← Quay lại trang sách

- 12 -

Trên đường trở về Khai Phong, Đavít đăm chiêu ít nói. Phong cảnh mới lạ và đẹp đẽ mà khi đi, Đavít thích thú bao nhiêu thì nay chàng dửng dưng với tất cả. Tuy nhiên cảnh vật vẫn đẹp đẽ, có thể nói được rằng đẹp hơn trước nhiều, vì ruộng vườn cây cối đang hồi xanh tươi nhất. Người ta đã gặt lúa mì và ở miền Bắc những cánh đồng kê cao vút, bao la. Mùa này là mùa của trộm cướp vì cây kê mọc rất cao, kẻ cướp dễ ẩn mình trong ruộng kê để chÆn đón khách qua đường. Đavít cảm thấy không yên tâm khi gần đến bờ sông. Vận chàng rất hên, chàng được tin bọn cướp vừa ăn hàng ở các làng phía trước, nhưng trên đường đi chàng chẳng gặp một mống nào xuất hiện cả.

Số là lũ cướp bị một vố nhầm lẫn lớn, quan Tổng Đốc trên đường lai Kinh nhưng chúng tưởng là một vị phú thương, đã ùa ra chặn đường đòi tiền mãi lộ. Khi toán quân hộ tống tiến lên chống cự, lũ cướp đâm ra bối rồi và sau một hồi xáp chiến ngắn ngủi chúng bị đại bại phải rút về sào huyệt trên núi để ẩn trốn.

Đánh úp quan Tổng đốc hoặc bất cứ một vị quan nào khác của triều đình đều bị xem như là phản loạn. Viên đại đầu lĩnh cho người mang lễ vật đến dâng quan Tổng đốc để tạ tội. Hắn ta vô cùng cay đắng vì đã nhầm lẫn để bộ hạ đánh cướp một nhân vật cao trọng như thế; hắn hứa sẽ chặt đầu tên đầu mục đã chỉ huy vụ cướp để dâng lên quan Tổng đốc khi nào ngài muốn.

Quan Tổng đốc dạy tha cho những kẻ đã lầm lỡ, nhưng ngài truyền phạt chúng bằng cách cấm trong một tháng không được chặn đường cướp bóc bất cứ ai trên quãng đường từ bờ sông đến kinh đô. May thay Đavít và gia đình chàng lại đi nhằm vào lúc lũ cướp bị phạt án binh bất động ấy.

Họ đã đến được bờ sông, xuống một chiếc ghe mành để dong buồm trở về Khai Phong. Trên mặt sông vẫn có thể bị lũ thủy khấu đánh cướp, nhưng nhờ cờ hiệu của Hoàng cung đã treo trên cột buồm lúc ra đi nên lũ cướp không dám vọng động.

Cuộc hành trình bằng thuyền mành rất chậm, vì đang độ giữa mùa hè, ít gió, mà thuyền chàng đi về phía tây nên bị dòng nước ngược.

Đavít có thì giờ thư thả để ngồi tư lự một mình trên boong thuyền và nhìn ngắm phong cảnh trên bờ chầm chậm giàn trải trước mắt. Trên boong thuyền người ta đã căng một tấm vải dày để che ánh nắng thiêu đốt của mùa hè, bên dưới, Đavít ngồi dựa trên một đống gối, thân xác rất là êm ái nhưng tinh thần thì quá đỗi đau đớn, lo âu. Nỗi khổ tâm trong lòng đã làm cho chàng hóa ra dịu dàng với vợ với con. Chàng chú ý đến vợ con hơn trước, chàng kiên nhẫn nghe lũ trẻ tán chuyện và lịch sự chịu đựng cái tính khí khá thất thường của Quí Lan. Trong mấy năm gần đây, Đavít đã dần dà quen thói nổi nóng với vợ. Nhưng giờ đây chàng đã tự chủ được mình và đã cố gắng ngọt ngào với vợ ngay cả khi nàng nói những điều phi lý, ngu ngốc nhất. Chàng luôn miệng giải đáp các câu hỏi thắc mắc của lũ trẻ, chàng phải cầm sợi dây buộc ngang thắt lưng thằng bé nhỏ nhất để nó khỏi ngã xuống sông. Chàng đã thay đổi rất nhiều.

Không có gì qua khỏi mắt Trang, nàng biết tất cả những đổi thay đó và đau đớn nhận thấy rằng chàng đã không ban phát lòng nhân ái ấy cho mình. Đavít đã lẩn tránh nàng. Nàng nhận thấy điều đó rõ ràng hơn nhờ những ngày chung sống trên chiếc thuyền chật hẹp. Vào những lúc chiều tối, sau khi lo xong việc bổn phận, nàng lên trên boong thuyền, nhưng không bao giờ gặp chàng. Ngay cả những đêm trăng sáng vằng vặc cũng không thấy chàng lên boong thưởng ngoạn. Chàng tìm cách để khỏi phải gặp nàng một mình, chàng không nói với nàng những gì khác hơn là những câu hỏi liên quan đến vợ con chàng và luôn luôn trước mặt những người khác. Nàng rất lấy làm khổ tâm, tự hỏi phải chăng vì nàng, chàng đã phải hấp tấp rời khỏi Bắc Kinh nơi mà chàng dự tính ở lại lâu ngày. Nàng thở dài. Trang đau khổ nghĩ rằng, Đavít cũng giống như mọi kẻ đàn ông khác, đã đâm ra ít yêu thương một cô gái chỉ vì cô ta mà mình phải ép lòng hy sinh một vài thích thú cá nhân. Trang cảm thấy ân hận. Lẽ ra, nàng không nên để chàng vì nàng mà phải hy sinh gì cả. Trang vừa thất vọng vừa tự kiêu. Trang quyết nếu Đavít vẫn giữ một thái độ như vậy, nàng sẽ thận trọng hơn, và có lẽ, nàng sẽ từ giã để ra đi. Nhưng đi đâu? Nàng biết đi đâu bây giờ! Nàng thầm nghĩ: “Ta phải ẩn nấp trong nhà Đavít như những con chuột nhắt, như những con dế mèn…”

Nếu Đavít nhận thấy thái độ lẳng lặng của Trang, nếu chàng đoán biết lòng nàng bị tổn thương nặng nề, chàng vẫn không để lộ ra.

