← Quay lại trang sách

- 11 -

Trang tự hỏi đời nàng sẽ ra sao trong gia đình ông Era, khi bà Era đã qua đời. Vừa ở nghĩa trang về, nàng trao lại bé Ba cho vú của nó. Sự lo nghĩ đầu tiên của nàng dành cho Đavít và ông Era. Quí Lan mệt mỏi, rên rỉ, vì đôi chân làm cho nàng đau đớn và nàng thấy cần ăn uống gì cho đỡ mệt. Cả hai đứa con đầu của nàng cũng vậy, chúng nó khóc vì đói. Trang giục mấy người tôi tớ lo cho Quí Lan và mấy chú nhỏ. Còn thím Hoàng và nàng thì lo cho ông Era và Đavít.

Đi đưa đám về, hai cha con thui thủi vào phòng riêng của mình. Trang ra dấu cho thím Hoàng vào phòng ông Era còn nàng đi đến phòng Đavít. Không biết nàng sẽ trông thấy chàng ra sao? Chàng sẽ còn đầm đìa nước mắt chăng! Đến cửa phòng nàng khẽ ho và rất đỗi ngạc nhiên vì giọng nói bình thản của Đavít khi chàng bảo nàng vào. Chàng cởi bỏ áo tang bằng vải thô để lộ cái áo dài màu lục sẫm mà chàng thường mặc trong những dịp long trọng. Khi chàng quay lại phía Trang, nàng thấy đôi mắt ráo hoảnh nhưng vẻ mặt nghiêm nghị.

- Trang vào đi! - Chàng nói giọng từ tốn. - Tôi cũng đang định cho tìm thì Trang đến đây. - Chàng ngồi xuống và nhìn nàng rất trìu mến. - Trang đừng đợi tôi bảo mới ngồi. Chắc Trang dư biết địa vị của Trang trong gia đình này.

Nàng ngồi xuống và lắng tai nghe.

- Nếu tôi thấy bằng cách nào để khỏi cần đến Trang, tôi đã không bị lương tâm cắn rứt. Đáng lẽ tôi phải tìm cho Trang một người chồng. Cả nhà này đều tỏ ra ích kỷ đối với Trang, nhất là tôi. Sự thật thì nhà này không có Trang chẳng khác nào thuyền không lái.

- Thưa cậu, tôi không muốn lấy chồng.

- Trang nói vậy, nhưng như thế cũng không giải trừ được bổn phận của tôi.

Trang không muốn kéo dài vấn đề trên. Nàng hỏi:

- Hồi nãy, cậu định cho tìm tôi để dạy bảo tôi điều gì?

Bất thần Đavít đứng lên, đi về phía cửa lớn và nhìn ra ngoài. Mùa đông gần tàn và mùa xuân sắp đến. Không khí từ ngoài vườn lùa vào êm dịu lạ!

- Tôi định viễn du một chuyến. - Chàng nói.

Trang sửng sốt kêu lên:

- Viễn du! Cậu đi đâu vậy?

- Chắc Trang còn nhớ mẹ tôi và tôi đã dự định đi tây du để viếng thăm quê cha đất tổ. Nay tôi ao ước được thực hiện cuộc viễn du ấy một mình.

Chàng dừng lại, rồi bất thần nói thêm:

- Có một điều gì đó làm cho tôi không yên tâm.

- Một điều gì làm cho cậu không yên tâm! - Trang khẽ nhắc lại.

Nàng cảm thấy bàng hoàng trong lúc đáng lẽ nàng phải tỉnh táo hơn hết.

- Trong thâm tâm tôi cảm thấy như đã phạm một tội lỗi. Điều đó vẫn theo đuổi tôi từ ngày Lịch mất đi. Nay mẹ tôi cũng đã mất rồi, tôi muốn thực hiện chuyến đi này để mẹ tôi và Lịch được vui lòng nơi chín suối.

- Vậy cậu bỏ lão gia cho ai?

Trang cảm thấy bối rối nhưng nàng tự nhủ phải cố bình tĩnh.

- Thân phụ tôi không cần tôi. Ông có đàn cháu nội làm bạn rồi. Đôi lúc tôi tin là ông gần gũi mấy đứa cháu hơn gần gũi tôi. Vả lại trong nhà còn có Trang, và thím Hoàng.

- Nhưng con của cậu, vợ của cậu… làm sao tôi cáng đáng nổi một trách nhiệm như vậy!

- Trang vẫn cáng đáng bằng mọi cách, dầu tôi ở nhà hay đi vắng.

Trang không thể giấu nỗi lo sợ của mình, nàng nói:

- Nếu cậu rủi lâm nạn dọc đường thì sao? Nếu cậu bị… Nếu cậu bị hạ sát!

Nàng hồi tưởng thanh kiếm sắt bén đã giết hại biết bao người Do Thái tại những xứ khác, và ngay tại đây, trong nhà này, nhưng nàng không thể nói ra – lão Hoàng đã đem thanh gươm đó ra sông và ra sức liệng thật xa xuống dòng nước chảy xiết, đục ngầu.

- Rất nhiều người đã bị tàn sát - Đavít nói - không có lý gì tôi lại dám đương đầu với những hiểm hoạ như vậy.

Trang còn biết ăn nói làm sao đây? Nàng rất muốn la lên bảo chàng ở lại vì nàng, chàng là nguồn sống của nàng và nếu chàng ra đi không còn trở về nàng không thể sống được! Nhưng nàng không dám. Còn lâu Đavít mới nghĩ đến nàng lúc này. Lòng ghen tuông đã dập tắt sau khi Lịch chết lâu nay lại bừng dậy. Nàng đã quên Lịch từ lâu nhưng nay hình ảnh mỹ miều của cô gái Do Thái lại xuất hiện trong ký ức nàng. Đavít còn nhớ vẻ mỹ miều ấy chăng? Trang tự hỏi có nên nhắc lại tên Lịch không, nhưng nàng đã tránh điều đó. Nếu Đavít đang nghĩ đến Lịch, nhắc tên Lịch thì có khác gì đưa Lịch trở lại phòng này mà hiện giờ chỉ có hai người đối diện. Thôi cứ để cho Lịch chết vĩnh viễn! Nhưng sự ràng buộc mạnh dường nào để Lịch vượt khỏi nấm mồ mà bám chặt như thế này vào người sống? Không đáp nổi câu hỏi của chính mình, Trang duyên dáng đứng lên và nói với giọng làm ra vẻ thản nhiên.

- Mọi việc đều tuỳ theo ý cậu.

Nàng rất ngạc nhiên thấy Đavít nổi giận:

- Đừng gọi tôi như vậy, Trang! Cứ gọi tên tôi, ít ra là trong những lúc chỉ có hai đứa chúng mình. Trong suốt đời, chúng mình đã không coi nhau như anh em sao?

Không có gì có thể làm cho nàng đau đớn hơn câu nói đó, nhưng Trang vẫn thản nhiên:

- Tôi cố gắng nhớ như vậy. Cậu chỉ nên lên đường nếu cậu không thể làm cách nào khác. Nếu việc cậu ra đi không tránh được thì tôi sẽ cố gắng hết mình trong lúc cậu vắng mặt.

Nàng ra khỏi phòng, không gọi đến tên Đavít. Có thể sau đây nàng có thể gọi tên chàng, nhưng lúc này thì không, khi mà chàng đang nghĩ đến Lịch. Nàng trở về phòng riêng và ở đó rất lâu. Nàng tự hỏi bây giờ phải làm gì. Người ta gọi nàng nhưng nàng đã núp mình lánh mặt sau mành giường. Nàng núp ở đó cho đến khi nàng hình dung được các sự việc sáng sủa hơn. Nàng sẽ đi cầu cứu ông Khương Sơn. Ông ta sẽ giúp nàng. Không đời nào ông ta cho chàng rể quí của ông thực hiện chuyến tây du này một năm sau mới trở về hoặc có thể không bao giờ trở về nữa. Trang thực hiện ngay ý định. Nàng đến nhà ông Khương Sơn bằng ngõ tắt an toàn mà từ sau ngày đám cưới Đavít nàng chưa hề dùng trở lại.

Ông Khương Sơn đang ở nhà vì ông ta cảm thấy mệt mỏi sau đám tang của bà Era. Ngồi trong ghế bành, ông đang nhấp rượu, mắt đăm đăm nhìn than hồng trong chiếc lồng ấp nhỏ mà ông đã bảo đem đến vì vẻ sang trọng hơn là vì để được sưởi ấm. Trang liền được đưa vào hầu vì ở đây ai cũng biết nàng là tỳ nữ của Quí Lan.

