cái này.
Mụ Chu đặt bát cơm xuống bàn, gật đầu ưng thuận. Trang vội vã trở về nhà. Vài phút sau, Trang từ bếp đi ra, tay bưng một đĩa cơm nóng hổi có nắp đậy. Một tên đầy tớ đi theo Trang, tay bưng những đĩa thịt và đồ nấu. Trang hy vọng rằng Đavít còn chần chờ trong phòng tắm, vì khi nàng bước vào, phòng khách rỗng không. Nàng kêu:
- Thiếu chủ đâu rồi? Thiếu chủ!
- Tôi phải bận áo gì đây? Đỏ hay xanh? - Đavít nói lớn.
- Màu đỏ sẫm. - Trang đáp.
Đavít đã mang áo màu xanh để đi đến đền thờ, nhưng bây giờ đây chàng không có nhớ gì hết. Trang biết rõ ảnh hưởng tinh vi của màu sắc: Màu xám làm cho tâm hồn người đàn ông suy nhược; màu xanh nâng tâm hồn lên, làm cho người ta thích mơ mộng; màu đỏ, màu của rượu nho, buộc chặt tâm hồn con người xuống đất.
Sau một lát, Đavít bước ra, tuyệt đẹp, đến nỗi Trang muốn khóc lên được. Chàng để đầu trần, tóc màu nâu. Trên lần vải lót màu trắng nơi cổ áo đỏ, khuôn mặt của chàng nổi bật, hồng hào và đầy nhựa sống.
Trang ép mình nói:
- Xin mời cậu dùng điểm tâm. Thời giờ gấp rút quá rồi!
Vừa nói, Trang vừa sắp chén dĩa. Đavít ngồi xuống ăn mà không nói gì. Chàng đang suy nghĩ. Nếu không xảy ra những sự việc ngày hôm qua thì hôm nay chàng quyết không nghe lời Trang. Chàng không nôn nóng gặp lại Quí Lan cho lắm. Khi nghĩ đến cô bé Trung Hoa xinh đẹp, chàng chỉ thích thú chút ít trong lòng, thế thôi. Nhưng hôm nay chàng muốn gặp nàng để chiến đấu chống với chính mình. Chàng biết Lịch đang ở trong nhà, mà mẹ chàng thì sắp có quyết định dứt khoát. Tuy nhiên, chàng không biết gì về việc cụ giáo trưởng đã trở về nhà của cụ. Để chống lại họ, chàng muốn tranh thủ thời gian, giữ nguyên tình trạng cũ. Cái đêm thưởng trăng trên hồ đã mang lại cho chàng sự bình tĩnh tâm hồn và xua tan những sầu muộn trong lòng. Sáng hôm nay chàng cảm thấy hoàn toàn khỏe khoắn, mạnh mẽ và yên tĩnh.
Đavít điểm tâm xong, lại rửa mặt trong một cái thau đựng nước thơm. Chàng khoan thai chải tóc, chậm rãi đến nỗi Trang phát cáu.
- Cô Quí Lan đã đến chùa rồi. Nếu cậu cứ cà rịch cà tang như thế này thì chắc không kịp gặp cô ấy đâu! - Nàng nói bằng một giọng hết sức ai oán. - Như thế này thì biết bao giờ mới gặp một dịp may khác hở trời?
Chàng trêu nàng một lát, khệnh khạng mãi, cho rằng còn chán thì giờ, làm Trang sốt ruột. Chàng sung sướng tìm lại được những nụ cười hồn nhiên, những vui đùa trêu chọc thích thú. Chàng ra đi mặt mày tươi tỉnh, để Trang dọn chén bát một mình.
Tình yêu đã thúc đẩy Trang hành động như vậy, nhưng những gì xảy ra sau này chứng minh không phải chỉ một tình yêu mà còn vì lý do thù hận nữa.
Sau khi cúi chào bà Era, mụ Rasen nhờ lũ nô bộc chỉ đường, đi đến căn phòng trước đây cụ giáo trưởng đã ở. Mụ thấy Arông đang nửa thức nửa ngủ, nửa muốn trỗi dậy, nửa muốn nằm thêm. Mụ cho chàng biết, giáo trưởng bảo chàng trở về nhà ngay. Mụ thầm nghĩ, con trai của một vị giáo trưởng lại là một thằng cầu bơ cầu bất, khuôn mặt ốm nhom, hai mắt lấm lét, thật là một điều quá đỗi hổ thẹn.
Arông không dám cãi lệnh cha. Gã hỏi:
- Lịch cũng về nữa chứ?
- Chưa.
Tức giận, hắn càu nhàu, cho rằng cha quá nuông chiều Lịch. Hắn mắng mụ Rasen:
- Cút đi, con mẹ già dơ bẩn kia. Còn đứng đó mà nhìn ta mãi sao?
Rasen cũng nổi xung, mụ dằn từng tiếng một:
- À, cậu đừng có tưởng là tôi trông mong cậu trở về. Cái thứ người ngợm như cậu mà bắt tôi trông nom cơm nước thì thật là một điều khổ nhục cho tôi!
Mụ hậm hực ra về. Ngồi lại một mình, Arông cảm thấy hết sức buồn tủi, nước mắt lưng tròng. Hắn tiếc rẻ phải rời khỏi cái gia đình giàu sang này. Ở đây, hắn được ăn sung mặc sướng vì người ta kính nể cha hắn và lũ tôi tớ luôn luôn phục dịch hắn chu đáo chẳng dám cãi lời. Hắn cảm thấy bực bội phải trở về sống lại cái cuộc sống kham khổ trong văn phòng lẻ loi của hắn ngày trước. Hắn không yêu cha bằng yêu chị, nhưng hắn ngại họ và cho rằng họ sung sướng hơn hắn.
Hắn trách thương cho thân phận hắn và hờn giận mọi người. Hắn trỗi dậy, bận áo quần đi đến phòng ăn dành cho đàn ông, vẻ mặt cau có. Bất ngờ, hắn gặp Trang trong sân nơi hồ cá. Nàng xăm xăm bước về phía hắn mà không trông thấy hắn. Dưới ánh mặt trời buổi sáng, nàng tuyệt đẹp. Mái tóc nàng đen nhánh, hai má ửng hồng. Nàng phục sức màu xanh, trên mái tóc cài một đóa sơn chi trắng.
Arông lấm lét nhìn quanh, không một bóng người. Trang cúi đầu đi tới, lòng rộn niềm vui. Thình lình nàng chạm mặt Arông, nàng có cảm giác như đạp phải rắn. Nàng vừa ngẩng đầu lên, chưa kịp phản ứng gì thì Arông đã thừa cơ phóng mình tới ôm choàng lấy và hôn bừa vào mặt vào môi nàng.