Ngày này sang ngày khác, đã quá nửa mùa hè, chiếc thuyền mành về gần đến phủ Khai Phong. Đavít sai người chạy đi trước thông báo cho cha chàng hay, nếu thuận buồm xu«i gió, họ sẽ về đến nhà trong vòng một tuần lễ nữa; nhưng nếu trời trở gió hoặc gặp giông bão, phải hai tuần nữa mới tới nơi. Đavít ước mong về đến nhà trước cuối hè, mùa của các cơn giông bão, thuyền bè đều phải cập bến để ẩn nấp.

Trong mấy ngày đầu, thuyền thuận gió, mấy ngày sau người ta phải dùng dây để kéo và vào khoảng mười ngày ai nấy đều thấy rõ các bức tường thành thị trấn hiện ra giữa cánh đồng xa xa. Mọi người đều sung sướng được nhìn lại bờ sông quê cũ. Trên bờ sông, ông Era, ông Khương Sơn và các con trai của ông đang chờ đón gia đình Đavít. Họ đã chuẩn bị sẵn sàng các xe lừa, các chiếc kiệu, và phu khuân vác.

- Kìa, con! - Ông Era reo lên vui vẻ. Ông ôm lấy Đavít trong tay và áp má vào vai con. - Ba không ngờ con về sớm thế. Ba nghĩ, con ở lại ít nhất sáu tháng là ít. Nhưng được gặp lại con, ba mừng lắm.

Ông Khương Sơn khẽ gật gật cái đầu ra chiều thương mến, ông siết chặt tay Đavít, đón con gái ông, vuốt ve các cháu ngoại của ông và chào Trang rồi mọi người tất cả đều lên xe lên kiệu trở về nhà. Nhà chức trách đã cho lệnh đốt pháo tại cửa thành thị trấn và trước nhà ông Era. Hai vợ chồng lão Hoàng cũng treo pháo đốt giữa buổi tiệc mừng vui sum họp của gia đình.

Trang cảm thấy sung sướng được thoát khỏi bao hiểm nguy để trở về sống một cuộc đời bình lặng sau những cánh cửa khép kín này.

Khi bước vào nhà, Trang hỏi thím Hoàng:

- Không có gì thay đổi cả chứ thím?

- Không có gì. Chỉ có điều là con chó…

- Con chó chết rồi sao?

Thím Hoàng gật đầu xác nhận:

- Sau khi chị đi, con chó buồn ủ rũ. Nó không ăn không uống gì cả. Tôi đã mua thịt băm cho nó, tôi đã mua gan heo cho nó ăn, nhưng nó chỉ liếm một chút rồi bỏ đi.

Trang nói:

- Đáng lẽ tôi phải mang nó đi theo.

Thím Hoàng đáp:

- Nếu chị mang nó đi theo thì nó lại nhớ nhà. Rốt cuộc rồi nó cũng chết.

Trang không nói gì thêm. Con chó nhỏ chết đi nàng cảm thấy thiếu thốn rất nhiều. Sau khi đã săn sóc mợ chủ và lũ trẻ, Trang trở về phòng riêng nhưng nàng cảm thấy không thể chịu nổi sự thanh vắng ở nơi đây. Nàng cảm thấy lẻ loi xa cách mọi người tất cả. Nàng ngồi xuống thút thít khóc và chốc chốc lại thở dài. Cái ổ rơm của con chó vẫn còn nằm dưới gầm bàn. Trang nhìn nó vẻ thương cảm; nàng tự hỏi có nên mua một con chó khác không? Chó thì nhiều, dễ kiếm và không có ai quan tâm gì đến việc chúng chết hay sống. Nhưng Trang chỉ muốn con chó nhỏ của nàng, con chó mà nàng đã nuôi nấng bấy lâu và nay đã mất, mất hẳn. Nàng ân hận vô cùng, nàng chỉ muốn độc chiếm.

- Ta ngốc thật. - Nàng lẩm bẩm. - Ta yêu một cách quá hẹp hòi.

Trang nghĩ đến con chó nhỏ nhưng tư tưởng của nàng hướng về Đavít. Rồi nàng lại trách mình tại sao cứ yêu Đavít mãi không thôi, trong lúc đó nếu là một người đàn bà khác thì người ta đã rút lui, chọn một tấm chồng và sung sướng với đàn con, sống một cuộc đời bình lặng vui vẻ mặc dầu đã không được cùng người yêu kết tóc xe tơ. Nhưng dầu nghĩ sao thì nghĩ, Trang vẫn không có thể thay đổi được sự trì chí của con tim. “Ta phải bằng lòng với hoàn cảnh của ta hiện tại”. Trang buồn rầu tự nhủ trong khi hai hạt lệ lăn tròn trên khuôn mặt yêu kiều. Nàng đứng dậy tắm rửa, chải đầu, thay áo quần và đi lo công việc bổn phận đối với vợ và con của chàng.

Tôi hôm ấy Đavít thức khuya để nói chuyện với cha chàng. Ngày đầu, chàng ăn tối với ông Era và hẹn sẽ dùng bữa với ông Khương Sơn vào hôm sau. Chàng và cha chàng có nhiều chuyện cần bàn bạc. Đavít nhận thấy cha mình gầy sút mặc dầu ông cứ khăng khăng bảo rằng ông vẫn khỏe mạnh. Càng nhìn kỹ, Đavít càng nhận thấy cha chàng đã là một ông già. Hai má đã xếp nếp nhăn, mi mắt xệ xuống. Ông phàn nàn rằng bên hông trái của ông như cứng đờ, ông phải kéo lê một chân khi đi. Tuy nhiên đôi mắt ông vẫn còn tinh anh và giọng nói vẫn trầm hùng như bao giờ.