- Kính thưa lão gia! - Trang thỏ thẻ.

Ông Khương Sơn ngước mắt lên, nhìn thiện cảm với cô gái mặc áo lam mà ông đã nhìn thấy bên cạnh Quí Lan trong đám tang, bồng trên tay bé Ba, cháu ngoại của ông.

- Con ngồi nói chuyện, khỏi cần phải đứng như vậy vì là chỗ quen biết từ lâu. Con còn nhớ chăng hôm con đến đây gặp ta lần đầu tiên bên hồ cá vàng?

Nhưng ông không nói ra rằng ông trông nàng đẹp lắm. Thiếu nữ hồi xưa nay đã trở thành một thiếu phụ kiều diễm và đầy tự tin. Đôi mắt đã mất đi vẻ dí dỏm cũ nhưng thay vào đó là một vẻ hồn nhiên trông rất khả ái. Không ai có thể cho nàng là một nữ tỳ vì nàng vượt hẳn lên trên giai cấp của nàng.

Ông Khương Sơn hỏi:

- Con muốn nói với ta điều gì?

Trang ngồi xuống rất duyên dáng và vòng tay trước ngực. Nàng không nói ra rằng nàng trông ông già đi nhiều. Ông gầy hẳn đi, da mặt nhăn nheo và chòm râu thưa lốm đốm bạc. Nhưng vóc dáng vẫn như xưa. Trang biết con cái của ông ta đều đã thành gia thất. Lệ Lý, cô gái út, con người vợ lẽ của ông đành phải kết hôn với con trai một tiểu thương tầm thường. Những gia đình giàu có không muốn con họ cưới làm vợ con gái của một nàng hầu đã trốn theo trai. Ông Khương Sơn rất buồn phiền vì Lệ Lý là con gái cưng của ông ta.

- Kính thưa lão gia, chính vì mợ con mà con đến đây. Hôm nay ở nghĩa trang về, con mang thức ăn nóng vào để cậu con dùng, con thấy cậu con tinh thần rất dao động. Khi con hỏi, cậu con cho biết rằng cậu con đang định tâm một mình thực hiện cuộc viễn du mà ngày trước đáng lẽ cậu con đã cùng bà con thực hiện để về thăm quê cha đất tổ. Con không nói gì cả, nhưng con đến đây để trình lão gia biết. Chuyến đi kéo dài hàng năm, nhưng đó chưa phải là điều tệ hại. Dọc đường đầy dẫy những người Hồi giáo tàn bạo. Ông Cao Liên đã nói cho bà con biết điều đó trước khi bà con mất. Nếu cậu con đi, có thể nguy đến tính mạng. Con nghĩ đến mợ con, đến đàn con thơ dại của mợ con.

Ông Khương Sơn rất đỗi ngạc nhiên:

- Ta không hiểu được vì sao Đavít có thể nghĩ đến việc về thăm quê hương trong khi chính thân phụ nó lại tránh thực hiện cuộc viễn du đó?

Trang vận dụng hết can đảm để thêu dệt cả một câu chuyện rất tế nhị.

- Thân mẫu cậu con là người Do Thái trong lúc thân mẫu ông con là người Trung Quốc. Linh hồn của người mẹ tồn tại trong thân xác của người con.

Ông Khương Sơn chợt hiểu:

- Con nói tiếp đi.

Trang nhìn xuống một cách khiêm tốn. Câu chuyện do nàng thêu dệt chỉ mới bắt đầu.

- Thưa lão gia, còn có một lý do khác nữa. Con không muốn xúc phạm bất cứ ai… Nhưng có lẽ lão gia còn nhớ người thiếu nữ đã đính hôn với cậu con ngày trước…

- Có phải cô…

Ông Khương Sơn lấy ngón tay trỏ chỉ vào cổ mình.

- Dạ, chính cô đó.

- Đavít… ờ… yêu cô ta sao?

Ông Khương Sơn cảm thấy ghen thay cho con gái mình, nhưng ông không để lộ ra.

Tuy vậy, Trang đã thừa hiểu cảm xúc của ông Khương Sơn. Nàng ngập ngừng nói:

- Con không nói cậu con yêu cô ta. Con có thể nói là cậu con không yêu cô ta vì chính lúc đó cậu con đã mê mệt mợ con. Nhưng cô ấy và mợ con đã cạnh tranh nhau rất mãnh liệt để chiếm đoạt trái tim của cậu con. Cô gái Do Thái ngăn cản cậu con yêu một cách trọn vẹn mợ con, còn mợ con ngăn cản cậu con yêu cô gái Do Thái mà bà Era muốn chọn làm nàng dâu.

Ông Khương Sơn chăm chú theo dõi câu chuyện.

- Cô ta đẹp hơn Quí Lan chăng?

Trang suy nghĩ một lát và trả lời:

- Thưa không, nhưng đối với cậu con, cô ta cũng như bà Era, có một quyền lực huyền bí mà cậu con vừa trìu mến vừa ghét bỏ. Lúc bà con còn sinh thời, cậu con chống đối lại và giữ được bản ngã của mình. Nhưng nay bà con đã mất, cậu con nghĩ đến cô kia và cậu con có một mặc cảm tội lỗi tuy mơ hồ nhưng đủ sức làm cho cậu con mất ăn mất ngủ.

- Chuyến viễn du mà Đavít muốn thực hiện liên hệ như thế nào với những điều con vừa kể?

- Thưa, bà Era và cô Lịch cả hai đều muốn rời bỏ Trung Hoa để về quê cha đất tổ.

Ông Khương Sơn im lặng. Ông nhớ lại tất cả những gì ông biết được về dân tộc Do Thái, về ma lực của lòng tin thu hút họ trở về dải đất cằn cỗi khi xưa thuộc về họ. Lẽ dĩ nhiên phải tránh cho con gái khỏi đau khổ, khỏi trở thành goá bụa, khỏi cô đơn trong tuổi thanh xuân với đàn con thơ dại, ông Khương Sơn phải hành động để bào vệ hạnh phúc của con cháu ông.

- Tinh thần cậu ấy đang dao động. - Ông Khương Sơn vừa vuốt râu vừa nói. - Cũng là lẽ tự nhiên. Cậu ấy chưa khi nào đi xa. Đàn ông trưởng thành thường mất kiên nhẫn vài năm sau khi thành hôn. Họ biết tất cả những gì sở hữu và ham muốn thấy được những cái mới lạ hơn. Được rồi, cậu ấy sẽ đi du lịch một chuyến, con sẽ đi theo với mợ con và cả các cháu ngoại của ta. Ta sẽ cho các cỗ xe lừa của ta túc trực sẵn để đợi các con sau khi các con giã từ đường thuỷ, ta sẽ cho cả ban nấu bếp đi theo và các con sẽ viếng thăm Bắc Kinh. Ta sẽ nhờ quan Tổng đốc cho vài tên lính để thị uy đối với bọn gian tặc. Ta sẽ bàn định với ông Era và ông ta sẽ cho Đavít hay là chuyến đi này cần thiết cho vấn đề thương mại của chúng ta, đó là điều dĩ nhiên.

Ông Khương Sơn rất vui mừng vì đã tìm được một kế hoạch lưỡng toàn. Đầu ông lắc lư qua lại theo đà tiến triển của trí tưởng tượng:

- Ta sẽ tìm những vật tân kỳ để Đavít nhân danh ta mà dâng lên lưỡng Hoàng Thái Hậu. Ta sẽ viết thư nhờ bạn bè ta ở Bắc Kinh thiết tiệc đãi đằng rể ta và ta cũng sẽ yêu cầu gánh hát danh tiếng Lệ Chi Viên trình diễn những tuồng đặc sắc dành cho Đavít và bạn bè mới của Đavít. Ai mà không cảm thấy hạnh phúc ở chốn đế đô đẹp nhất thế giới?

Ông Khương Sơn càng lúc càng vui thích. Vừa xoa hai tay với nhau vừa hơ trên chiếc lồng ấp.

- Mọi việc đều tốt đẹp, Hoàng triều bấy lâu tỵ nạn hồi kinh, đế đô đang yến tiệc vui mừng. Hiệp ước triều đình đã được ký kết với người da trắng liên quan vấn đề nha phiến Ấn Độ và những kẻ theo ngoại đạo nổi loạn tại mấy tỉnh miền đông cũng đã qui hàng. Chính là lúc hội hè vui chơi tại kinh kỳ và cũng là dịp buôn bán phát đạt…

Ông Khương Sơn vỗ đùi đánh đét ra chiều hớn hở vô cùng, Trang cũng vui mừng khôn xiết. Nàng đứng lên:

- Dự định của lão gia thật là do trời xui khiến. Con xin đợi lệnh của lão gia để tuân hành.