Xưa nay chưa từng có đôi môi nào chạm phớt qua môi Trang. Cái việc đụng chạm với đôi môi nóng bỏng và run rẩy của gã này đã làm cho nàng buồn nôn. Nàng quay mặt đi, vùng vẫy và la lên, nhưng vì quá sợ hãi, tiếng la nghẹn tắt trong cổ họng. Nàng c ảm thấy bàn tay của Arông sờ soạng vào ngực nàng. Sự yếu đuối biến mất, cơn phẫn nộ đã tăng cường sức mạnh cho nàng. Nàng đấm vào mặt hắn như điên. Nàng bứt tóc hắn, cắn vào má hắn, bứt tai hắn và đạp vào người hắn khi hắn ìtm cách tháo chạy. Một bàn tay nàng nắm vào tóc hắn, một tay bấu vào mặt hắn. Tất cả những việc đó xảy ra trong im lặng, ngoại trừ hơi thở hổn hển. Nàng không muốn ai hay biết cái điều xấu xa mà tên vô lại kia đã làm. Cuối cùng, quá mệt, nàng căm giận nói:
- Mày dám động vào tao một lần nữa đi, đồ khốn kiếp! Tao sẽ cho mày một nhát gươm để mày đi chầu ông bà ông vải nhà mày.
Trang nghĩ đến thanh gươm mà Đavít đã chọn trong số các đồ vật do đoàn thương hồ mang về. Thanh gươm này hiện treo trên tường trong phòng riêng của Đavít. Thanh gươm rất bén, Arông nghĩ rằng Trang có thể thực hành lời đe dọa của nàng nếu quả hắn còn giở thói lần khân. Quả Trang không tìm ra phương cách nào làm cho Arông sợ hãi hơn. Nỗi sợ hãi từ ngàn xưa và sự yếu đuối truyền kiếp bàng bạc ngay cả trong chính kinh Tôrat, đã xâm chiếm lấy hồn gã. Giáo trưởng là một người có nghị lực, cụ có thể vui nhận cơn thịnh nộ của Đức Dêhôva. Nhưng Arông chỉ là một con giun đất yếu đuối. Ngay từ thuở ấu thơ suy nhược đáng thương, gã đã sợ hãi và ghét bỏ đấng Dêhôva. Gã chỉ thích một điều là làm con bất cứ ai, miễn là chí làm con của một vị giáo trưởng. Khi Trang nhắc đến tổ tiên hắn, hắn liền quấn lại cái áo dài và chuồn thẳng một mạch.
Trang nhìn theo, khinh bỉ. Đoạn nàng trở về phòng và tắm gội từ đầu đến chân, nàng thay quần áo, chải lại đầu, xức nước hoa, mang vào những đồ nữ trang đẹp nhất và cài một cánh hoa tươi vào mái tóc. Nhưng nỗi giận dữ vẫn còn sôi sùng sục trong lòng nàng, nàng muốn tẩy bỏ tất cả những gì liên quan đến thằng Arông khốn kiếp. Lại một lần nữa nàng đến phòng Đavít, viện cớ để lau chùi quét dọn và sửa chữa một cái quạt bằng gỗ đàn hương mà chàng đã làm gãy.
Hai má của Trang vẫn còn bừng đỏ vì tức giận khi Đavít trở về. Trang ngồi ở bàn, tay cầm một cái lông chấm vào keo để dán cái quạt. Nàng nhận ra ngay Đavít đã gặp mặt Quí Lan. Chàng bước vào với một vẻ tươi vui thỏa mãn, Trang nghĩ bụng, đàn ông thường tỏ vẻ tự mãn khi tưởng được yêu. Nỗi sầu khổ của mối tình thầm kín mà Trang đang ấp ủ đã khiến nàng nghĩ như vậy, nhưng nàng vội gạt bỏ những tư tưởng ấy. Nàng thận trọng để cái quạt xuống bàn, làm ra vẻ ngoan ngoãn đứng dậy. Nàng bắt gặp nét nhìn của Đavít. Trong đôi mắt chàng lấp lánh niềm vui đã tắt từ lâu. Trang rất lấy làm thỏa dạ, nàng nói:
- Kể cho Trang nghe đi...
Nàng tỏ vẻ nhõng nhẽo, biết rằng chàng muốn thổ lộ hết tất cả cho nàng nghe.
- Kể gì vậy kìa? - Chàng trêu.
- Đavít có thấy nàng không?
- Thì chính Trang đã nói với tôi rằng nàng sẽ đến đấy cơ mà?
- Nhưng, nàng có tới không?
- Ai biết được? Dường như không thì phải!
Đavít lấy là ngạc nhiên khi thấy bỗng dưng Trang òa khóc.
- Cái gì vậy, Trang?
Nàng lắc đầu, nghẹn ngào không nói được.
Chàng tiến đến bên nàng, ôn tồn hỏi:
- Có ai đã làm gì Trang, phải không?
Nàng gật đầu, vừa khóc vừa đưa cánh tay áo lên thấm lệ.
Chàng hỏi, vẻ giận dữ:
- Mẹ tôi phải không?
- Không... không... Ôi! - Trang không thể nào nói tên thằng ấy được.
Nàng lắc đầu, khóc nhỏ hơn và nói với giọng đứt quãng.
- Một gã đàn ông sao? - Đavít thét hỏi.
- Gã con trai giáo trưởng. - Trang khẽ nói.
Đavít nhìn sững nàng một hồi lâu, đoạn quay mình đột ngột phóng ra cửa. Trang lật đật chạy theo sau.
- Không, không, tôi van xin cậu. Cậu làm như không biết thì hơn. Tôi không muốn làm to chuyện, chỉ càng thêm hổ thẹn.
- Nó đã làm gì Trang?
- Hắn đã... hắn đã... Ôi, Trang không thể nói ra điều đó được.
- Hắn không... gì chứ?
Đavít đỏ mặt.
- Không, không. - Rồi sợ chàng có thể tưởng tượng những điều xảy ra quá sự thật, nàng cười trong nước mắt. - Trang đã đánh nó. - Nàng nói. - Trang túm lấy đầu tóc nó và vả vào mặt nó.
Đavít cũng cười, một nụ cười hung bạo.
- Ước gì có tôi lúc ấy. Trang có cấu cho rách mặt hắn đi không? Để tôi đi kiếm hắn.
- Khoan, đợi em nói hết đã. - Nàng năn nỉ. - Em nói thật, Đavít hãy tin em đi, em van mà! Nó đã... nó đã đặt miệng nó lên môi em!
- Mẹ kiếp nhà nó! - Đavít nguyền rủa.
Trang đặt một ngón tay của nàng lên trên môi Đavít nước mắt lưng tròng, nàng thỏ thẻ:
- Thân em đã bị dơ bẩn!
Làm sao Đavít cầm lòng mà không an ủi nàng được? Chàng đặt hai tay lên bờ vai bé nhỏ của người thiếu nữ và chăm chăm nhìn vào đôi môi tươi thắm ngọt ngào. Trang cất ngón tay nàng khỏi môi Đavít, nàng nói với một giọng hết sức mơn trớn:
- Hãy đặt môi anh lên môi em - làm cho nó trở lên trong sạch như trước.
Nàng tựa người vào chàng. Đavít cúi xuống, cố nở một nụ cười, xem như thể đây là một trò đùa. Chàng cúi xuống thấp hơn và đôi môi của chàng đặt lên đôi môi của nàng. Cho đến nay, chưa bao giờ đôi môi chàng chạm vào miệng của bất cứ người đàn bà nào. Đây chỉ là Trang, cô Trang bé bỏng ngày xưa mà chàng đã biết rất rõ. Nhưng đột nhiên chàng cảm thấy một sự ngọt ngào kỳ lạ nơi đôi môi ấm áp ấy.