Đavít hỏi:

- Bất thình lình, ba cảm thấy cứng bên hông trái hay là mỗi ngày một ít?

- Cách đây hai tháng, một hôm ba ngủ dậy bỗng thấy cứng ở bên hông. Vài hôm sau, lưỡi ba đóng vớn, ba nói một cách khó khăn vì cái lưỡi như bị cứng lại. Thím Hoàng liền đi mời thầy lang đến bắt mạch cân thuốc. Sau khi uống vài thang, ba thấy đỡ hơn.

- Từ nay con phải đỡ đần công việc cho ba nhiều hơn ba ạ!

- Điều đó đã được quyết định xong xuôi rồi con ạ. Trong lúc con vắng nhà, ba đã đặt con thay ba điều khiển tất cả mọi công việc thương m¹i, và kể từ bây giờ chính con là người có quyền chấp thuận hay bác bỏ, con định đoạt tất cả. Bác Khương Sơn cũng thế, bác đã giao quyền cho anh hai bên ấy. Hai con sẽ đứng đầu công ty, hai ta sẽ nghỉ dưỡng già, nếu cần chỉ cho ý kiến đôi chút thôi.

Đavít xúc động và hãnh diện. Tuy nhiên, chàng không sao khỏi cảm thấy buồn, vì đây là ngày bắt đầu vào hồi kết thúc cuộc đời của cha chàng. Trong khi chàng đạt đến sự trưởng thành toàn diện về thể xác thì cha chàng suy yếu dần. Đó là bước đi không thể tránh được của các thế hệ, không có gì có thể ngăn cản nổi. Đavít tự nhủ, từ nay cho đến ngày cha chàng nhắm mắt lìa đời, chàng sẽ tỏ ra rất ngọt ngào, rất mềm mỏng đối với người và sẽ chiều theo mọi sở thích của người.

Bất giác, ông Era nói:

- Mẹ con mất đi ba thấy hiu quạnh lẻ loi quá!

Ông nhìn Đavít, mắt rưng rưng; ông đưa tay lên chùi ngấn lệ. Đêm đã khuya, bốn bề yên tĩnh, một cơn gió nhẹ khẽ thổi qua các sân thanh vắng, tăm tối, dịu dàng lọt vào các khung cửa mở làm những ngọn nến run rẩy.

Đavít bình tĩnh nói:

- Mẹ con chết đi, mọi người đều cảm thấy thiếu thốn, tiếc thương. Đối với mỗi một chúng ta, ai ai cũng đều biết rõ trong nhà không còn như cũ kể từ khi mẹ con nhắm mắt.

Ông Era dường như nghe một cách khó khăn. Ông ngồi dựa ngửa ra chiếc ghế bành, hai tay bấu chặt vào thành ghế.

Ông buồn rầu nói:

- Ba nghĩ đến cuộc chung sống của mẹ con và ba không phải là một cuộc sống chung dễ dàng đâu con ạ. Mẹ con không phải là một người dễ uốn nắn; bà sắt đá vô cùng, cho đến khi ba quen được cách hiểu bà. Ba không bao giờ có những hành động, những cảm nghĩ như mẹ con. Mẹ con tính khí thất thường. Đôi khi bà dùng sự giận dữ để đối lại với giận dữ, cũng có đôi khi bà dùng tình yêu hoặc nụ cười để đáp lại sự giận dữ của ba.

Ba phải chọn lấy khí giới của ba. Ba phải luôn luôn thay đổi để đáp lại sự đổi thay của mẹ con. Tuy nhiên, trong cái tính khí thất thường của mẹ con, có một sự thuần khiết không thể bì được. Nghĩ lại, trong thâm tâm mẹ con rất tốt và ba có thể tin cậy mẹ con. Mẹ con không bao giờ có thể phản bội Chúa và lừa dối ba. Mẹ con là một người đàn bà chân chính.

Đavít không nói gì. Trước đây chàng chỉ nhìn thấy ông bà Era qua hình ảnh của một người cha và một người mẹ, bây giờ chàng đã bắt đầu nhìn thấy nơi họ một người đàn ông và một người đàn bà. Chàng chưng hửng nghĩ đến hai người đã sinh ra chàng, như tách biệt khỏi chàng, nghĩ đến cuộc đời thân mật thầm kín của một người đàn ông và một người đàn bà…

Ông Era lại tiếp:

- Mẹ con là một người thông minh. Bà quá đỗi thông minh vì ba nhận thấy ba thua bà nhiều điểm. Hồi ba còn trẻ, điều đó đôi khi đã làm cho ba buồn, một nỗi buồn vô cớ. Nhưng càng về già, ba càng hiểu đó là ơn phúc Thượng đế đã ban cho ba. Con hãy xem bác Khương Sơn! Một con người cô độc, phải không con? Bác ấy ít khi nói đến vợ, họa hoàn lắm ba mới thấy bác gái… một con người đần độn, phải thế không Đavít? Nhưng bác Khương Sơn lại là một người tế nhị, trí thức, - bác ấy không có thể đi lăng nhăng bên ngoài. Ba cũng thế. Khi một người đàn ông đã biết một người đàn bà như mẹ con, - cả thể xác lẫn linh hồn…

Ông Era ngừng lại thở dài và nói tiếp:

- Con ạ, trong thời gian con đi vắng và sau khi chú Cao Liên bỏ ba để theo đoàn thương hồ đi về phía tây, ba có đủ thì giờ để suy nghĩ lại suốt cuộc đời ba đã sống với mẹ con. Khi mẹ con mất đi, nguồn an ủi của ba cũng mất theo, nhưng đây là một điều kỳ lạ: ba không ngoan đạo, như con đã biết, nhưng bao lâu mẹ con còn sống, ba cảm thấy nơi ba mọi sự đều tốt đẹp trước mặt Chúa. Mẹ con là lương tâm của ba nhắc ba hối cải những gì mà ba thường chống đối, những hối cải ấy đối với ba rất có giá trị. Bây giờ, ba cảm thấy bơ vơ lạc hướng. Thiên Chúa đã xa ba… Nếu quả có Thiên Chúa?