Nàng cúi chào và lui ra.

Còn lại một mình, ông Khương Sơn vuốt râu nhíu đôi lông mày và cúi đầu xuống gần cái lồng ấp. Con gái yêu của ông có được hạnh phúc chăng? Đó là điều ông không hề nghi ngờ vì Quí Lan sinh năm một. Một đôi lần ông hỏi ý kiến vợ, nhưng bà Khương ít khi nghĩ đến một người con gái đã xuất giá, đã thuộc về một gia đình khác, “nữ nhân ngoại tộc” như bà thường nói.

Ông Khương Sơn cảm thấy biết ơn Trang. Ông tự nhủ: “Nàng ở đâu thì ở đó mọi việc đều tốt đẹp”.

Do sự sắp đặt này, Trang đã thuyết phục được Đavít vào mùa xuân năm ấy, vào một ngày tốt trời, chàng, vợ con chàng và nàng dùng một chiếc thuyền mành giương buồm hướng thẳng tới Bắc Kinh. Đầy tớ gái, đầy tớ trai và hai người đầu bếp đều do ông Khương Sơn chọn lựa vì họ sinh quán ở Bắc Kinh và van xin được theo hầu hạ Đavít để tiện dịp về thăm nơi quê cũ. Lính của quan Tổng đốc đã dùng một chiếc thuyền nhỏ hơn đi trước thuyền Đavít.

Ông Era nhìn các người thân yêu xa dần, lòng bùi ngùi thương cảm. Nhưng ông không dám bỏ công việc làm ăn. Ông Cao Liên sắp lên đường đi về phía tây với đàn lạc đà chất đầy hàng hóa Trung Quốc mà ông Era chọn toàn thứ hảo hạng. Lợi dụng cuộc đình chiến với người da trắng, ông Era cũng muốn yêu cầu hai người thân tín đem đến bán tại Ấn Độ một số hàng hóa. Ông Khương Sơn thôi thúc – Nếu hàng Tây phương không về kịp, chậm lắm là đầu mùa đông thì mất lời nhiều lắm. Ông Era cố gắng lo liệu. Hai vợ chồng lão Hoàng ở lại hầu hạ ông Era. Ông Cao Liên cũng đến ở chung cho đến ngày lên đường. Đavít cam kết sẽ không vắng nhà quá lâu ngày và ông Khương Sơn hứa mỗi tối sẽ đến dùng cơm với ông Era cho có bạn. Cảnh chia ly dù bịn rịn đến đâu rồi cũng kết thúc.

Trong thuyền lúc đầu thật lộn xộn. Trẻ con khóc thét lên vì sợ hãi. Bọn trạo phu hò hét, chửi rủa, người chèo, kẻ chống cố sức đưa chiếc thuyền to lớn ra giữa vời và tiếp tục chèo chống cho tới khi buồm bắt gió.

Mỗi đầy tớ gái dỗ dành một đứa trẻ, đứa nhỏ nhất ngậm chặt vú người nhũ mẫu mới yên lặng. Trang lo săn sóc cho Quí Lan từ chỗ ngồi cho thoải mái đến mọi thứ khác như nước trà, bánh ngọt. Nàng mở các gói lấy ra nào gối, nào nệm, nào lồng ấp… đủ thứ cần dùng để tạo sự tiện nghi tối đa cho gia đình Đavít trong thuyền. Nàng không quên hỏi các đầu bếp về những thức ăn trong ngày. Khi đã chắc chắn mọi việc đâu vào đó, nàng mới yên tâm và đưa mắt quan sát xung quanh để xem cách bố trí chỗ ở trên thuyền.

Mũi và lái thuyền cao hơn mực nước sông rất nhiều. Đàng mũi sơn hình hai con mắt thật to và đàng lái sơn hình đuôi cá. Bọn trạo phu và vợ con ở chen chúc trong hai khoang chật hẹp phía sau lái. Mỗi đứa trẻ đều có một sợi dây thắt lưng buộc vào mạn thuyền để lỡ có rơi xuống nước, mẹ nó có thể kéo lên dễ dàng. Trang cũng muốn áp dụng cách đó với mấy đứa con của Đavít. Nàng lấy hai cuộn dây gai do người trạo phu trao cho, nhưng mấy đứa con của Đavít khóc thét lên, không chịu để cho nàng buộc dây vào lưng chúng, nàng đành nhượng bộ và căn dặn mấy đứa tớ gái phải nắm luôn thắt lưng chúng không được để chúng tự do dù trong một phút. Hai người tớ gái cả ngày chỉ lo có mỗi một công việc ấy và Trang cám ơn trời đất vì con bé Ba chưa biết đi.

Khoang bếp kế liền khoang bọn trạo phu và cũng là chỗ ngủ của mấy người đầu bếp. Khoang này tuy nhỏ nhưng đủ chứa mọi vật cần thiết và hai gã đầu bếp đang lo việc nấu nướng.

Trước khoang bếp là hai phòng ngủ dành cho gia đình Đavít và một phòng khách lớn mà mọi người đều tụ tập ở đó ban ngày. Ban đêm Trang phải ngủ ở phòng khách, vì mấy đứa nhỏ cùng nhũ mẫu của chúng chiếm một phòng ngủ còn phòng kia dành cho vợ chồng Đavít. Như thế đối với Trang thật khó chịu, nhưng nàng tự nhủ khi nào muốn vắng vẻ một mình, nàng sẽ lẩn trốn dưới mái cửa sổ của phòng khách. Ở đó cầu thuyền rất hẹp, các trẻ nhỏ không khi nào được bén mảng đã đành mà Quí Lan cũng không dám mạo hiểm đến đó. Thành thử chỗ này là chỗ riêng của Trang. Trước phòng khách là một vài cầu rộng, nền cầu bằng ván phủ một lớp sơn dầu đặc biệt chịu đựng được nắng mưa. Loại sơn này là sản phẩm của ngư cảng Ninh Phố nổi tiếng về kĩ nghệ đóng tàu và thuyền hàng hải.

Đây là giai đoạn đầu của một cuộc hành trình kéo dài nhiều ngày và Trang trông mong tìm thấy ở đây một niềm vui thích. Nàng rất bận rộn vì phải lo lắng cho mọi người, nhưng cũng còn nhiều giờ để mơ mộng một mình dưới mái cửa sổ phòng khách, nơi mà chỉ có bọn trạo phu mới quấy rầy nàng mỗi khi chúng đi từ mũi ra sau lái hay ngược lại, hoặc khi không có gió chúng phải chèo kéo. Trang sợ Đavít quen sống với nhà cửa thênh thang, vườn tược rộng rãi, khó mà thích ứng với cuộc sống trên thuyền giữa mấy đứa con ồn ào và bà vợ thường hay bẳn gắt. Nhưng những lo âu ấy chóng tiêu tan.

Đavít rất lấy làm thích thú quan sát phong cảnh hai bên bờ. Có khi thuyền tiến chậm đến nỗi Đavít có thể lên bờ dạo chơi hàng nhiều dặm đường trong một vùng mà chàng chưa hề quen biết. Khi bọn phu kéo thuyền dừng lại nghỉ ngơi ăn uống, chàng cũng lợi dụng dịp đó để dùng bữa trên bộ. Dân trong vùng rất nhã nhặn, họ chỉ hỏi chàng từ đâu đến và khi nghe Đavít nêu tên thành phố chàng ở, họ rất lấy làm ngạc nhiên.

- Chúng tôi không ngờ ở đó lại có người ngoại quốc.

- Tôi không phải là người ngoại quốc, tôi sinh trưởng ở đó và thân phụ tôi cũng vậy.

- Nhưng tổ tiên ngài từ đâu đến?

- Xa lắm, từ bên kia núi non trùng điệp.

Và họ thỏa mãn với câu trả lời đó.

Đavít ít khi nói chuyện với Trang vì không gặp dịp. Không nói ra, nhưng cả hai người đều ngại. Quí Lan sẽ bất bình khi thấy chồng mình nói chuyện với một người nô tỳ ngoài những lúc cần thiết. Tuy thế, đôi lúc, khi Trang đã sắp xếp xong phòng ngủ cho Quí Lan và đến trình Đavít biết mọi việc đã sẵn sàng để chàng vào an nghỉ, chàng còn chần chờ chốc lát, nhất là gặp những lúc trăng tỏ.