Trang gỡ ra, nói với một giọng hăng hái và rõ ràng:
- Cám ơn. Bây giờ Trang có thể quên đi tất cả. Nhưng thiếu chủ hãy cho em biết, thiếu chủ đã gặp nàng rồi có phải không?
Sự thay đổi quá sức đột ngột này khiến Đavít không thể nói gì được. Lòng chàng rối như tơ. Tại sao Trang vừa nhen nhóm trong lòng chàng sự ấm áp mới mẻ ấy rồi lại đột ngột xoay chiều câu chuyện hướng về một thiếu nữ khác? Không ngờ nàng đã xúc động, quyến rũ, khiến chàng làm những gì mà nàng muốn. Chàng để lòng tưởng nhớ đến cái giây phút gặp gỡ Quí Lan trong chùa. Ở đó, Đavít đã nấp sau một pho tượng to lớn trấn giữ phía Tây, chàng đã trông thấy Quí Lan. Nàng bận một cái xiêm thêu, bằng lụa màu vỏ táo, dài sát đất. Một bà vú già cầm tay nàng đưa đi. Bên cạnh sự cao lớn phì nộn của bà vú già, tấm thân mảnh dẻ của thiếu nữ giống như một cành liễu mùa xuân. Rồi chàng nhớ lại khuôn mặt của Quí Lan. Chàng thủng thỉnh nói:
- Phải, tôi đã từng gặp nàng. Tôi không ngờ nàng đẹp đến thế! Nhưng tôi không có thể nhớ rõ từng chi tiết được.
- Nàng thật là nhỏ nhắn, có phải không? - Trang gợi ý.
- Nhỏ xíu xíu à! Cỡ của trang ấy. Nhưng tôi thích các cô nhỏ thó.
- Đôi mắt nàng... có to bằng mắt Trang không?
Mắt Trang hình quả mơ, là cái đặc điểm chính của sắc đẹp nàng. Hai hàng mi dài, mềm mại và cong lên, tròng mắt đen pha lẫn màu nâu ấm áp. Đôi mắt của Trang đã khiến Đavít nhớ đến Quí Lan, chàng xích lại gần nàng, nói:
- Tôi chưa từng thấy một đôi mắt nào đẹp đến thế!
Trang tủm tỉm cười làm lúm hai má đồng tiền. Nàng đưa chiếc khăn tay lên lau vội hai giọt lệ vui mừng. Nàng hỏi tiếp:
- Đavít có nói chuyện với nàng chứ?
- Có. Khi nàng đi vào bên trong chùa, nàng đã thấy tôi.
- Cậu đã nói gì với nàng nào?
- Tôi chỉ nói rằng, tôi hi vọng được nàng miễn lỗi vì tôi đã đến đây để gặp nàng.
Đavít đã nói những lời này một cách hết sức thành khẩn, chàng ngồi xuống cạnh bàn, nghiêm trang tiếp:
- Trang ạ! Chắc Trang cũng biết rằng tôi không thể lấy vợ như một người thường. Nếu tôi chọn Quí Lan làm vợ mà không chọn Lịch, mẹ tôi và giáo trưởng sẽ bất bình và có thể ngay cha tôi cũng bất bình nữa.
- Lão gia chỉ nghĩ đến cậu.
- Đúng rồi! Nhưng đối với chúng tôi, đàn bà thường có quyền hơn đàn ông. Tôi không biết mẹ tôi sẽ tính sao đây?
- Cô lịch... Cô ấy có quen biết người nào khác không nhỉ?
- Không. - Chàng đáp, lòng đầy hối hận. - Có điều tai hại là tôi đã làm cho cô ấy tin tưởng...
Chàng lắc đầu buồn bã.
Nãy giờ Trang vẫn đứng. Nàng tiến đến ngồi đối diện với Đavít, lo lắng hỏi:
- Cậu đã làm cho cô Lịch tin tưởng rằng cậu đã yêu cô ấy sao?
Rồi nàng vội vã tiếp:
- Sao có thể như vậy được? Cậu có nói với cô ấy câu nào đâu, ngay cả trong lúc hai người cùng học kinh Thánh cũng vậy cơ mà! Cụ giáo trưởng đã ngồi giữa hai người...
- Một lần nọ, trong vườn đào... - Chàng nói, mặt đỏ bừng.
- Trong vườn đào? Đã xảy ra những gì thế?
- Việc ấy xảy ra vào ngày hôm sau khi đoàn thương hồ trở về. - Đavít nói, vẻ hối hận. - Hôm ấy chúng tôi khá xúc động.
- Cô ta đã đến tìm cậu ở vườn đào! - Trang lớn tiếng nói, nàng đoán được ngay những gì đã xảy ra. - Cậu có biết tại sao cô ta đã cả gan dám theo cậu ra đấy không? Chính mẹ cậu đã bảo cô ta làm như vậy.
Đavít nhìn Trang không chớp mắt. Chàng tỉnh ngộ vì cái nhận xét xác đáng ấy. Chàng đập mạnh bàn tay xuống bàn, Trang giật mình suýt buộc miệng kêu lên. Nàng quơ vội cái quạt mà nàng vừa sửa chữa.
Đavít thoái bộ:
- Tôi sẽ nói với mẹ tôi... - Chàng nói.
Trang xòe cái quạt chạm để che mặt, nàng hít vào lồng ngực mùi trầm hương mà nàng rất thích, nhìn chàng hỏi:
- Để làm gì?
Rồi, nàng tán tỉnh:
- Cậu muốn gì, cậu hãy để tôi trình với lão gia cho. Tôi sẽ là người trung gian cho cậu trong cuộc hôn nhân này.
Nhưng Đavít lắc đầu:
- Dù sao đi nữa, cứ để lịch ở trong tình trạng nhầm lẫn như thế này là một điều không nên. Để tôi suy nghĩ kĩ, rồi tôi sẽ nói với nàng những gì cần phải nói.
- Xin cậu đừng nói gì hết. - Trang năn nỉ - Cần gì phải cải chính những điều mà ta chưa từng nói ra. Có khi đã nói ra rồi thì mọi sự sẽ trở nên rõ ràng và chắc chắn. Và như thế, có thể cô Lịch sẽ cảm thấy đắng cay nhục nhã.
- Lịch cay đắng sao? Không, Trang đã lầm rồi. Chính điều đó mới làm cho tôi khổ tâm. Lịch là một thiếu nữ rất tốt. Tôi muốn yêu Lịch với tất cả tấm lòng, chính vì nàng, chứ không phải vì mẹ tôi.
Chàng dừng lại, ngập ngừng, rồi tiếp như tự nói với mình:
- Có lẽ tôi sẽ có thể yêu Lịch nếu nàng chỉ là một cô gái, một người đàn bà thuần túy, nhưng đàng này nàng lại còn hơn thế nữa.
Đavít cho rằng Trang quá trẻ con, chưa có thể hiểu được những điều chàng nhận xét về Lịch, nhưng trái lại Trang hiểu thấu đáo vấn đề và khá tế nhị, nàng không nói ra. Lịch khác hơn một người đàn bà thường là vì nàng tiêu biểu cho một dân tộc, một truyền thống, một quá khứ; khi Đavít đã cưới nàng là cưới luôn tất cả những điều ấy và bắt buộc phải quay về với quá khứ xưa cũ. Chàng sẽ trở thành một phần tử của toàn bộ cái xưa cũ ấy và thụ nhận cái sức nặng buồn rầu ngàn xưa của dân tộc. Nhưng Trang không để lộ ra là nàng đã biết tất cả những điều đó. Theo thói quen, nàng nhảy choi choi, hai tay vỗ vào nhau, và làm ra vẻ trẻ con, năn nỉ:
- Đavít để cho Trang thưa chuyện với lão gia nhé?