Đó chính là một câu hỏi, nhưng Đavít không biết trả lời ra sao. Chàng im lặng.

Thấy Đavít không nói gì, ông Era tiếp:

- Ba và con, chúng ta không ai có thể trả lời được có Thiên Chúa hay không. Vì thế, chúng ta không còn là Do Thái nữa con ạ. Ba đã chọn và con cũng đã chọn. Ba có muốn quay trở về con đường chính không?... Nhưng ba vẫn là ba không thay đổi, trong trường hợp này, sự chọn lựa của ba vẫn như cũ, và con cũng thế.

- Con không chắc như ba, ba ạ. Con có thể là một người như thế này… hoặc là một người như thế khác. Nếu Lịch còn sống…

Chàng ngừng lại không nói gì thêm.

- Nếu Lịch còn sống… - ông Era nghĩ ngợi - nếu Lịch còn sống, có thể mẹ con cũng còn sống. Tất cả sẽ khác hẳn, nhưng trước hết chúng ta phải khác.

- Chúng ta sẽ không còn ở đây nữa.

Ông Era nhìn người con ngồi đối diện ông, phía bên kia bàn.

- Con muốn nói rằng…

- Con muốn nói rằng chúng ta không thể ở lại đây, sống giữa những người này một cách riêng rẽ. Tại các nước khác ở Âu châu, chúng ta có thể sống riêng rẽ ba ạ, bởi vì chúng ta bị ngược đãi, chúng ta bắt buộc phải sống như thế. Tại các nước ấy chúng ta liên kết lại với nhau bởi vì không có một dân tộc nào khác muốn chấp nhận dân tộc chúng ta; người ta sát hại chúng ta và chúng ta hãnh diện vì sự sát hại ấy. Chúng ta không có tổ quốc nào khác ngoài sự khốn khổ. Nhưng tại đây chúng ta được mọi người chung quanh đối xử như bạn hữu, chúng ta được tiếp đón niềm nở, được trộn lẫn máu họ cùng máu chúng ta, như thế chúng ta không có thể đền đáp lại bằng cách sống cách biệt họ được.

- Đúng… đúng. Tất cả những gì đã xảy ra đều không thể tránh được.

- Không thể tránh được.

- Và rồi đây các con của con, lũ cháu nội của ba cũng sẽ trộn lẫn nhiều hơn nữa với những người chung quanh chúng ta.

- Vâng, rồi sẽ đúng như vậy.

Ông Era nghĩ ngợi:

- Như thế rồi đây dân tộc chúng ta sẽ biến mất sao?

Đavít không nói gì. Thật không thể nào tránh được, như chàng đã nói; khi một dân tộc tỏ vẻ niềm nở và công bằng đối với một dân tộc khác, bức tường ngăn cách giữa đôi bên sẽ sụp đổ, và họ sẽ trở thành một thành phần của nhân loại. Nhưng đàn cháu chắt sau này sẽ không còn biết gì hơn nữa, chúng quên ngay cả cái tên Era; chúng sẽ bị biến mất như một nắm cát vãi vào sa mạc hoặc như một cốc nước đổ xuống biển cả mênh mông.

Đavít trầm ngâm nghĩ đến đàn cháu chắt dài lê thê do dòng máu của chàng sinh ra… con của con chàng, con của cháu chàng… Chàng tưởng chừng như nhìn thấy chúng quay mặt lại phía chàng và hỡi ôi tất cả đều là những khuôn mặt Tàu chính cống.

Đột nhiên ông Era nói:

- Ờ, tự nhiên chúng ta hóa buồn. Những gì đã lỡ không thể sửa đổi lại được. Bây giờ con hãy kể cho ba nghe chuyến đi của con.

Đavít chợt tỉnh; chàng vắn tắt kể lại hết cho cha chàng nghe về vẻ huy hoàng tráng lệ của Bắc Kinh, cái phong thái trang nhã, vẻ sang trọng quí phái của những người sinh sống tại chốn đế đô. Chàng kể cho cha chàng nghe chàng đã ăn ở đâu, uống ở đâu, tiêu khiển ở đâu, và cuộc triều yết Tây Thái Hậu đã diễn ra như thế nào; những tin đồn ra sao về chàng, và cuối cùng chàng nói đến cái lý do đã buộc chàng phải lập tức rời khỏi đế kinh trong đêm khuya tăm tối.

Ông Era nghe một cách chăm chú. Thỉnh thoảng ông bật cười ha hả, hai mắt sáng ngời, rồi trở nên thích thú hơn và chăm chỉ hơn khi nghe kể lại công chuyện mua bán làm ăn. Nhưng rồi ông trở lại nghiêm nghị khi nghe Đavít nói vì Trang chàng đã phải vội vã trở về.

- Thật là xui xẻo! - Ông buồn rầu nói. - Thế lực của lão Tổng Thái giám lớn lắm, bao trùm khắp nơi, ngày mai chúng ta phải nói cho bác Khương biết mới được.

- Thưa ba, con không có thể làm cách nào khác hơn được.

- Không… không.