Một hôm, chàng đã nói với Trang:

- Thân phụ tôi luôn luôn nhắc tôi rằng dân tộc Trung Hoa hết sức tốt đối với dân tộc Do Thái, nhưng nay tôi mới cảm thấy bề sâu của lòng tốt ấy. Dân cư ở trên bờ sông không hề quen biết tôi, tuy vậy họ tiếp đón và mời mọc tôi vào nhà họ. Tôi không ngờ được họ đối đãi ân cần đến thế.

- Tứ hải giai huynh đệ. - Trang mượn ngôn ngữ các nhà hiền triết để đáp lại.

Đavít lắc đầu.

- Những ngôn ngữ tốt đẹp nơi nào cũng nghe được nhưng những hành động tốt đẹp không phải nơi nào cũng thấy được.

Chàng lui vào phòng an nghỉ và Trang đứng lại một mình dưới ánh trăng thanh.

Vùng này khá đẹp. Dọc bờ sông lúa non mới mọc xanh rờn và xung quanh các làng mạc đào đang độ trổ bông, ban ngày màu hồng, xế chiều lóng lánh như xà cừ. Xa xa là đồi núi và dòng sông lượn khúc như con rắn vàng dưới ánh trăng. Thật là một nơi đất tốt dân lành!

Thật ra cũng có bọn đầu trộm đuôi cướp, nhưng chúng bóc lột mọi người không phân biệt màu da hay bề ngoài các nạn nhân của chúng. Gia đình Đavít khỏi sợ nguy hiểm vì có lính nhà nước bảo vệ, và quan Tổng đốc còn cho cắm trên thuyền cây cờ hiệu để mọi người biết thuyền chở lễ vật ngư tiến mà không một ai dám đánh cắp.

Khi mọi nơi trong thuyền đều yên tĩnh, Trang vào phòng khách vắng vẻ và lấy mền gối ra để ngủ. Gió hiu hiu thổi, nàng ngủ một giấc ngon lành.

Cứ như thế, hết tỉnh này đến tỉnh khác, thuyền đã gần đến giao điểm sông Hoàng Hà và sông Đào. Gia đình Đavít không có ý định tiếp tục đi đường thủy đến tận Bắc Kinh nên đã cập vào một bến đã định trước, mọi người rời thuyền lên bộ, ở đó các xe lừa của ông Khương Sơn đã đợi sẵn.

Lắm lúc Trang luyến tiếc đường thủy, vì từ khi theo đường bộ, cả ngày phải ngồi trong xe trên những con đường gập ghềnh. Đến bữa, xe mới dừng lại để gia đình ăn vội ăn vàng rồi lại lên đường ngay. Đêm đến, gia đình vào quán bên đường để nghỉ ngơi. Trang bực mình vì không tìm đâu ra một quán trọ tươm tất. Ở đâu cũng vậy, khi thấy đoàn người đông đảo xuống xe, chủ quán vội vã tiến ra mời mọc, khúm núm, nịnh bợ và hứa sẽ cung phụng đầy đủ tiện nghi: nào cao lương mỹ vị để khách dùng, nào phòng rộng rãi sạch sẽ để khách nghỉ. Nhưng khi vào phòng, Trang thấy chán ngán. Nàng buộc dội nước sôi vào các giường gỗ trước khi cho trải mền chiếu ra. Vì sự bất lực của mợ chủ, mọi việc đều do Trang chủ động. Còn Đavít với tánh hiếu kỳ, đến một nơi nào chàng liền bỏ mặc gia đình để đi xem những điều mới lạ nơi đó.

Đoàn xe lừa sau bao ngày vất vả rồi cũng đến Bắc Kinh; lũ trẻ ngẩn ngơ vì cảnh vật, im lặng ngắm xem những bức tường thành cao màu xám mờ dần tận cánh đồng ven đô. Mọi người đều đã nghe nói đến cảnh tráng lệ của đế đô, nhưng chính Đavít cũng không ngờ Bắc Kinh đồ sộ đến thế. Họ vào thành; tường thành dày đến độ giữa ban ngày, từ khi vào đến khi ra khỏi cửa thành họ phải băng qua một vùng thiếu ánh sáng. Ông Khương Sơn đã viết thư trước cho chi nhánh của ông ở Bắc Kinh nhờ thuê sẵn nhà để đón gia đình Đavít. Họ đến đấy theo các đường rộng thênh thang mà Trang thán phục vẻ đẹp đến nỗi không thốt nên lời.

Ngôi vườn nhà này có tường chung quanh và bước vào cổng họ đã gặp ngay người nhà ông Khương Sơn túc trực để tiếp đón họ. Đavít và người nhà ông Khương Sơn trò chuyện tại phòng khách, trong lúc đó Trang đưa gia đình vào sân trong. Tôi tớ bắt tay vào việc ngay và không mấy chốc đâu đã vào đấy.

Lũ trẻ vui thích vì thấy lạ. Quí Lan dạo bước xem vườn và reo lên khi thấy những hòn non bộ với những cây mai lùn tịt. Cuộc nhàn du ở đất đế đô bắt đầu. Trang lo ngại nhất là về phần Đavít. Chàng sẽ thỏa nguyện với cuộc nhàn du này để khuây khỏa nỗi lòng chăng? Cho đến lúc Đavít tiễn đưa khách ra về xong trở lại với vợ con, nét mặt vui tươi rạng rỡ, nàng mới yên tâm.

Đavít nói với vợ:

- Mẹ chúng nó ạ, chúng ta hãy lưu lại đây một thời gian.

Quí Lan cũng vui lây nhìn chồng mỉm cười.

Bỗng nhiên Đavít tỏ vẻ âu yếm, tiếp:

- Cưng, anh trông em giống như hồi anh mới thấy em lần đầu.

Nghe Đavít nói vậy, Trang lẳng lặng lui ra, sợ có mặt nàng, sự bồng bột của tình yêu đang tái phát có thể bị giảm bớt. Nỗi buồn cố cựu và sâu sắc của cuộc đời tiềm ẩn tận đáy lòng, nàng vẫn còn cảm thấy, nhưng cố quên đi.

Từ đáy hồ sâu tối tăm và hôi hám, những đóa hoa sen trồi lên mặt nước. Nàng sẽ hái hoa.

Mùa xuân năm ấy, thành phố Bắc Kinh trở lại phồn thịnh như xưa. Dân chúng đã thoát khỏi sự sợ hãi và những thử thách của chiến tranh, vui mừng chào đón Hoàng triều hồi kinh.

Hoàng đế còn quá nhỏ nên lưỡng Hoàng Thái Hậu lãnh quyền nhiếp chính. Đông Cung Thái Hậu lớn tuổi hơn Tây Cung Thái Hậu. Nhị vị Thái Hậu xinh đẹp lộng lẫy. Đông Cung Thái Hậu rất yêu đời và đầy quyền thế. Người ta tiên đoán dưới triều đại của hai ngài quốc gia sẽ phồn thịnh, mỹ nghệ và thương mại sẽ được phát triển mạnh mẽ.

Đavít rất ưa thích thành phố Bắc Kinh. Nỗi buồn cố cựu đã tan biến, niềm vui thấp thoáng trong ánh mắt. Áng mây sầu không còn vương trên nét mặt nữa, sức sống mãnh liệt ngày xưa dồn ép trong người chàng nay đã hóa giải trở thành một nghị lực bền bỉ.

Một hôm, chàng nói với Trang:

- Tôi thích thành phố này. Trang xem kìa, đàn ông thật là cao lớn, đàn bà thật là xinh đẹp! Đối với họ, cô có vẻ như là con nít, Trang ạ.

Trang không cùng một nhận xét như thế. Nhưng thật sự thì người đàn bà ở đây cao lớn dềnh dàng hơn Trang, hai gò má cũng cao hơn.

Trang bĩu môi làm Đavít bật cười. Chàng nói:

- Thôi, nói chuyện khác vậy. Trang xem, đường sá ở đây rộng rãi biết bao… tôi thích thành phố rộng rãi, khoảng khoát như thế này.

Trang đồng ý nhận xét ấy. Ở đây đâu đâu cũng rộng rãi khoảng khoát. Đường phố đủ chỗ cho một hàng mười chiếc xe bò cùng kéo đi. Hai bên đường san sát các hiệu buôn, bán đầy những hàng hóa đẹp mắt và lạ kỳ. Dân chúng ai nấy đều lịch sự, xinh đẹp, tốt bụng và quân tử. Không có một chút gì là nhỏ nhen ti tiện cả. Tất cả sự vĩ đại của miền Bắc Trung Hoa đều được tóm thu lại trong thành phố này, nơi đây người ta sống bằng bánh mì thay gạo.