Khuôn mặt trẻ đẹp của Đavít thoáng gợn buồn, chàng gượng cười, nói:
- Cha tôi mà giúp gì tôi được? Chính ông cũng ở vào một hoàn cảnh như tôi mà.
Trang dịu dàng:
- Ngày xưa, không có ai để cứu lão gia cả. Thời xuân trẻ, lão gia làm gì có một Quí Lan. Cậu hãy nghĩ đến cô bé ấy, bây giờ chắc cô ta đang mơ tưởng cậu. Cậu không cảm thấy như thế sao? Đúng đấy? Thôi, cậu hãy để cho Trang thưa chuyện cùng lão gia.
Cuối cùng, Đavít đành phải nghe theo lời ngọt ngào của Trang. Trang chuồn đi gấp, nàng sợ Đavít thay đổi ý kiến. Nàng chạy thẳng một mạch đến phòng ông Era. Nàng thấy ông đang nằm ngủ thẳng cẳng trong ghế dựa bằng mây, cái quạt rơi trên bụng. Ông ngáy như sấm, Trang không có thể làm cách gì cho ông thức giấc được. Nàng ho khan, hát, gọi tên ông khe khẽ, vì nàng sợ hồn ông không kịp nhập vào xác, sẽ bàng hoàng.
Bỗng Trang thấy một con dế mèn đang lùi thùi bò trên gạch. Nàng bắt lấy nó, cầm hai chân và đặt nó lên trên bộ râu xồm xoàm của ông Era. Hoảng hốt, con dế kêu lên mấy tiếng buồn buồn. Ông Era thức giấc, lắc lắc cái đầu, đưa tay lên gãi gãi vào bộ râu. Vớ được con dế, ông giật mình ném thật xa.
- Con thấy con dế bò trên râu lão gia, nhưng con không dám bắt, sợ làm mất giấc ngủ của lão gia.
- Ta chưa từng thấy dế nhảy lên râu bao giờ. - Ông ngạc nhiên nói. (Ông đứng dậy, uốn éo thân mình, co tay duỗi chân, lắc lắc cái đầu cho tỉnh ngủ). - Không biết cái điềm gì đây? Để ta hỏi thầy bói thử xem sao.
- Thưa lão gia, đây chính là điềm tốt. Cái loại dế này chỉ đến những nhà nào giàu có và vững chắc.
Trang với lấy bình nước trà để trên bàn, rót một chén, bưng hai tay dâng lên cho chủ nhân. Rồi nàng lượm lấy quạt trên mặt đất, phe phẩy quạt cho ông. Khi ông đã hoàn toàn tỉnh táo, nàng nói:
- Thưa lão gia, con phải thú tội cùng lão gia.
- Tội gì nữa đây?
Ông ngáp, đưa tay xoa xoa vào trán và mỉm cười.
- Thiếu chủ... cậu con...
Nàng ngừng lại không nói nữa.
Ông Era đột nhiên sợ hãi. Trang có vẻ sung sướng hiện ra nét mặt. Đavít có điên không mà lại đi yêu con bé này? Một con a hoàn, một đứa ở? Trời ơi! Trong nhà sẽ hỗn độn biết bao? Bà Era sẽ đối phó sao đây?
Nhìn vẻ mặt kinh hãi của ông Era, Trang muốn bật cười. Trang đoán được ông đã nghĩ gì và bất giác lòng nàng se lại. Không có ai, ngay cả ông Era người mà Trang đã yêu thương như cha ruột, cũng chỉ xem nàng là một con a hoàn dễ thương, một người giúp việc đắc lực và dễ bảo.
- Xin lão gia chớ sợ. - Nàng dịu dàng nói. - Không phải cậu con yêu con đâu.
Trong khi thốt ra câu này, Trang cảm thấy có đủ sức làm cho Đavít yêu nàng, vì chàng đã khước từ tình yêu của Lịch mà cũng chưa hẳn đã yêu Quý Lan. Nàng có thể len vào cái chỗ trống ấy để đột nhập tim chàng. Nhưng Trang là một thiếu nữ ngoan ngoãn, nàng không làm thế. Không bao giờ nàng có thể chiếm được địa vị là vợ trong Đại gia đình này, mà dầu nàng có chiếm được đi nữa, cuộc sống của chàng sẽ vì vậy mà mất đi sự bằng an. Vì quá yêu Đavít, Trang không muốn thấy chàng khổ sở, vả lại nàng đã được huấn luyện để luôn luôn tuân phục kẻ bề trên. Số phận nàng không phải sinh ra để làm dâu nhà này. Nàng ví như một con chuột nhắt trong hang chui ra để nhảy múa một mình dưới ánh mặt trời. Dưới mái nhà này, nàng lẻ loi, nhưng sẽ tìm ra hạnh phúc của mình.
- Vậy thì nó yêu ai? - Ông Era nghiêm giọng hỏi.
Trang ngước nhìn vào mặt ông Era với một vẻ hết sức dịu hiền, đôi mắt ngây thơ như mắt trẻ con.
Nàng nói:
- Cậu con vẫn còn yêu con gái thứ ba của ông bà Khương Sơn.
Ông Era nhìn sang nơi khác, không nói gì. Ông vuốt râu, thở dài. Mấy ngón tay ông sờ lên môi suy nghĩ lúc thì việc này, lúc thì việc nọ, chẳng việc gì rõ ràng hết. Trong thâm tâm, ông chỉ ước muốn một điều là con ông phải được hạnh phúc với người vợ do hắn chọn lựa.
- Ta có được hạnh phúc với Naomy không? - Ông tự vấn lòng mình.
Ông đã được hạnh phúc. Cưới Naomy, nhưng trước đó ông không yêu nàng. Thật ra thì ông chưa có yêu ai kể cả Bích Ngọc - nghĩa là không quá yêu để có thể cưỡng lời cha mẹ. Nếu Đavít đến xin ông cưới Trang, ông sẽ la rầy và từ chối như chính cha ông đã từ chối ông hồi còn trẻ vậy. Còn Qíu Lan thì lại khác, không ai có thể chê được cô con gái giàu sang đài các ấy của nhà họ Khương. Quí Lan rất xứng đôi với Đavít. Chỉ có điều trở ngại về tôn giáo mà thôi. Tuy nhiên, cũng có nhiều người Do Thái cưới vợ Trung Hoa nhưng không vì thế mà bỏ đạo. Vậy, phải trình bày như thế với Naomy mới được.
Ông Era thường quyết định nhanh chóng. Không nghĩ gì đến Trang, ông đứng dậy đi tìm bà. Còn lại một mình Trang, nàng tự hỏi không biết lời nói của mình sẽ đưa đẩy sự việc đến nơi đâu. Rồi nàng bước theo ông Era ở xa xa, đến nấp ở cây mương để nghe ngóng.