Ông Era do dự, rồi cương quyết nói:

- Không con ạ, không. Nếu con Trang là một người khác, chắc nó sẽ mừng rỡ chớp lấy cơ hội này để vào sống trong cung… và,… ờ,… và nếu như vậy thì nhà ta được cái may có một người bạn gái ở địa vị cao. Nhưng khốn nỗi lại là nó – đời nào nó chịu. Tuy nhiên chúng ta cũng phải đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra. Nếu công cuộc thương m¹i của chúng ta phải đình trệ vì một người đàn bà thì thật là một hy sinh lớn lao. Mẹ con thường nói rằng chúng ta quá chú ý đến Trang.

Nghe những lời này, Đavít cảm thấy nóng mặt, tức giận, nhưng vẫn làm ra vẻ dửng dưng để tự bào chữa:

- Thưa ba, nếu ba không cho con đã hành động như thế là khôn ngoan thì con phải sửa chữa lỗi lầm bằng cách nào khác, vì thưa ba, lâu nay con vẫn thường xem Trang như một cô em gái, con không thể nào trao nộp nó trong tay một tên quan hoạn bất lương được.

Ông Era nói:

- Bao lâu con còn xem nó chỉ là một cô em gái mà thôi thì ba không phàn nàn gì hết.

Câu nói này của ông Era quá rõ ràng, nó xuyên sâu vào tim chàng, vượt quá những gì mà Đavít muốn chấp nhận. Chàng không biết nói sao. Chàng nhìn sững dòng nến lỏng chảy dài theo thân cây bạch lạp. Chàng đứng dậy lấy kéo cắt bớt tim đèn.

Chàng nói:

- Đã quá khuya. Ngày mai con phải ra cửa hàng sớm. Chúc ba ngủ ngon!

Thím Hoàng đứng nấp sau cánh cửa. Khi Đavít ra khỏi phòng, thím liền bước vào, tay mang một ấm trà mới pha và một chén nước cháo mà mỗi tối ông Era thường uống trước khi đi ngủ.

Đêm hôm ấy Đavít không sao ngủ được. Chàng không sang ngủ với vợ. Chàng nằm lại phòng riêng mà ở đây mỗi một thứ gì cũng đều có bàn tay của Trang săn sóc: mền ngủ đã mở ra chờ đón, màn giường đã buông rủ, trà mới pha còn nóng, tẩu thuốc đã được nhồi sẵn, tim đèn đã cắt ngắn; nhưng bóng dáng cô gái chẳng thấy đâu.

Chàng sửa soạn đi ngủ, tắt đèn, vén màn và nằm xuống giường. Tuy nhiên, giấc ngủ vẫn không thấy đến. Câu chuyện chàng đã nói với cha trở lại xâm chiếm tâm trí chàng, những gì mà chàng đã suy nghĩ hằng tuần trong con thuyền lênh đênh trên ngọn sóng. Mẹ chàng, Lịch, Trang, và Quí Lan, bốn người đàn bà này đã uốn nắn bằng cách nào đó, cuộc đời của Đavít, bây giờ vẫn còn tiếp tục. Chàng biết rằng một người đàn ông sẽ không bao giờ có thể tự giải thoát ḿnh khỏi những người đàn bà đã từng hun đúc hắn trở nên con người hiện tại. Đavít thở dài, cựa mình và mong sao chóng sáng để có thể trở lại cửa hàng tiếp xúc với những người đàn ông không có một mảy may ảnh hưởng đến tâm hồn hoặc thể xác của chàng.

Tối hôm ấy Trang cũng thao thức không ngủ. Thím Hoàng báo cho nàng biết, Đavít ngồi nói chuyện với cha chàng rất lâu, đến nỗi thím không dám bước vào mặc dầu đã quá nửa đêm. Trang lấy cớ chờ đợi bên ngoài cùng thím Hoàng cho có bạn, nhưng thật ra nàng muốn nhìn thấy mặt Đavít khi chàng bước ra khỏi phòng ông Era. Chàng không nhìn thấy Trang và nàng không dám cất tiếng gọi. Nàng ngồi ngoài sân, trong chỗ tối, xa hẳn khoảng ánh sáng lờ mờ từ cửa lớn chiếu ra. Trang nghe tiếng nói của hai người, và khi Đavít đi ngang qua chỗ nàng nấp gần đến nỗi Trang có thể đưa tay sờ được chàng, nhưng nàng vẫn đứng im thin thít.

Đavít đã giải thích cho cha chàng rõ cái lý do khiến chàng phải hấp tấp rời khỏi Bắc Kinh, và có lẽ cha chàng đã khiển trách chàng về điều đó. Trang thấy rõ tên Thái giám có thể gây nhiều rắc rối cho gia đình Đavít ngay tại đây, và nàng cố xua đuổi ý nghĩ rằng nguyên nhân tại vì nàng.

Khi Đavít đã về phòng, Trang liền đi ngủ. Đêm nay không trăng, Trang nằm dài trên giường, lẻ loi, suy nghĩ về hoàn cảnh mà nàng đang mắc phải. Những người giàu sang có thể tốt bụng, giống như gia đình ông Era đối với nàng, nhưng nếu một kẻ bề dưới nào đã thọ ân họ đột nhiên trở thành mối lo âu cho trong nhà thì có thể lòng họ trở nên nguội lạnh tức khắc. Trang có thể tin rằng Đavít yêu nàng; nàng nhớ lại ánh mắt của chàng một đôi khi… Song mấy tuần nay chàng đã tỏ vẻ hết sức lạnh lùng. “Chắc chàng hối hận những gì mà chàng đã phải làm vì ta”, Trang thầm nghĩ.

Trang cảm thấy lòng tự ái bừng dậy; nàng quyết định khi nào thuận tiện, sẽ đến gặp Đavít để bảo cho chàng biết rằng, nàng muốn vào tu tại chùa sư nữ ở nội thành. Tại đây, nàng sẽ xa lánh tất cả mọi người đàn ông và Đavít sẽ kiếm cách nói cho lão Tổng Thái giám biết rằng Trang có ý định đi tu từ lâu, chỉ đợi dịp đi Bắc Kinh về là vào chùa ngay để trọn niềm ước nguyện. Nương náu trong chốn thiền am yên tĩnh, chung quanh chỉ toàn là đàn bà nàng sẽ tránh khỏi được mọi tai họa; Trang nghĩ như vậy với một chút êm ả trong lòng.