Thành phố thu hút khách bốn phương trời. Đavít thích chén tạc chén thù cùng bạn hữu của ông Khương Sơn trong các đại tửu điếm đẹp đẽ và sang trọng. Chàng đã ăn thịt quay trong một tửu điếm của người Hồi giáo; vui chơi giải trí mãi tới nửa đêm rồi ăn vịt quay tại một tiệm ăn khác và tuyên bố rằng cả hai món đều ngon cả, điều này chẳng lấy gì làm lạ. Thịt cừu non thật mềm, thái mỏng, ướp gia vị, xiên vào xiên tre và nướng trên lò than hồng, ăn thật nóng cùng bánh ướt và rau mùi, quả là một món ăn tuyệt diệu.

Tuy nhiên, vịt Bắc Kinh làm được nhiều món ăn khoái khẩu hơn. Hết đêm này đến đêm khác, khắp nơi trong các tửu điếm sang trọng ở Bắc Kinh, Đavít gặp những khách nhàn du vô tư lự, cười nói vui vẻ, nếu không biết, chàng có thể cho rằng đó là những kẻ vô công rồi nghề, nhưng thật ra ban ngày họ là những phú thương khôn ngoan sành sỏi.

Họ ngồi chung quanh một bàn tròn, nhấm nháp mấy món khai vị, cho đến khi người chủ tiệm mang đến cho họ xem những con vịt đã cắt cổ nhổ lông, nhưng chưa nấu nướng gì. Họ chọn một cặp thật béo, da thật vàng. Sau đó, người ta đem cặp vịt ấy quay trên lửa than, cho đến khi da nó vàng cháy, dòn tan và bóng mỡ. Thế rồi người ta dọn ra một dĩa da vịt, từng miếng cuốn tròn, dòn tan và béo ngậy ấy, kèm theo một dĩa bánh tráng mềm và một dĩa đông sương nấu với hoa sơn trà. Các thực khách múc một thìa đông sương đổ vào giữa miếng da vịt, bọc bánh bên ngoài để ăn. Món ăn này phải ăn thật nóng thật ngọt và nhắm với rượu đã hâm. Rồi những dĩa khác kế tiếp: thịt vịt quay trộn với cải bắp thật non, rồi thịt vịt nấu với nấm, với măng hoặc hầm với hạt dẻ; mỗi thức hương vị một khác và món nào cũng ngon cũng bổ. Món cuối cùng là món đầu vịt, người ta chẻ đầu vịt làm đôi, dọn ra dĩa để khách có thể thò đũa móc lấy bộ não để thưởng thức cái hương vị tuyệt hảo của nó.

Ăn uống như thế làm sao mà chán được? Tuy nhiên tại đây cũng có nhiều tiệm cơm chay để phục vụ các Phật tử, vì họ kiêng ăn thịt cá để cứu rỗi linh hồn. Người ta dọn cho họ ăn các thức ăn nấu toàn bằng rau đậu, và trình bày khéo đến nỗi người ta khó tin rằng trong các dĩa thức ăn này thiếu thịt cá. Mắt và lưỡi của các người mộ đạo ấy được thỏa mãn, họ vừa cứu rỗi được linh hồn vừa thưởng thức được mùi vị thịt cá mà họ kiêng cữ.

Khi khám phá ra điều ấy, Đavít tươi cười nói:

- Họ thông minh thật!

So với các thú vui hết sức mới lạ, hết sức tân kỳ mà Đavít đã thưởng thức tại Bắc Kinh thì những gì chàng đã được thụ hưởng từ thuở bé đến giờ quá đỗi nhỏ nhoi, ít ỏi. Ở đây người ta có thể vào xem tại các đại hý viện những gánh hát hay nhất, những phường xiếc, phường ảo thuật tài tình nhất, những ca sĩ nhạc sĩ lừng danh nhất, hoặc có thể gặp gỡ ở đây nhiều văn nhân, thi sĩ, các nhà bác học uyên thâm.

Trong khi chờ đợi vào triều yết nhị vị Hoàng Thái Hậu, tâm trí của Đavít được thảnh thơi, chàng thụ hưởng tất cả mọi thứ vui trong thành phố, nhưng không ích kỷ thụ hưởng một mình.

Buổi sáng, chàng bận chăm lo công việc thương mại mà cha chàng và ông Khương Sơn đã phó thác. Chàng đến tiếp xúc cùng các phú thương trong thành phố, ký kết các hợp đồng giao hàng và nhận phiếu đặt hàng của họ đặt mua các sản phẩm của Âu Châu và Ấn Độ.

Các nhà doanh thương ở Bắc Kinh đã từng nghe nói đến các máy móc, các thứ hàng len, hàng nỉ, đèn dầu và đồ chơi Tây phương mà họ không làm sao có được để bán, để dùng. Đặc biệt là các đồng hồ treo tường, ai ai cũng thích cả. Sau cái đồng hồ mạ vàng lớn mà Cao Liên đã mua để dâng lên Thái Hậu dạo nọ, nhiều chiếc cùng loại cũng đã được tiến cung, và Đavít nghe nói đến nay trong cung cả thảy trên một trăm chiếc như thế. Ngày xưa, đồng hồ được coi như vật ngự tiến, nay đã trở thành một sản phẩm mà người dân nào cũng có thể ao ước.

Đavít đã viết cho cha chàng như sau:

“Người ta có thể bán tại đây hàng ngàn chiếc đồng hồ, miễn là đừng quá đắt, phải có hình trạm trổ và mạ vàng bên ngoài. Tất cả hàng hóa ngoại quốc đều được dân chúng ưa thích. Họ có tất cả những gì tốt đẹp và sang trọng như gấm vóc, lụa là, hàng thêu, nữ trang và đồ gỗ tuyệt đẹp. Tuy vậy, họ vẫn ham chuộng các thứ gì tân kỳ. Họ dám bỏ tiền mua bất cứ vật gì hào nhoáng bề ngoài xuất xứ từ ngoại quốc”.

Công việc buổi sáng hoàn tất, buổi chiều Đavít dành cho vợ con. Đavít thường dắt vợ con đi chơi đó đây. Ngoại trừ các ngày trời mưa hoặc gió lớn mang những lớp mây bụi từ các miền sa mạc xa xôi về. Hai tay chàng dắt hai đứa con, đi dạo dưới bóng các hàng cây cổ thụ trong các đền chùa, đi xem hát, đến các cửa hàng bách hóa, hoặc xem các đạo sĩ biểu diễn pháp thuật. Vợ chàng thường cùng đi với chàng, bỡ ngỡ hết nhìn vật này đến vật khác một cách vui thích và tò mò. Cũng có đôi khi nàng bực bội vì hai chân nhức nhối, không đi bộ được nhiều.

Trang luôn luôn đi theo Đavít để săn sóc hai đứa trẻ. Đây là những ngày sung sướng nhất của đời nàng. Nàng cười nói luôn miệng và không ngớt nhìn khen vật này vật khác. Không bao giờ Trang tỏ vẻ mệt mỏi, trái lại luôn luôn khả ái; nàng đi chơi với Đavít đến mấy tuần liền, trong khi Quí Lan ở nhà vì đau chân.

Quí Lan đã làm quen với vợ của các phú thương và tham gia các cuộc đỏ đen cùng họ. Các bà hôm thì họp ở nhà này, hôm thì họp ở nhà khác để chơi bài mạt chược. Họ dùng kiệu có buông màn gấm để đi đó đi đây. Họ say mê bài bạc suốt ngày suốt buổi.

Lũ nô tì ưa thích các bà đến chơi bài, vì khi ra về để tỏ là người lịch sự, mỗi bà bỏ một ít tiền vào một cái bát để giữa bàn. Chúng nó chia nhau số tiền ấy. Trang không dự phần, vì nàng không phải hạng người ti tiện như chúng, nhưng bản tính không muốn làm mếch lòng ai, nàng khôn khéo nói:

- Vì tôi bận đi theo cậu chủ để săn sóc các em bé, tôi không thể cùng chị em phục vụ mợ chủ, nên tôi nghĩ nếu tôi chia phần vào đấy thì là một điều bất công.

Ngày trở về còn xa diệu vợi. Cái lý do chính là vì phải chờ nhị vị Thái Hậu chấp thuận cho vào triều yết để dâng lễ vật. Sự chờ đợi này có thể kéo dài hàng tháng, vì hai bà còn đang bận cho sửa sang cung điện. Trong thời gian triều đình lưu vong, cung điện đền đài bị hư hỏng rất nhiều, phải sửa chữa lại. Tây Thái Hậu đang còn ôm ấp trong lòng một chương trình thiết kế rộng lớn. Ngài muốn xây cất một hoàng cung mới, nhiều hoa viên, nhiều hồ cá, nhiều cầu đá và nhiều ngọn giả sơn tuyệt mỹ. Ngân khố quốc gia kiệt quệ vì chiến tranh chống người da trắng và vì cuộc nổi loạn của người dị giáo ở miền Nam.