Ông Era gặp vợ ông trong phòng của bà ấy. Khi bước vào phòng, ông thấy vẻ mặt bà hầm hầm dữu tợn, nhưng ông cho đấy là do một vài điều phiền muộn trong nhà. Bà Era là một bà chủ nhà thông minh và sáng suốt, một cái trứng hoặc một cái chén bể bị đánh cắp cũng có thể làm cho bà buồn lòng. Khi ông Era bước vào, bà nhìn ông bằng đôi mắt lạnh lùng. Bà hỏi:
- Hôm nay mình không ra kho hàng sao?
Ông cố mỉm cười và ngồi đối diện bà, ở phía bên kia bàn.
- Không, vì tối hôm qua tôi về nhà khuya quá. Bác Khương Sơn đã mời tôi đi thưởng trăng trên hồ. Có cả hai cậu con trai của bác ấy và Đavít nữa.
- Trông mình không được khỏe. Da mình vàng như nghệ!
- Đâu, đâu có tệ đến thế.
- Hai mắt mình lờ đờ, tóc rối bù như tổ quạ. Đavít có uống nhiều lắm không?
- Sáng nay tôi không thấy nó đâu cả, ông đáp.
Bà mím môi, nói:
- Tôi đã nói chuyện với Lịch rồi.
Dưới đôi mày rậm rạp, ông Era nhìn bà với một nét nhìn vừa dịu dàng vừa sắc bén.
- Ồ, Naomy! - Ông thở dài. - Sao mình không để cho con nó yêu?
- Tôi không hiểu mình muốn nói gì?
- Nó không yêu cô Lịch. - Ông tiếp. - Nếu nó thuận cưới cô ấy là chỉ cốt để làm vui lòng mình. Trong trường hợp đó, cô Lịch cũng như nó, không ai sung sướng cả.
Khuôn mặt đẹp đẽ của bà Era đỏ bừng.
- Đavít chưa từng biết đến đàn bà. Nó cũng không biết gì như ông ngày xưa khi lấy vợ.
- Ngày xưa tôi còn hơn nó nhiều. Tôi chỉ là một nắm đất sét trong tay mình, mặc mình uốn nắn.
Bà không chịu nhịn. Bà nói:
- Ít nhất, Lịch nó đã yêu Đavít.
- Vậy thì tôi rất lấy làm tiếc.
- Tại sao lại tiếc? - Bà Era quay đầu nhìn chồng. - Tại sao mình nói như vậy?
Ông Era đáp:
- Thật ra, ngày xưa tôi chưa từng yêu ai trước khi lấy mình.
Mắt họ nhìn nhau, rồi mỗi người quay sang nhìn một nơi khác. Ngày xưa, cũng ngay trong chính căn phòng này, một sự việc đã xảy ra. Bà Era, người vợ trẻ tự phụ có một sắc đẹp mỹ miều, và một đức tin vững chắc, đã lên án chồng chui vào phòng một con a hoàn. Cả hai người những tưởng câu chuyện ấy đã đi vào quên lãng, nhưng thật ra họ vẫn nhớ rất rõ.
Bà Era nói, giọng cứng cỏi:
- Nếu ông nghĩ rằng con Trang...
Ông lắc đầu quầy quậy:
- Không, tôi không nói đến con a hoàn mà là nói cô con gái của bác Khương đấy chứ.
Bà Era vùng đứng dậy, như mọi khi, chăm chăm nhìn chồng, thét:
- Không, không bao giờ tôi chấp thuận điều đó. Tại sao mình lại nhắc đến đám ấy?
Nhưng ông Era không còn là một người thanh niên hiền lành dễ thương như xưa nữa. Bây giờ ông đã to lớn, mạnh mẽ. Trong suốt bấy nhiêu năm trời chung sống bên vợ, ông đâm ra yêu bà và ông cũng có thể đương đầu nổi với bà.
- Ồ, Naomy!- Ông nói với một vẻ cương quyết. - Không phải trên đời này việc gì cũng phải do mình ưng thuận mới được!
Nói xong, ông đứng dậy bước ra khỏi phòng. Đứng nấp đằng sau cây mương, Trang suy nghĩ về những điều mà nàng đã lỏm nghe được. Có nên kể lại cho đavít nghe chăng? Dầu sao, đây cũng chỉ là một sự cãi cọ cũ rích giữa bậc làm cha mẹ mỗi khi bàn về hôn nhân của con cái. Tốt hơn hết là nên chờ đợi, tùy số mệnh.
Nàng lẻn ra khỏi chỗ nấp, trở về phòng.
Bà Era đã đẩy Lịch đến chỗ thất vọng hoàn toàn. Bà không cố ý như vậy, nhưng vì lo sợ, bực tức, bà đã quấy nhiễu, trách móc, thúc giục nàng khiến nàng đâm ra hoảng sợ. Nơi đây, nàng những tưởng sẽ tìm được chố trú ẩn, sau bao ngày hi vọng, nàng nhận thấy không yên thân chút nào. Người bạn thân nhất của mẹ nàng lại là người oán giận nàng. Nếu Era trả nàng về, thì đời nàng sẽ ra sao? Nàng thấy dàn ra trước mắt một cảnh sống sầu ảm đạm mà nàng đã trải qua trong căn nhà nhỏ bé của cha nàng. Sau khi cha nàng chết đi, còn lại một mình, nàng sẽ bị lệ thuộc vào lòng bác ái bất nhất của bà Era. Nhưng có điều tệ hơn nữa là phải sống một cuộc đời cô độc vì còn có Arông. Sợ hãi và tuyệt vọng, Lịch không muốn chống chế nữa, chỉ biết vâng lệnh bà Era. Nàng vẫn đứng cúi đầu trong khi bà Era nói không ngừng. Hai tay Lịch chắp lại, lạnh như cầm nước đá. Toàn thân nặng trĩu, đau đớn; tinh thần trở nên đần độn.
Cuối cùng, bà Era gay gắt nói:
- Thôi ngươi hãy đi đi, để cho ta yên. Đừng để ta thấy mặt nhà ngươi trong một thời gian.
Lịch lui ra mà không biết mình đi đâu.
Nàng đã không được bà Era vừa lòng. Nàng biết rất rõ, vì bối rối lo âu mà bà Era, một người đàn bà quá nhiệt thành, đã trở nên giận dữ như vậy. Sự tuyệt vọng đã làm cho bà hóa ra khắc nghiệt - nỗi tuyệt vọng và tình yêu thương. Bà Era yêu thương Đavít hơn tất cả mọi người trên trần thế này, hơn cả chính Thiên Chúa của bà. Đó là cái lí do khiến bà muốn gìn giữ Đavít trong đức tin của dân tộc. Tại đây, trong xứ ngoại giáo này, Đavít sẽ hư mất nếu gặp phải một bà mẹ yếu đức tin. Trong mộng ước, bà Era nhìn thấy Đavít trở thành người lãnh đạo dân tộc và đưa họ trở về tổ quốc. Lịch biết rõ những điều đó như đọc tự tâm can bà Era. Vì hiểu bà nên nàng tha thứ cho bà tất cả.