Càng nghĩ đến dự định ấy bao nhiêu, Trang càng thỏa lòng bấy nhiêu. Nàng sẽ không nói gì hết trong một vài hôm, đợi Đavít thu xếp các công việc xong xuôi đã. Tuy nhiên nàng sẽ không dám chần chờ quá lâu vì cái bàn tay đầy móng vuốt và quyền lực của lão Tổng Thái giám có thể từ cung cấm thò ra để gieo rắc những chuyện chẳng lành.

Qua ngày thứ năm, sau khi ăn trưa xong, Đavít nán lại nhà. Dường như chẳng còn việc gì buộc chàng phải trở lại cửa hàng ngay như mấy hôm trước nữa. Ông Era đang nằm thiu thiu ngủ trên một ghế dài đặt dưới bóng một khóm trúc, thím Hoàng ngồi bên ông để đuổi ruồi. Trẻ con đã ngủ, lũ gia nhân đều ngủ và Quí Lan cũng đã ngủ trưa. Hôm ấy Trang điều khiển lũ gia nhân hầu cơm trưa. Trong khi chúng nó dọn dẹp chén bát mang xuống bếp, Trang đưa cây tăm cho Đavít và nói:

- Cậu không đi ngủ một lát cho khỏe sao? Trời đang tức giông, oi bức lạ.

- Phải, tôi sẽ đi ngủ một lát.

Trang cho đặt một ghế dài bằng tre dưới một gốc thông già và trong khi nàng đang trải chiếu thì Đavít bước tới bên. Chàng đã cởi áo dài, bận bộ đồ lót bằng lụa màu hồ thủy.

Trang đáp:

- Xong rồi.

Nàng sắp sửa bước đi. Hôm ấy trời nóng bức kinh khủng, những giọt mồ hôi từ trán lăn xuống má nàng. Trang cười lau mồ hôi và nói:

- Bức thật! Chảy cả mồ hôi!

Bất ngờ Trang bắt gặp nét nhìn của Đavít khiến nàng phải bỏ dở nụ cười. Nàng chưa bao giờ thấy chàng nhìn mình một cách chăm chú, trang nghiêm và tha thiết như vậy. Mặt nàng đỏ bừng, hai chân run rẩy. Nàng buột miệng nói mà không biết mình đã nói gì. Nàng nói ra những gì đã ám ảnh mãi tâm trí nàng trong mấy ngày nay.

- Tôi… tôi… đợi có dịp sẽ nói cho cậu biết… biết một điều.

- Bây giờ đây, nói đi.

- Trang… Trang đã khóc rất nhiều.

- Tại sao Trang khóc?

- Vì câu chuyện đã xảy ra ở Kinh đô. - Trang vội vã nói cho xong. - Trang xin cậu một điều… Cậu cho Trang… Trang sẽ chết mất nếu vì Trang mà cậu gặp điều rắc rối, dẫu là một điều rắc rối hết sức nhỏ. Trang muốn… Trang muốn… đi tu. Khi Trang đã vào chùa nương náu, cậu có thể… nói với lão Thái giám rằng Trang đã làm ni cô.

- Trang? Ni cô?

Đavít ngạc nhiên hỏi rất nhỏ. Chàng cười khẽ như sợ có người nghe thấy.

Nhưng ai nghe thấy được? Mọi người trong nhà đều an giấc, chung quanh họ chỉ có nắng hè gay gắt. Cảnh vật im lìm, không một tiếng động nào từ bên ngoài vòng thành vẳng đến. Tất cả thành phố đều đang thiu thiu giấc ngủ trưa, và ngay cả đàn ve sầu trên các ngọn cây cũng im tiếng. Đứng trước mặt Đavít, Trang cảm thấy như có một màn lưới bao quanh mình. Nàng không nói thêm điều gì; nàng không có thể nói thêm gì được nữa cả.

Bây giờ đây, Trang không thể nào tưởng tượng được điều gì đã làm cho Đavít xúc động như thế. Khi nàng nhận biết thì đồng thời nàng bỗng sợ hãi. Tình yêu đốt cháy trong huyết quản và đập mạnh trong tim nàng, bởi vì Đavít, người mà nàng yêu mến, nàng những tưởng chàng đã lạnh lùng như băng tuyết trong mấy tuần nay bỗng nhiên hóa ra là một thanh sắt nung đỏ hừng hực.

- Trang, hãy theo anh. - Chàng nói.

Chàng thong thả bước trở vào thư phòng. Trang theo sau. Đừng tựa vào bàn viết, Đavít đăm đăm nhìn Trang:

- Bây giờ anh nói cho em nghe một chuyện, chuyện này sẽ ghi tạc mãi trong tâm khảm chúng ta suốt đời. Nếu anh nói cho em nghe, em có nhớ mãi không?

- Em sẽ nhớ mãi. - Nàng nói rất khẽ.

Mắt họ lặng nhìn nhau, thời gian như ngừng lại.

- Trong bao nhiêu năm nay anh đã lầm xem em như là em gái của anh. Thật là ngốc. Em không bao giờ là em gái của anh cả. Anh không bao giờ có thể yêu một cô em gái như anh đã yêu em ngày xưa khi chúng ta còn nhỏ và như anh đã yêu em bây giờ.