Tây Thái Hậu đã ban hành thêm nhiều sắc thuế mới để lấy tiền xây cất cung điện mùa hè và chỉnh trang một cái hồ thật lớn để thưởng ngoạn. Ngài dự trù xây cất một nhà thủy tạ bằng cẩm thạch giữa hồ, có đủ chỗ cho tất cả các cung phi mỹ nữ yến ẩm và tham dự cuộc trình diễn của một đoàn hát có hàng trăm diễn viên. Các quan triều thần mất ăn mất ngủ khi nghĩ đến số tiền chi phí lớn lao đó. Dư luận trong dân chúng rất xôn xao về cái cuồng vọng ấy của Thái Hậu. Triều thần tâu trình cần phải canh tân quân lực Hoàng gia vì không thể lấy gươm giáo để địch lại với súng đạn.

Thái Hậu ngạo nghễ trả lời:

- Hễ hoàng triều được vinh quang rạng rỡ thì trăm họ cũng được nở nang mày mặt.

Câu nói ấy đã được loan truyền khắp nơi. Dân chúng chỉ cười khi nghe nói lòng kiêu ngạo và chí cương quyết của Thái Hậu. Họ xem đó là một dấu hiệu lạc quan. Người ta sợ sự mềm yếu và nhu nhược nơi người cầm đầu của quốc gia. Nhưng họ không sợ điều đó ở nơi Thái Hậu. Người ta bắt đầu đặt những bài ca, bài vè hoặc kể những chuyện khôi hài về những sự kèn cựa giữa hai bà Thái Hậu. Tính ngoan cố và gan dạ của bà loan truyền khắp mọi nơi.

Vào đầu mùa hạ, Đavít nhận được lệnh cho vào triều yết. Chàng đã dậy sửa soạn từ sáng tinh mơ, vì sau khi tiếp kiến các quan đại thần, nhị vị Thái Hậu sẽ sẵn sàng tiếp nhận các lễ vật dâng tiến.

Trang dậy thật sớm, nàng giúp Đavít mặc áo, ăn điểm tâm và xem xét lại tất cả những gì cần thiết để chàng mang theo vào triều. Nàng tiễn chàng ra tận cổng; các gia nhân đi theo sau, họ xúc động nghĩ đến thiếu chủ của họ sắp được triều yết lưỡng Hoàng Thái Hậu. Đavít bận áo dài bằng gấm xanh, khoác áo cộc bằng nhung đen, đầu đội mũ có tua, tay mang nhẫn ngọc. Mọi người đều tấm tắc khen thầm khi nhìn chàng bước lên ngôi trên chiếc kiệu.

Trang đứng dõi mắt trông theo mãi cho đến khi chiếc kiệu khuất dạng trên đường phố. Rồi nàng trở về phòng riêng nằm lại nhưng không thể nào ngủ được. Khoảng một hai giờ sau Trang phải trỗi dậy để trông nom cho lũ trẻ ăn uống, chuẩn bị bữa tiệc chiều, vì hôm ấy các bà sẽ đến chơi mạt chược cùng Quí Lan.

Trang không biết Đavít sẽ về giờ nào, nhưng trong nhà phải chuẩn bị sẵn sàng để đón chàng. Quí Lan cũng ăn bận và trang điểm sẵn sàng để nghe chồng kể lại cuộc triều yết. Trang luôn luôn chăm sóc Quí Lan từng cái ăn cái mặc. Nàng không chịu để Quí Lan tóc tai bù xù, áo quấn nhăn nhíu trước mặt Đavít.

Quí Lan thường càu nhàu:

- Tôi đã già rồi, tôi chỉ muốn được yên thân. Ban đầu, tôi phải tháo băng chân để làm vừa lòng cô, rồi tôi lại phải chải tai, kẻ lông mày, chuốt móng tay, cô còn bắt tôi phải tẩm nước hoa vào người chẳng khác nào một con kỹ nữ. Biết khi nào tôi mới được yên thân đây?

Trang chỉ mỉm cười.

- Nhưng thưa mợ, phải chăng những điều đó đã làm cho cậu vui lòng?

Một hôm nọ Trang đã trả lời như vậy khiến Quí Lan nhìn nàng với một đôi mắt xoi mói:

- À, thì ra cô bắt tôi làm những việc ấy để chỉ làm đẹp lòng cậu ấy. Vậy thì cô không đếm xỉa gì đến tôi cả sao?

Trang cảm nghe tim mình ngừng đập. Nhưng nàng chỉ nói:

- Tôi chỉ nghĩ rằng niềm vui lớn lao nhất của mợ là được làm đẹp lòng chồng. Nhưng nếu tôi đã nghĩ lầm thì xin mợ chỉ bảo cho.

Quí Lan cảm thấy bối rồi, làm sao nàng dám nói nàng không cần phải làm đẹp lòng chồng? Nàng đành nín thinh, nhưng từ đó về sau Trang tránh không nói đến Đavít cùng Quí Lan nữa. Nàng đã biết thận trọng, tâm hồn nàng cũng trở nên sâu sắc như chính cuộc đời của nàng vậy.

Đavít trở về nhà vào khoảng xế trưa hôm ấy. Chàng có vẻ mệt mỏi nhưng ra dáng tự đắc lắm. Cả nhà đều sẵn sàng chờ đón chàng, vợ chàng xinh đẹp, áo quần chỉnh tề, các con chàng sạch sẽ và ngoan ngoãn, lũ gia nhân kính cẩn nhưng tò mò.

Trang ra tận cổng đến đón Đavít.

- Như thế này quả thật là đã đòi hỏi ở cậu quá nhiều! Chúng tôi nóng lòng được nghe cậu kể lại những gì đã xảy ra. Cậu chỉ cần kể lại một lượt là mọi người đều được nghe tất cả.

Đavít nói:

- Trước hết hãy để tôi ăn uống xong xuôi đã. Đói và khát quá rồi. Chúng tôi có ai được ngồi đâu. Tôi phải quì phủ phục xuống đất, đến ê ẩm cả hai đầu gối.

Trang bước theo chàng vào nhà. Nàng đã giúp chàng cất cái mão nặng nề, cởi cái áo gấm dày và lột đôi hia bằng nhung đen. Trang trao cho chàng cái áo lụa mỏng, nhẹ nhàng, và đôi giày cổ thấp bằng satanh. Chàng ăn và uống những gì Trang mang đến cho chàng. Chàng đi nằm một giờ sau mới trỗi dậy và cảm thấy khỏe khoắn trong người.

Trang triệu tập mọi người trong nhà lại ở gian phòng chính. Đavít ngồi ở chỗ cao trọng nhất và hãnh diện nhìn quanh một vòng vợ con cùng kẻ ăn người ở trong nhà.

Hôm ấy trời trong đẹp, ánh nắng chan hòa khắp nơi và chiếu vào những cánh cửa lớn mở rộng. Lúc bấy giờ chàng nghĩ đến những gì có thể làm cho một người đàn ông hãnh diện. Vợ chàng ngồi đối diện ở phía bên kia bàn. Nàng bận áo satanh mỏng màu xanh lá cây, tai mang hoa bằng ngọc bích, đầu cái trâm bằng ngọc bích và tay mang nhẫn vàng cũng nạm ngọc bích. Bây giờ nàng vẫn còn đẹp như lúc chàng nhìn thấy nàng lần đầu tiên trong gian phòng chính của nhà họ Khương vậy. Hai con trai của chàng đứng hai bên. Chúng cũng được mặc áo quần chỉnh tề; áo dài bằng lụa, tóc quấn đuôi sam buộc giải lụa màu đỏ. Bé Ba đã bắt đầu biết đi, người nhũ mẫu cầm đầu một giải thắt lưng lụa, và để cho nó chập chững bước đi khắp nơi trong phòng.

Trang ngồi gần cửa lớn. Đavít biết rất rõ cái khuôn mặt xinh đẹp và trầm tĩnh ấy.

Lũ gia nhân cũng áo quần tươm tất tụ họp đông đủ để nghe cậu chủ kể chuyện.