Không phải bà Era đã lỗi lầm mà chính nàng, vì nàng đã bất lực trong việc nhen nhóm tình yêu trong lòng Đavít, làm cho chàng hứng khởi muốn cưới nàng làm vợ. Nàng khiêm tốn tự nhủ, làm sao có thể trách Đavít được, bởi vì trong đời Lịch nàng không biết gì ngoài việc chăm lo cửa nhà cho cha và em. Nàng chăm chú nhìn vào hai bàn tay của nàng. Mụ Hoàng đã dạy cho nàng cách chăm sóc hai bàn tay bằng cách thoa bóp dầu. Nàng đã cố gắng làm một cách kiên nhẫn, nhưng vì làm lụng, vì nghèo khó, hai tay nàng đã trở nên thô kệch, chữa trị cũng vô ích. Nàng cũng đã thử đọc kinh Toorrat, nhưng hoài công, vì nàng chỉ nghĩ đến Đavít; nàng mơ tưởng đến chàng trong khi chàng vẫn ngồi điềm nhiên, không tỏ vẻ gì cho nàng biết rằng chàng chỉ nghĩ đến cái ngày độc nhất ấy, cái ngày mà nàng đã làm cho chàng xúc động, sau hôm đoàn thương hồ trở về. Từ đó, không nguyện cầu, không xê dịch, suốt ngày này qua ngày khác nàng đã sống trong mộng, sống trong một sự tin tưởng phi lý. Nàng đi tản bộ trong các hành lang, các nhà cầu, xuyên qua các hoa viên mà không nhìn thấy gì, miệng lâm râm khẩn nguyện:
- Lạy đức Dehova, Chúa trời tôi, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, xin hãy nhận lời tôi, giúp đỡ tôi.
Trong lúc Lịch đi một cách vô định như vậy và lòng thầm thì cầu nguyện, thì nàng tưởng như nghe lời phán bảo của Chúa phải tìm Đavít và ngỏ tất cả nỗi lòng cùng chàng. Nàng ngẩng đầu lên, hai dòng lệ chảy dài xuống má. Nếu Chúa còn giúp nàng thì mọi sự đều kết thúc đúng theo ý bà Era và đúng theo ý Lịch. Bởi vì nàng hết dạ thương yêu Đavít. Được trở thành vợ của chàng, Lịch sung sướng biết bao!
Lịch vội vã bước đi trên con đường mà hồi còn thơ ấu nàng đã biết qua. Đã lâu lắm, hồi Đavít còn bảy tuổi, cậu đã từ phòng mẹ sang ở phòng cha. Cô bé Lịch đã đi theo thăm chỗ ở mới này. Bà Era biết được, bà cấm cô không được trở lại đấy nữa. Không có người phụ nữ nào ngoài đám a hoàn, được bén mảng vào phòng đàn ông.
Lịch tìm ra lối cũ đã quên. Dường như bọn nô bộc đang bận sửa soạn bữa cơm trưa nên không ai thấy Lịch. Nàng đến cửa phòng Đavít mà không báo trước.
Đavít vẫn ngồi nơi bàn, như khi Trang mới ra đi. Tay chàng cầm sách, nhưng không đọc. Chàng không để ý gì đến hàng chữ trước mắt mà chàng tưởng rằng đang tìm kiếm chúng, bởi vì sang hôm ấy, khi gặp Quí Lan, một loạt các câu thơ đã hiện ra trong tâm trí chàng, nhưng không phải là một bài thơ tình mà là một bài thơ nói về sự chọn lựa của người thanh niên giữa tình yêu và nhiệm vụ.
Tuy nhiên, chàng tự nhủ, trước khi mở sách ra, rằng đây không phải là một sự lựa chọn giữa tình yêu và nhiệm vụ. Sự lựa chọn của Đavít chỉ nằm trong nhiệm vụ. Chàng có thể từ bỏ hẳn cô gái Trung Hoa mà chàng cảm thấy sẵn sàng yêu nhưng chưa thật sự yêu lắm. Các quyết định mà chàng phải chấp nhận trong cái tiểu vũ trụ của chính mình lại cũng chính là quyết định lớn lao của toàn thể dân tộc. Chàng có chịu tách biệt, có chịu hy sinh cho một tín ngưỡng hay không? Mặc dù tín ngưỡng đó đã làm cho chàng phải sống cô độc trong bất cứ quốc gia nào trên thế giới? Hay chàng sẽ chịu hòa mình vào cái biển người mênh mông đang bao quanh chàng? Chàng có dám mất đi trong cái triều sống ấy chăng? Nhưng trong cái triều sống ấy chàng sẽ mất gì? Không mất gì cả. Con người hấp thụ gì của tổ tiên để lại, vẫn cứ giữ y nguyên, trẻ con sẽ được sinh dựng, bồi bổ them cho cái triều sống ấy mà không mất mát gì cả.
Trong khi Đavít suy nghĩ rất lung, chưa có gì dứt khoát, thì Lịch hiện ra ở ngưỡng cửa. Chàng đứng dậy, lắp bắp:
- Có phải… có phải cô kiếm tôi không?
Vừa nhìn thấy Đavít, Lịch cảm thấy những tư tưởng của mình trở nên rành mạch hơn. Không còn có gì mờ ám giữa hai người nữa, tâm hồn họ phải gặp gỡ nhau.
- Phải, nàng nói. Sáng nay mẹ anh cho gọi tôi đến, bà chê trách tôi đủ điều… về việc anh.
- Mẹ tôi đã nhầm. - Đavít dịu dàng đáp.
Nhưng Đavít bị choáng váng tâm thần. Tại sao Lịch lại đến vào lúc này? Phải chăng đây là ý Chúa?
Lịch bước vào, ngồi vào cái ghế mà Trang đã ngồi hồi nãy. Đavít cũng ngồi theo. Chàng nhận thấy Lịch đã khóc, mặc dù hai hàng lệ đã khô. Đôi mắt của nàng long lanh, trong sáng, hai má ửng hồng. Nàng tuyệt đẹp, đến đỗi Đavít phải tự hỏi tại sao chàng không yêu nàng với tất cả tâm hồn với tất cả con tim. Nhưng lòng chàng câm nín. Chàng sẽ không yêu ai, bao lâu tâm hồn chàng còn chưa ứt khoát việc chọn lựa.
Đột nhiên, những hàng chữ ghi khắc trong đền thờ lại hiện ra rõ ràng trong trí chàng.
“Thờ phượng là để làm vinh danh Thượng Đế, tỏ lòng đạo đức là theo gương tổ tiên. Nhưng trước sự thờ phụng và đạo đức, còn có tinh thần nhân loại.”
Cái tư tưởng phóng đạt này đã làm cho tâm hồn Đavít trở nên vững vàng hơn đối với Thượng Đế, đối với con người.
Đột nhiên, chàng nói với Lịch:
Cô đừng có buồn mẹ tôi, cô Lịch ạ. Hồi tôi còn nhỏ, hình như tôi không bao giờ làm vừa lòng mẹ tôi cả, tôi không dễ dạy mấy. Mẹ tôi thật tốt- thật nhiệt thành.
- Mẹ anh có lý. - Lịch nói, giọng quyết đoán. - Chính tôi đã lầm và cả anh cũng lầm nữa, Đavít ạ.
- Tôi đã làm điều gì không nên không phải chăng?
Chàng nói câu này và làm ra vẻ pha trò, vì chàng sợ tình trạng tâm lý của Lịch hiện tại sẽ chỏi lại với cái tư tưởng tự do phóng khoáng của chàng.