Chàng đắm đuối nhìn Trang và nàng cũng đáp lại với đôi mắt vô cùng âu yếm. Nàng tiếp nhận câu nói này như một ân huệ mà cuộc sống đã dành cho nàng. Trong giây phút này, giây phút mà Đavít nói ra những nỗi niềm thầm kín nhất của con tim, chính là cái ân phúc mà cuộc đời đã dành cho một a hoàn! Thật là dễ dàng, chỉ có việc đưa tay ra mà nhận lãnh cái ân phúc ấy và quên đi tất mọi điều khác. Nhưng như thế sao được! Bao nhiêu năm trời nay Trang đã săn sóc Đavít, đã che chở chàng, làm cho chàng tăng thêm cường tráng, đã hoạch định tương lai cho chàng và đã yêu chàng tha thiết nhất. Bây giờ Trang không thể nghĩ đến mình nữa.

Nàng cố tươi cười, đáp:

- Em nghĩ, đó là cái lý do khiến em càng nên đi tu.

Chàng gạt ngang cái vui vẻ giả vờ ấy của nàng. Chàng nghiêm nghị nói:

- Em đừng có giả vờ cười để tìm cách thoái thác. Anh cũng biết rõ như em những gì anh vừa nói. Tuy nhiên anh cần phải nói rõ ra để em biết rằng tại sao anh đã không muốn cho em vào cung. Bao lâu anh còn sống, em phải ở trong nhà của anh, Trang ạ. Anh không thể sống vắng em. Giờ đây anh mới biết rõ như vậy.

- Có phải vì thế mà anh đã lạnh nhạt với em trong mấy tuần gần đây, trên thuyền mành?

- Không phải lạnh nhạt đâu em ạ. Anh vẫn tưởng nhớ đến em đêm ngày.

Trang không kiếm cách cười nữa. Đavít rất buồn rầu và cương quyết; nàng không thể nào chịu đựng được cái ý nghĩ rằng mối tình này sẽ gây cho chàng nhiều rắc rối.

Trang nói với một giọng rõ ràng và cương quyết:

- Em cám ơn anh đã thổ lộ nỗi lòng cùng em. Bao lâu anh còn sống, em còn giữ mãi trong lòng những lời anh đã nói. Những lời nói đó đã an ủi em và sưởi ấm lòng em.

Trang chắp tay cúi đầu; nàng chuyển mình bước đi thì Đavít giữ lại, bảo:

- Anh không thể nào nhìn thấy gì xa hơn. Cuộc đời của chúng ta rồi sẽ ra sao đây hở em?

Nàng dừng bước trên ngưỡng cửa. Tay vịn vào thành cửa, nàng dịu dàng nói:

- Thời gian sẽ trả lời anh ạ.

Rồi nàng quay mình bước nhanh, sợ chàng tiến tới nắm lấy tay hoặc quàng vào vai mình, và sợ con tim mình yếu đuối không giữ được phút yếu lòng.

Đêm hôm ấy Trang không thể nào ngủ được. Nàng sung sướng vì ánh trăng soi s¸ng họ trên đường về đã biến mất. Nàng nhẹ nhàng lướt đi trong bóng tối, ra vườn đào và ngồi một mình trên ghế đ¸ dưới hàng cây. Bầu trời đen kịt, một lớp mây dày che lấp ánh sao; không khí ẩm ướt, sắp mưa.

Nhưng Trang không thể ngồi lâu được, vì chẳng mấy chốc mà đàn muỗi đã bay vo ve quanh nàng. Nàng phe phẩy hai cánh tay áo rộng như đôi cánh chim và đứng dậy đi bách bộ. Nàng đi lui đi tới mãi, giờ này sang giờ khác như Lịch ngày xưa…

Đột nhiên hình ảnh Lịch lại hiện ra trong trí Trang, mặc dầu nàng cố tình không nghĩ đến. Nàng cảm thấy như có sự hiện diện của cô ta đâu đây. Nhưng tại sao Trang còn sợ Lịch? Trang đã có được cái lợi khí khiến cho hồn ma kia phải câm lặng mãi mãi. Nàng chỉ có việc đi đến phòng Đavít, ngay cả bây giờ đây, và trao trọn vẹn cho chàng cả tâm hồn lẫn thể xác, như vậy Lịch làm gì được nàng? Cái thể xác đã hóa ra tro bụi của Lịch làm gì được nàng nào?

Trang nhìn lên bầu trời tối đen thăm thẳm lòng ngập tràn một niềm hoan lạc tuyệt vời. Trong khi mọi người đang an giấc, nếu Trang lén lút đến trao thân cho chàng để trọn vẹn một mối tình khăng khít thì nàng sẽ là người chiến thắng, chiến thắng hoàn toàn.

Một mình trong bóng tối, Trang ngừng bước, một ngón tay khẽ đặt lên môi, nàng mỉm cười thích thú. Nếu Đavít lén dấn thân vào cuộc sống thầm kín của nàng dưới mái nhà này thì nàng sẽ không bao giờ cô độc nữa. Nhưng rồi nàng lắc đầu thở dài, buông thõng bàn tay và nụ cười tan biến ngay. Tim nàng đập mạnh trong lồng ngực. Tại sao phải lén lút? Có luật lệ nào cấm đoán một người đàn ông lấy người đàn bà mình yêu làm vợ đâu? Khắp nơi trong châu thành này đâu đâu người đàn ông cũng có quyền năm thê bảy thiếp. Chính ông Khương Sơn cũng đã lấy một cô đào hát làm vợ hầu, cô ấy sau này đã phản bội ông.

Nếu Đavít lấy nàng làm vợ hầu, sẽ không ai trách gì chàng cả, chàng chỉ có lợi, bạn bè chàng sẽ gần gũi chàng hơn. Chẳng cần bày bố cưới hỏi gì hết. Trang chỉ việc đến phòng Đavít và ngã vào lòng chàng theo tiếng gọi của con tim. Sáng hôm sau, nàng chỉ có việc nói cho thím Hoàng biết và sau đó mọi người trong nhà đều rõ. Quí Lan sẽ thuận nhận Trang làm lẽ cho chång, xếp nàng vào hàng thứ hai trong nhà, hoặc bằng lòng làm ngơ thì mọi sự tiếp tục như cũ, như không có gì xảy ra hết.