Đavít nâng chén trà Tàu nhấp giọng rồi bắt đầu kể:

- Chắc mọi người ai nấy đều biết, không dễ gì mà được triều yết Thái Hậu. Tôi phải chờ đợi hơn hai tiếng đồng hồ liền trong một căn phòng nhỏ không có ghế ngồi cũng không có trà nước gì cả. Ngoài tôi ra còn có các người khác đã được phép vào triều yết Thái Hậu sáng hôm nay. Một vị hoạn quan đã dẫn chúng tôi vào và bảo chúng tôi đợi ở đấy. Chính quan Tổng Thái giám sẽ gọi tên chúng tôi. Khi ông này đến, trước hết ông chỉ bảo cho chúng tôi cách triều yết như thế nào, quỳ lạy tung hô vạn tuế ra sao. Hôm ấy đức Đông Cung Thái Hậu se mình nên chúng tôi chỉ được hân hạnh triều yết đức Tây Cung Thái Hậu. Người ta dặn chúng tôi không được nhìn thẳng vào tấm bình phong hoàng gia mà chúng tôi đứng ở phía sau.

Thằng con lớn của Đavít nói:

- Ba, ba có thấy Thái Hậu không ba?

Đavít lắc đầu:

- Không ai có thể nhìn thấy Thái Hậu con ạ. Ngài là Hoàng Thái Hậu, nhưng ngài cũng là một người đàn bà. Một bà rất đẹp và là góa phụ, Ngài có những cử chỉ hết sức là trang nghiêm.

Cuối cùng, chúng tôi được mời vào tất cả một lượt. Tôi được xếp vào hàng thứ ba.

Thằng con lớn lại hỏi:

- Tại sao lại thứ ba hở ba?

Đavít tỏ vẻ bực mình vì thằng bé. Trang từ từ đứng dậy kéo đứa trẻ đến bên nàng và quàng lấy nó trong vòng tay mình.

Đavít tiếp tục:

- Tôi được xếp vào hàng thứ ba là vì tôi không có phẩm trật gì chính thức như hai người quì trước mặt tôi. Tuy vậy, trong số người không có phẩm trật, tôi là kẻ đứng đầu vì ông Khương Sơn là một người tiếng tăm trong thành phố của chúng ta và vì quan Tổng đốc tỉnh mình thường nhắc nhở đến tên ông Khương Sơn ở triều đình.

Đavít tiếp tục kể, chàng đã vào triều yết Hoàng Thái Hậu như thế nào, chàng đã rập đầu sát đất để tung hô vạn tuế như thế nào, và chàng đã phải rập đầu mãi như thế cho đến khi xướng danh xong mới được dậy. Nhưng khi tâu trình lên Hoàng Thái Hậu các lễ vật dâng tiến chàng vẫn phải cúi đầu. Lễ vật, chàng đã giao nộp trước vào cung, ngay khi vừa mới đến Bắc Kinh. Chàng tâu rằng, số lễ vật này được mua từ Âu Châu tuy không đẹp bằng các phẩm trưng bày trong nội điện, nhưng mặc dầu vậy, chàng vẫn ước mong chúng sẽ có thể mang lại đôi phút giải trí cho Hoàng Thái Hậu trong những lúc nhàn du. Rồi chàng tâu về gia đình họ Khương. Tiếp đấy, chàng cảm ơn Hoàng gia vì tổ tiên chàng đã từ nước ngoài đến sinh sống tại đây được yên ổn.

Đavít ngừng lại hãnh diện nhìn quanh:

- Khi nghe tôi tâu như vậy, Tây Thái Hậu liền cất tiếng phán hỏi.

Quí Lan hỏi:

- Ngài phán hỏi ra sao?

- Ngài hỏi rằng, vợ nhà ngươi cũng là người ngoại quốc phải không? Anh tâu không, em là người bản quốc. Rồi ngài hỏi đã có mấy con rồi. Anh tâu có ba đứa. Thế rồi ngài truyền lệnh dẫn mấy đứa trẻ vào cung cho ngài xem vì ngài chưa từng được nhìn thấy trẻ con ngoại quốc bao giờ.

Nghe nói vậy, ai nấy đều kinh ngạc, kiêu hãnh và hồi hộp.

Quí Lan hỏi:

- Ngài có nói ngày nào không?

- Ngày mai, lối bốn giờ chiều chúng ta phải vào cung tất cả. Anh sẽ đợi ở nhà khách, nhưng em, các con và các chị vú vào vườn thượng uyển, nơi các bà mệnh phụ hái hoa. Quan Tổng Thái giám sẽ đưa mọi người vào đấy và khi nào ông ấy bảo về mới được về.

Quí Lan nói:

- Trang phải đi theo nữa.

Trang giẫy nẩy:

- Ồ, không! Tôi không đi!

Đavít nói như ra lệnh:

- Phải đi chứ! Cô là người độc nhất có thể dỗ một đứa bé nín khóc.

Mọi việc đã được quyết định như vậy. Lần này, Quí Lan cảm thấy xúc động quá đến nỗi không có lòng dạ nào để chơi mạt chược cho hay được. Tối hôm ấy, khi Trang đến sửa soạn cho nàng đi ngủ, nhận thấy Quí Lan tức bực vì đã thua quá nhiều tiền.

Trang nói:

- Thiếu chủ giàu có và rộng lượng. Cậu không trách gì mợ đâu mà mợ ngại.

Nhưng Quí Lan không chịu nghe những lời an ủi, nàng vẫn cáu kỉnh cho đến khi Trang đỡ nàng nằm xuống giường rồi đi báo cho Đavít hay vợ chàng đã đi ngủ.

Trang gặp Đavít đang ngồi trầm tư trên chiếc ghế tre dưới một gốc thông già. Nghe Trang nói, chàng cúi đầu, nhưng vẫn ngồi yên. Trang đứng đợi, nàng tự hỏi chàng có muốn chia sẻ cùng nàng những suy tư của mình không? Nhưng chàng vẫn lặng thinh cuối cùng Trang đành phải kiếm cớ nói chuyện để nán lại trong giây lát.

Nàng hỏi:

- Cậu thấy giọng nói của Tây Thái Hậu như thế nào?

- Hùng hồn, thanh tao nhưng thiếu dịu dàng.

Bấy giờ, chàng nói cùng nàng những điều mà chàng đã suy nghĩ.

- Trang ạ, thật tôi không ngờ triều đình lại tốt đối với dân tộc chúng tôi đến thế. Đức Thái Hậu biết tôi là người ngoại quốc, ngài đã nghe tôi tâu trình mọi việc và khi tôi rập đầu cảm tạ hoàng ân thì ngài cho biết ngài chỉ ước muốn một điều là được nhìn xem mấy đứa con của tôi.

Trang mỉm cười:

- Tính tò mò của một người đàn bà nơi một vị nữ hoàng …

- Nhưng không một chút ác cảm nào hết.

- Tại sao lại ác cảm chứ? Dân tộc của cậu chưa bao giờ gây chiến với dân tộc chúng tôi, họ không bao giờ chiếm hữu những gì không phải của họ, không chiếm hàng hóa cũng không chiếm đất đai… - Trang nói một cách nhiệt thành. - Dân tộc của cậu đã tỏ ra là một dân tộc tốt, - cậu và lão gia – là những người chính trực và nhân ái.

Đavít liếc nhìn Trang với một nét nhìn lạ lùng.

- Lòng tốt của chúng tôi chẳng giúp gì được cho dân tộc chúng tôi trên các nước khác cả.

- Tất cả những người ở nước ngoại quốc ấy đều vô lý. Ở đây, chúng tôi học được nghĩa lý ngay từ khi còn bú sữa mẹ…

Trang lui về phòng riêng. Càng nghĩ đến những lời nói của Đavít, nàng càng nhận thấy lòng biết ơn của chàng đối với Thái Hậu là một điều bổ ích, việc chàng nhớ lại chàng là người ngoại quốc cũng vậy.

Trang thở dài. Lần đầu tiên, nàng mong biết đích xác ngày họ trở về.

Ngày hôm sau, không ai có thì giờ để suy nghĩ hoặc ước muốn gì hết. Suốt ngày, Quí Lan chỉ có việc tắm gội và trang điểm. Nàng xem lại tỉ mỉ đường tóc trước trán cho ngay ngắn, nhổ bớt những sợi tóc nằm không thẳng hàng. Chỉ có Trang là làm nhẹ tay mà thôi. Móng tay giữa quá dài, Quí Lan vô ý làm gãy, nàng tức tối phát khóc.

- Làm sao che ngón tay này được?

Nàng vừa đưa bàn tay nhỏ cho Trang, vừa nói. Tay nàng giống như một búp sen.

- Chúng ta kiếm một cái ống bạc xỏ vào thì không ai còn thấy cái móng gãy cả. Mợ cứ ngồi yên, để tôi làm cho, kẻo lại gãy thêm một móng khác nữa đấy.

Sau đó, Quí Lan lại bực mình vì đôi bàn chân. Nàng tức tối nhìn xuống đôi giày vì chúng nó to lớn chứ không nhỏ xinh như những đôi hồi trước.