- Nếu không có những người đàn bà như mẹ anh và những người đàn ông như cha tôi thì dòng giống của chúng ta không còn tồn tại mãi cho đến ngày hôm nay, mà đã bị hủy diệt từ lâu rồi. Lịch nói. Chúng ta đã trở nên giống như các dân tộc khác, không biết gì đến một Thiên Chúa độc nhất chân thật. Những người trung thành đã giữ gìn chúng ta, đã làm cho chúng ta nguyên vẹn là một dân tộc riêng biệt và sống động.
Đavít nhìn xuống hai bàn tay trẻ trung và mạnh mẽ của Lịch đang để trên mặt bàn. Rồi chàng nói với một giọng hết sức bình tĩnh:
- Tôi phân vân tự hỏi, phải chăng tại những người ấy mà dân tộc của chúng ta đã bị các dân tộc khác chống đối mãi cho đến ngày nay.
Đôi môi Lịch hé mở, vẻ ngạc nhiên. Đavít nhận thấy nàng khó có thể nhận thức được cái ý nghĩa của câu nói ấy, bèn tiếp:
- Thiên hạ khó tin rằng chúng ta tốt hơn họ, giỏi hơn họ. Mà có thật chúng ta hơn họ không, Lịch? Chúng ta là những thương gia giỏi, làm giàu mau, chúng ta thông minh, có tài về âm nhạc, hội họa chúng ta dệt hàng sa-tanh đẹp, và ở bất cứ đâu, chúng ta cũng làm ăn phát đạt. Như vậy, chúng ta đã khơi nguồn cho sự hận thù ghen ghét và thiên hạ tàn sát chúng ta… Tại sao? Đó là điều tôi phân vân tự hỏi đêm ngày và bây giờ tôi tưởng là tôi đã bắt đầu hiểu.
Lịch không thể chịu đựng nổi câu hỏi của Đavít.
- Thiên hạ thù ghét chúng ta chỉ là ganh tị. Họ không muốn nhận biết Thiên Chúa; họ là những con người xấu không muốn trở nên tốt.
Đavít lắc đầu:
- Chúng ta đã cho họ là xấu, chúng ta là tốt.
Câu nói này đã làm phật lòng Lịch:
- Đavít, tại sao anh lại có thể cố tình giải thích kinh Tôrát một cách sai lạc như thế? - Lịch kêu lên, (nét nhìn của Lịch nghiêm nghị, giọng nói hăng hái). - Cha tôi có giải thích với anh như thế đâu? Không phải chúng ta tốt. Nhưng Thiên Chúa đã chọn chúng ta để chúng ta để cho thiên hạ biết rõ Thánh ý của người nhờ kinh Tôrát. Nếu chúng ta cũng như mọi dân tộc khác thì lấy ai để bảo vệ sự công chính và lòng nhân ái? Quả đất rồi đây sẽ thành của tội lỗi, của điều ác.
Đavít đáp, vẫn với lòng nhiệt thành ấy:
- Tôi không biết người đàn ông nào xấu… người đàn bà nào xấu.
Chàng nổi cáu vì thấy Lịch cũng bướng bỉnh như mình. Chàng liền nói:
- Nếu tôi phải nói ra tên của gã đàn ông xấu xa mà tôi biết thì chính đó là Arông, em của Lịch.
Câu nói này đã làm động lòng Lịch.
- Anh…anh dám nói thế sao? - Lịch hét lên.- Anh phải xấu hổ vì đã nói như vậy, anh có biết không, Đavít?
- Bởi vì nó là em cô có phải không?
- Không, bởi vì nó… nó… là người của chúng ta.
Đavít cười nhạt:
- Đấy, tôi nói có sai đâu: Sự công bằng sẽ không còn nữa ở cả cô cũng như ở mẹ tôi. Đối với tôi, một người tốt hoặc xấu không cứ gì Do Thái hay không.
Trước sự giận dữ của Đavít, Lịch đâm ra bối rối:
- Vậy Arông đã làm gì?
Đavít đứng dậy đi đến cửa, lưng quay về phía Lịch. Chàng nói:
- Tôi không thể nói điều ấy với cô. Nói ra chỉ bẩn tai cô.
Chàng nhìn chăm chăm ra khoảng sân rợp bóng tre.
- Tôi có quyền biết tất cả những gì mà em trai tôi đã làm. - Lịch nói.
- Nếu vậy thì cô nên biết, hắn đã làm một việc hết sức khả ố đối với một người đàn bà.
Lịch im lặng. Lí trí của nàng khuyên nàng im lặng, nhưng con tim của nàng phừng phừng tức giận Đavít. Một lần nữa Đavít lại quá lời, Lịch vừa giận dữ vừa kinh hoảng, nàng điên tiết quát:
- Người đàn bà nào?
- Tôi không nói đâu.
Đavít vẫn đứng nhìn ra sân, lưng quay về phía Lịch.
Con chó nhỏ ở đâu lò dò bước tới cửa vòng nguyệt, đối diên với Đávít. Nó đứng nhìn quanh với đôi mắt tròn xoe, buồn bã: cái lưỡi thè ra ngoài. Con chó nhỏ luôn luôn theo Trang bén gót, nó có vẻ nhút nhát chậm rãi theo sau nàng một quãng, hai mũi hít hít hơi hướm của Trang mà không cần phải thấy nàng.
Nhìn thấy con chó, Lịch biết Trang đnag ở đâu đấy không xa và nàng hiểu ngay như bùi nhùi bén lửa.
- Tôi biết người đàn bà ấy là ai rồi. Đó là con Trang!
Đavít rủa thầm con chó. Nhưng biết nói sao? Chàng quay trở lại, ngồi xuống, vỗ tay vào mặt bàn, nói lớn:
- Đúng! Đó là Trang, một con a hoàn trong nhà mà Arông làm khách.
Bốn mắt gặp nhau, cùng tức giận như nhau, không ai chịu nhịn ai.
- Nếu là một con bé khác thì anh chẳng lấy làm điều!
Lịch rít lên như điên. (Nàng chỉ còn một ước muốn là làm cho Đavít càng đau đớn càng hay). Tôi biết tại sao anh không thèm đoái hoài gì đến tôi rồi! Con Trang đã làm cho anh hư hỏng, trụy lạc, suy nhược đến tận xương tủy. Nó còn cướp luôn cả linh hồn anh nữa!
Lịch không có thể nói tiếp. Nàng cố nuốt nước mắt xuống nhưng nó vẫn trào ra đầm đìa. Nàng tức giận vì không tự chủ được.
Cơn giận của Đavít xẹp xuống ngay.Nhìn thấy khuôn mặt đẹp đẽ của nàng đnag đầy nước mắt thất vọng, chàng động lòng thương:
- Không phải, không phải Đavít yêu Trang đâu, Đavít yêu một người…một người khác, chắc Lịch chưa từng thấy bao giờ.
Như vậy, rốt cuộc con tim đã chọn lựa, lí trí vẫn nín thinh.