Vì quá cảm xúc, con tim hóa yếu mềm, Trang đã lý luận như vậy. Nhưng rồi nàng lại suy nghĩ mông lung một hồi, lòng nàng bắt đầu cứng rắn lại và sáng dần ra. Nàng tự hỏi, Đavít có giống như mọi người đàn ông khác hay không? Tinh thần nàng đã khảo vấn con tim của nàng.

Lúc bấy giờ khi Trang đang tìm câu giải đáp thì bỗng nhiên nàng nghe có tiếng kêu kỳ lạ, tắt nghẹn trong cổ họng. Nàng ngước đầu nghe ngóng và không còn nghĩ gì khác hơn là tìm xem tiếng kêu ấy từ đâu vẳng lại. Nàng không nghe gì thêm, nhưng cảm thấy mình có trách nhiệm đối với tất cả mọi người trong gia đình, bất cứ ai. Nàng liền chạy băng ngang qua vườn đào trong bóng đêm, bước vào gian phòng chính có ánh đèn yếu ớt và đứng ngóng nghe. Phòng ngủ của ông Era nằm ở phía đông, cửa sổ trông ra vườn.

Trang bước đến bên cánh cửa lớn khép kín, áp tai nghe. Nàng nghe nhịp thở của ông Era có vẻ nặng nhọc, chậm chạp và có tiếng ú ớ phát ra từ cổ họng ông. Trang nhẹ nhàng mở cửa.

Nàng nói rất khẽ:

- Con đây, Trang đây! Lão gia bệnh có phải không ạ?

Ông không trả lời, nhưng nhịp thở khò khè như xé buồng phổi phun ra, Trang chạy vào phòng thò tay vào cái đỉnh trầm lấy hộp quẹt châm cây đèn dầu lạc. Nàng khêu bấc lên cao cho sáng và một tay bưng đèn, một tay khoát tấm màn giường. Ông Era nằm trên giường, chiếc gối lệch sang một bên đầu chúc ngược, râu chổng lên trời, hai mắt ông mở trừng trừng mờ đục, mặt ông đỏ tía, lưng cong lại cứng đờ. Ông không nhìn thấy Trang, ông không nghe biết gì, tất cả sức lực của ông đều tập trung hết vào việc cố gắng để hít không khí vào và thở ra.

Trang la lên:

- Ôi, trời!

Nàng buông màn xuống, chạy thẳng đến phòng Đavít gõ cửa. Rồi nàng đưa tay mở cửa. Cánh cửa đã được cài then. Mặc dầu đang hốt hoảng, Trang cũng ngừng tay. Tại sao Đavít khóa trái cửa phòng lại như thế nhỉ? Để ngăn cản nàng, hay để ngăn cản chính mình chàng? Trang phân vân nghĩ ngợi.

Đavít nghe tiếng động, liền hỏi:

- Ai đó? Có việc gì?

- Trang đây! Lão gia bị bệnh nặng.

Liều sau đó, Đavít mở cửa phòng bước ra, chàng cao lớn trong bộ đồ ngủ bằng lụa màu nhạt. Chàng vừa đi vừa buộc lại giải thắt lưng lụa.

Trang vừa bước theo, vừa nói, giọng đứt quãng:

- Trang nghe tiếng lão gia thét lên… Trang chạy vào… Trang ngồi trong vườn đào.

Hai người bước vào phòng ngủ của ông Era.

Họ không còn nghe nhịp thở của ông Era nữa. Đavít vén màn, Trang đứng bên chàng, nàng nhìn thấy lão chủ nhân chân tay co quắp như đang cố sức chống lại với tử thần. Nhưng ông đã bị đánh bại. Ông đã trút linh hồn. Chòm râu của ông trải dài trên ngực, hai mắt nhìn trừng trừng, nghiêm khắc và lạnh lùng.

Trang khẽ kéo Đavít ra một bên, nàng vuốt mắt ông nắn tay nắn chân cho ông và đặt chúng lại ngay ngắn theo thể nằm tự nhiên. Nàng kéo cái chăn và phủ kín xác chết.

- Để ông có vẻ như đang nằm ngủ. - Trang nói rất khẽ. Đavít vẫn đứng yên nhìn Trang làm. Đoạn chàng quỳ xuống cầm lấy tay ông Era. Không còn nghi ngờ gì nữa, cha chàng đã chết thật rồi. Chàng phải đánh thức mọi người trong nhà dậy. Chàng phải cho mời ông Khương Sơn và báo tang cho các thân bằng quyến thuộc trong châu thành. Lẽ ra phải làm ngay việc đó, nhưng Đavít vẫn còn ngập ngừng như chưa tin cha chàng đã chết.

Chàng lẩm bẩm:

- Chúng tôi vừa nói chuyện nhau cách đây chỉ mấy tiếng đồng hồ…

Trang nhẹ nhàng nói:

- Chết như ông, thật là êm thấm.

Nhưng đột nhiên nàng cảm thấy sợ. Ông Era mất đi nguồn nhân ái có mất theo ông không? Tại sao… tại sao Đavít lại khóa trái cửa phòng của chàng lại ngăn không cho nàng vào? Nàng quỳ xuống, úp mặt vào giường ông Era, than vãn:

- Ông ơi! Ông quá nhân từ. - Nàng khóc nức nở. - Vắng ông, con biết nhờ ai, ông ơi!

Nàng chờ đợi, lòng rối như tơ vò. Trang tự hỏi, không biết Đavít có ôm lấy vai nàng để an ủi nàng không. Nhưng chàng không làm gì cả. Chàng chỉ vuốt ve bàn tay của cha chàng một cách dịu dàng, như ông còn sống.