Nàng nói với Trang:

- Tôi rất lấy làm hổ thẹn vì bàn chân thô kệch như một con mụ nhà quê này. Tôi hết sức hối hận vì trước đây đã nghe lời cô.

Trang đã quên rằng, nàng không nên nhắc đến Đavít trong lúc này. Nàng nói:

- Cậu Đavít lấy làm sung sướng được biết mợ đã chiều theo ý của cậu ấy.

- Ồ, chỉ được ít hôm… - Quí Lan trề môi - Cậu ấy đã quên hết những sự đau đớn mà tôi phải ráng chịu. Cậu có bao giờ nhìn đến chân tôi đâu. Nhưng tôi, tôi nhìn thấy chúng hằng ngày. Tôi cảm thấy mất thể diện trước nhị vị Thái Hậu. Chân của nhị vị chắc hẳn là nhỏ xíu xiu!

Trang đã nhớ lại những gì nàng đã được đọc trong sách:

- Không phải vậy đâu, thưa mợ. Mợ đã nhầm rồi. Nhị vị Thái Hậu là người Mãn Châu, không phải người Trung Hoa. Vì vậy chân họ không có bó như chân người mình. Chiếc chân của họ lớn hơn chân của mợ nhiều…

Quí Lan há miệng kinh ngạc, nhưng lòng nàng đã được an ủi.

Cuối cùng, nàng chịu ngồi yên, rất đẹp, nàng không dám động đậy vì sợ làm hư mất vẻ đẹp ấy. Trong khi đó Trang mặc áo quần cho mấy đứa trẻ. Nàng phải kiên nhẫn lắm, vì Quí Lan không thích chiếc áo dài của thằng lớn. Khi mọi sự đã sẵn sàng, thằng bé Ba nôn cả thức ăn ra làm dơ hết áo. Trang phải thay áo khác cho nó.

Vừa đi ra cæng để lên kiệu, Quí Lan vừa lẩm bẩm:

- Tôi chỉ muốn chóng xong để về nằm cho khỏe.

Trang tươi cười nói để khích lệ nàng:

- Mai sau, mợ có thể kể lại cho đàn cháu nhỏ của mợ nghe cái giờ phút hiếm có này.

Họ lên đường, Đavít dẫn đầu, gia đình chàng theo sau. Chẳng mấy chốc họ đã nhìn thấy những khoảng vuông lớn của những bức tường Hoàng cung.

Người ta giữ họ lại ở cổng chính, sau khi lãnh tiền thù lao, lũ lính canh liền để cho bọn phu kiệu gánh vào bên trong. Hai cánh cửa khép lại sau lưng họ, lũ phu kiệu đặt xuống đất, Đavít bước xuống trước tiên. Chàng chờ cho tất cả mọi người bước xuống hết khỏi kiệu. Chàng nhìn ngắm gia đình mình và hãnh diện vì vợ đẹp con xinh. Rồi chàng quay lại nhìn Trang, vẻ tư lự:

- Cô Trang phải trông chừng lũ trẻ, đừng để chúng chạy bậy… Hãy giúp mẹ chúng nó trả lời cho trôi chảy nếu người ta có hỏi điều gì.

Trang đáp:

- Xin cậu cứ yên tâm.

Tuy nói với Đavít như vậy, nhưng trong nàng chẳng yên chút nào cả.

Đavít ở lại đó. Một viên thái giám dẫn vợ con chàng vào cổng nội điện, tại đây quan Tổng thái giám sẽ gặp họ.

Ông ta là một người cao lớn, khỏe mạnh, cũng là một hoạn quan như tất cả đàn ông sống trong các bức tường nội thành nµy, ngoại trừ Hoàng Đế.

Thoạt nhìn, Trang đã mất cảm tình ngay. Ông ta là một người đẹp mã, khuôn mặt tròn trịa và nhẵn nhụi, tiếng nói trong trẻo, ngọt ngào nhưng nham hiểm. Ông không có nét nhìn của một hoạn quan chút nào cả. Ông nhìn Trang chòng chọc, thích thú một cách sỗ sàng.

Trang quay nhìn đi chỗ khác. Nàng thẹn thùng đến đỏ mặt, rồi cảm thấy ớn lạnh. Nếu ông ta tưởng nµng đỏ mặt vì đã cảm ông ta thì sao? Nàng xích lại gần Quí Lan cầm tay hai đứa trẻ, và tất cả theo viên Tổng Thái giám vào vườn thượng uyển.

Đến cửa, ông dừng bước và lại sỗ sàng nhìn Trang trong khi ông cao giọng dặn dò một cách khắt khe.

- Nhị vị Hoàng Thái Hậu đang thưởng ngoạn hoa bạch liên. Các người phải đứng dưới gốc cây thông lớn trong vườn. Khi nhị vị Hoàng Thái Hậu đi ngang qua, tất cả mọi người phải cúi đầu xuống, trẻ con cũng thế, và nếu các ngài không phán hỏi thì không được nói gì hết. Nếu nhị vị Hoàng Thái Hậu đi ngang qua mà không nói gì, thì ta sẽ dẫn các người trở ra. Bằng như các Ngài có phán hỏi điều gì thì ta sẽ truyền lại cho các người và các người chỉ được phép trả lời cho ta để ta tâu lên nhị vị.

Viên Tổng Thái giám dẫn họ vào vườn, đến đứng dưới một gốc thông già. Họ nhìn thấy nhị vị Hoàng Thái Hậu từ xa dưới ánh sáng mặt trời, bên ngàn hoa, có trên hai chục phi tần theo hầu cận, phục sức nhiều màu sắc rực rỡ. Quang cảnh thật đẹp mắt, Trang rất thích nhìn, nhưng sự hiện diện của ông Thái giám bên cạnh làm cụt hứng.

Ông ta đứng sát vào lưng nàng, đến nỗi Trang cảm nghe như hơi thở nóng hổi của ông phả vào gáy nàng, và đôi mắt ông đang chòng chọc nhìn vào tóc, vào cổ, vào vai nàng.

Trang bước tới một bước, ông ta bước theo một bước. Đột nhiên Trang cảm thấy khó chịu trong người. Quang cảnh đẹp đẽ tuyệt vời trước mắt nàng như bị phủ bởi một lớp sương mù dày đặc và những màu sắc rực rì cùng nhau thành một đám mây màu cầu vồng. Bước lên thêm một bước nữa sẽ thất lễ đối với mợ chủ nhưng Trang không thể kéo dài nỗi sợ hãi do viên Tổng Thái giám gây ra. Nàng cảm thấy choáng váng, sắp ngất xỉu, ông ta lại càng đứng ép sát vào người nàng, giả vờ nói thật khẽ:

- Bà cao lớn hơn hết là đức Tây Thái Hậu. Nếu bà thấy cần thì bà sẽ nói, vì đức Đông Thái Hậu không bao giờ nói trước.

Ông vờ nghiêng mình ra trước, nhìn ngang qua đầu của Trang, nàng cảm thấy tấm thân hộ pháp của ông ta dính sát vào lưng nàng một cách ghê tởm. Trang không thể chịu đựng thêm được phút nào nữa, nàng lách mình sang một bên kéo người nhũ mẫu của bé Ba đứng vào chỗ của nàng. Khi đổi chỗ, Trang không ngước mắt nhìn lên, nhưng viên Tổng Thái giám mắng khẽ:

- Cô kia, đừng có lộn xộn. Lưỡng Hoàng Thái Hậu đang đến kìa.

- Đứng yên, Trang! - Quí Lan nói rất khẽ, nhưng cũng đủ nghe rõ ràng.

Trang đành phải đứng yên. Nàng cảm thấy mặt nóng bừng và tất cả mọi thích thú đều tiêu tan. Nàng chỉ nghe loáng thoáng những gì người ta đã nói và cố gắng hết sức để đôi dòng lệ khỏi tuôn trào.

Tây Thái Hậu dừng bước, Đông Thái Hậu và các phi tần cũng đứng lại theo.

Tây Thái Hậu hỏi viên Tổng Thái Giám:

- Những người nào đây?

Viên Tổng Thái Giám xướng danh, mọi người đứng im bất động trong khi Tây Thái Hậu quan sát họ. Trang không dám nhìn vào Thái Hậu, điều đó bị cấm, nhưng nàng nhìn thấy hai tay bà: một tay bà cầm chiếc quạt bằng ngọc bích, còn tay kia thì buông thõng, không cầm gì. Tay đàn bà mà như thế thì kể ra quá to, mạnh, tuy nhiên tuyệt đẹp. Mỗ