Lịch ngừng khóc. Nàng nhìn sững Đavít, mắt không thần sắc, đôi môi run rẩy, trong khi câu nói của Đavít xuyên sâu vào tim nàng. Nàng cảm nghe như chúng gầm lên trong tim nàng, ngấm vào mạch máu nàng như thuốc độc, nàng phát điên lên. Nàng vùng dậy, giật cây gươm treo trên tường, vung chém xuống bàn. Lưỡi gươm cong cong sắc bén đã trúng vào đầu Đavít. Chàng đưa tay lên ôm đầu và cảm thấy máu đang phun ra. Chàng té nhào xuống nền gạch… Lịch cúi xuống nhìn chàng, tay nàng vẫn lăm lăm cầm cây gươm.
Con chó nhỏ đứng nhìn, rồi bước từng bước một đến bên chủ của nó, đưa mũi hít hít và thè lưỡi liếm máu. Nó tru lên.
Tiếng chó tru đã làm cho Lịch bừng tỉnh, thanh gươm rời khỏi tay nàng. Nàng quỳ xuống bên Đavít, đưa cánh tay áo chùi máu cho chàng và rên lên.
- Ôi, Chúa! Sao con có thể làm thế này? (Nàng bật khóc, cơn giận tiêu tan). Ôi! Biết làm sao bây giờ?
Con chó vẫn còn tru.
Trang có thói quen nghe tiếng con chó nhỏ. Nếu không thấy con chó mà nghe tiếng nó tru lên thì nàng vội vã đi tìm. Lần này tiếng tru có vẻ ai oán giận dữ của con chó đã xuyên qua các hoa viên vẳng đến tai Trang. Nàng giật mình đứng dậy hướng theo tiếng chó tru, bước nhanh đến phòng Đavít. Đến cửa, nàng thấy Lịch đang quỳ gối, nước mắt đầm đìa, lưỡi gươm nằm tênh hênh trên nền gạch:
- Trời ơi! Sao cậu tôi bị thương như thế này?- Trang vừa kinh hoảng kêu lên, vừa chạy vào phòng.
Lịch đứng dậy, hai má ửng đỏ, nghẹn ngào nói:
- Chính tôi. Tôi đã làm…
- Cô! - Trang khẽ nói (và nhìn Lịch bằng đôi mắt dữ tợn) - Hãy phụ với tôi đỡ cậu ấy lên giường và đi tin với bà chủ gấp.
Nàng ra lệnh cho Lịch như chính cô ta là một a hoàn mà nàng là cô chủ-Lịch líu ríu vâng lời. Hai thiếu nữ mang chàng vào phòng ngủ, đặt nằm trên giường. Đầu chàng vẻo sang một bên, máu phun ra như xối, chảy cả xuống mang tai.
- Anh ấy chết rồi sao? - Lịch kêu lên.
- Không, chưa chết đâu. - Trang đáp một cách chắc chắn. - Hãy để đấy cho tôi, cô nên đi kiếm bà chủ đi.
- Tôi không thể, tôi không dám. - Lịch rên rỉ nói.
Trang quay lại:
- Tôi đi kiếm bà chủ bây giờ để cho cậu ấy chết sao?
Biết trả lời sao? Lịch khóc lớn, hấp tấp bước ra khỏi phòng. Đoạn nàng dừng lại, khóc lóc, cúi xuống đất. Thanh gươm nằm sóng sượt trên nền nhà; con chó nhỏ nằm một bên như canh giữ tang vật. Nhưng Lịch không để ý gì con chó cả. Nàng lượm cây gươm lên, cứa vào cổ. Lịch quỵ ngã, thanh gươm rơi xuống nền gạch kêu một tiếng keng. Con chó nhỏ sủa dữ dội.
Từ phòng ngủ, Trang nghe tiếng bước chân Lịch ngừng lại. Nàng đang đặt tay lên ngực Đavít, lắng nghe quả tim chàng đập. Một sự vắng lặng tuyệt đối, Trang chờ đơi. Rồi Trang nghe tiếng chó gầm gừ. Sau giây lát, nàng nghe tiếng kim khí rơi đánh xoảng. Nàng chạy ra cửa có che màn. Nàng thấy Lịch nằm sóng sượt trên nền gạch, cổ bị cắt một đường, tóc bê bết máu, thanh gươm nằm một bên, và con chó sủa không ngớt.
- Xuỵt! Im đi. - Trang bảo con chó.
Nàng chạy ra khỏi phòng như bị ma đuổi. Nàng đã bảo Lịch đi báo tin cho bà Era, nhưng chính nàng, nàng lại không có can đảm làm việc đó. Nàng nhận thấy đi tìm thím Hoàng thì tốt hơn. Nàng sẽ không nói cho ai hay trước khi báo tin cho người tỳ nữ lớn tuổi ấy.
Trang gặp lão Hoàng trước tiên.Ông ta đã nhân lúc mọi người trong nhà đang say ngủ trong không khí nóng bức buổi trưa, để kéo lên một quả dưa treo ở giếng phía bắc. Ông bổ ra và ngồi ở hàng hiên cạnh bếp là nơi khuất tịch nhất để ăn cho mát miệng. Trong lúc lão Hoàng đang ăn thì Trang đi tới. Ông sợ bị Trang rầy vì tội ăn vụng, nhưng nàng không nói gì mà chỉ hỏi:
- Thím Hoàng đâu rồi?
- Đang ngủ đằng kia, dưới rặng tre.
Ông ta hất hàm ra dấu.
Trang hấp tấp bước đi; nàng thấy mụ Hoàng ngồi trên một cái ghế đẩu, thiu thiu ngủ, đầu gục xuống gối.
Trang gọi khẽ với một giọng thúc bách:
- Thím Hoàng! Thím Hoàng!
Là một gia nô trung thành, mụ Hoàng luôn luôn tỉnh ngủ. Mụ thức giấc ngay và đăm đăm nhìn Trang, nhưng vẫn ngái ngủ. Trang lắc lắc hai vai mụ:
- Thím Hoàng, có người chết. Cô gái Do Thái và tiểu chủ cãi vã nhau, cô ta đã phóng kiếm chém vào đầu cậu ấy.
- Trời đất! - Mụ hoàng khẽ kêu lên. (Mụ vùng đứng dậy).- Ở đâu? - Mụ hỏi.
- Ở đằng phòng cậu Đavít: Cô ta đã dùng gươm cứa vào cổ.
- Trời! Cả hai…chết cả sao? - Mụ Hoàng hốt hoảng hỏi.
- Không…chỉ cô ta chết thôi.
- Ông bà chủ đã biết chưa?
- Tôi có phải đi trình cho ông bà chủ biết không, thím muốn sao…?
Hai người nhìn nhau, họ phản ứng thật nhanh:
- Tôi chạy đến phòng cậu Đavít, còn cô, cô đi trình cho ông bà chủ biết những gì đã xảy ra.
Mỗi người đi mỗi ngả. Trang chạy đến trình bà Era trước, nhưng đồng thời nàng gặp luôn ông ở đấy.
Thấy Trang hớt ha hớt hải chạy vào, bà Era thét hỏi:
- Có chuyện gì vậy?
- Hãy bình tĩnh, Naomy!
Ông Era đứng dậy. Trang không thể nào nói nên lời, nàng đưa tay ra hiệu cho ông bà Era đi theo nàng.
- Đi, đi… cả hai người. Ôi, trời…!
Nàng vừa chạy vừa khóc. Hai ông bà nhìn nhau sửng sốt, rồi hấp tấp chạy theo Trang.
Hai ông bà rụng rời khi thấy Trang chạy về phía sân nhà của Đavít.