← Quay lại trang sách

- 13 -

Như vậy, ông Era đã chết. Người ta chôn cất ông bên cạnh mộ phần thân phụ ông và bên dưới là nơi mà thân xác bà Era đã hòa lẫn cùng đất cát Trung Hoa.

Đavít xúc động nghĩ đến điều đó khi chàng đứng trên miệng huyệt cha chàng. Chàng nghĩ đến mẹ chàng, một người đàn bà có cá tính đặc biệt, đã tạo nhiều ảnh hưởng trong đời chàng và đến nay những ảnh hưởng ấy vẫn còn tồn tại.

Cuộc chiến đấu mà bà theo đuổi suốt đời để tách rời chính mình và gia đình mình sống riêng rẽ như những người Do Thái chân chính, bây giờ đã chấm dứt. Sự chết đã thắng bà.

Chiều nay trên đồi, không khí mát dịu, Đavít không thể dửng dưng với đoàn người đông đảo đã đưa cha chàng ra đến mộ phần. Đavít thầm tiếc không có mặt mẹ chàng để bà nhìn thấy lòng tốt của đám bạn hữu cha chàng, họ đi đưa đông đến nỗi đám tang chẳng khác nào đám tang của một vị thượng quan người Trung Hoa; thật không có chút gì có vẻ là Do Thái cả. Chỉ có một mình Đavít là còn giữ nguyên trong lòng những ý niệm về nguồn gốc, dòng giống. Lần đầu tiên trong đời chàng, Đavít hiểu tại sao mẹ chàng đã ao ước đến cuồng nhiệt được trở về cố quốc và được chôn cất ở đấy. Chắc chắn bà đã biết rõ, như bà đã biết rõ nhiều điều mà không nói ra, rằng nếu bà chết ở đây, tro bụi của thân xác bà sẽ trộn lẫn cùng đất cát của xứ ngoại quốc này.

Năm thành phố chồng chất lên nhau dưới lòng đất nơi Đavít đang đứng. Nhiều thế hệ kế tiếp, đã xây dựng các thành phố ấy, cái này chồng lên cái kia; tại miền đất cổ xưa này, người ta không thể đào quá sâu mà không gặp các người xưa đã chết. Cha mẹ chàng hẳn đã bị buộc chặt vào mảnh đất này cùng với các người khác, và không bao giờ họ còn có thể thuộc về một dân tộc riêng biệt.

Tiếng tụng niệm ê a của các sư sãi đã làm cho Đavít đau nhói trong lòng. Quả thật Đavít muốn từ chối khi vị sư già chùa Kim Phật đến nghiêng mình trước vong linh người chết; chàng đã hết lòng giải thích rằng Phật giáo không phải là tôn giáo của cha chàng. Với tất cả sự nhã nhặn, chàng cố nói cho sư cụ hiểu rằng, không nên tụng kinh Phật trước mộ huyệt của cha chàng.

Vị sư già đã trả lời, hết sức nghiêm trang:

- Lệnh tiên nghiêm, tuy là người ngoại quốc, nhưng đích thực là một chính nhân quân tử, cụ không bao giờ lảng tránh một ai. Chúng tôi muốn tôn kính cụ với những gì chúng tôi có, mà chúng tôi thì chẳng có gì khác ngoài tôn giáo của chúng tôi.

Tiếng tụng niệm trầm buồn và kể lể vang khắp triền đồi và lên tận trời xanh. Đầu cúi thấp, hai tay chắp trước ngực, Đavít vừa nghe các nhà sư tụng niệm vừa suy nghĩ. Hai con trai của chàng đứng mỗi đứa mỗi bên; chúng cũng bận sô gai như chàng. Thằng con nhỏ nhất cũng bận như vậy. Sau lưng Đavít, vợ chàng đang khóc vùi, khóc thành thật. Chàng đoán chừng nàng đang tựa vào vai Trang.

Trang! Tất cả những gì quý báu nhất trong thời niên thiếu của chàng đều đã mất, chỉ còn có mình nàng. Chàng nhớ lại ba ngày trước đây, cũng vào giờ này, khi chàng thổ lộ chàng yêu nàng mà không dám nói rõ chàng ao ước được chiếm hữu nàng trọn vẹn. Ngay cả bây giờ đây, chàng vẫn còn cảm thấy khó chịu nhớ lại vẻ mặt giận dữ của mẹ chàng mỗi khi cha chàng nhắc rằng chính ông cũng là con của một nàng hầu. Tuy nhiên ở đây, giữa đám bạn hữu của chàng, những người hôm nay đã giúp đỡ chàng một cách rộng lượng, sẽ không có ai phản đối nếu chàng cưới Trang làm vợ lẽ. Tất cả sẽ chúc mừng chàng về nhan sắc của người thiếu nữ và họ sẽ tiếp đón chàng như một người đồng bào của họ. Sẽ không có ai phản đối kể cả vợ chàng vì Trang là người hết sức tế nhị, nhã nhặn, sẽ không làm điều gì phật lòng Quí Lan, và nàng cũng sẽ không bao giờ thay đổi thái độ đối với mợ chủ.

Tuy nhiên trong suốt đêm hôm ấy, mặc dầu hết sức muốn gọi Trang đến với mình, nhưng chàng đã đột ngột khóa trái cửa phòng lại và ép lòng quơ tay lấy sách đọc. Tình cờ, cuốn sách Tôrat lại rơi vào tay chàng. Sự trùng hợp này đã làm cho Đavít xúc động thật sự. Chàng ngồi đọc hết giờ này sang giờ khác, mãi cho đến khi nghe tiếng Trang gọi mới thôi.

Chàng nhớ lại hồi Lịch còn sống, khi mà con tim chàng rung động, lưỡng lự giữa tình yêu và lòng sợ hãi. Có thể sau này, khi sự chống đối mẹ qua đi, chàng sẽ có thể yêu Lịch! Ngay cả bây giờ đây chàng nghĩ đến nàng với biết bao hối tiếc. Chàng nhớ đến sắc đẹp kiều diễm của nàng, vẻ giản dị, tâm hồn cao thượng và tính kiêu hãnh của nàng. Thất vọng vì chàng. Lịch tự hủy mình, điều này đã ăn sâu vào tâm não của Đavít, một kỷ niệm không thể nào tẩy xóa được. Một cái gì của nàng còn sống mãi trong lòng chàng, dưới hình thức của một giấc mộng, giấc mộng mà chàng có thể thực hiện…

Nhưng Đavít không thể tưởng tượng được chàng sống mà không có Quí Lan, chỉ có Lịch và Trang. Như vậy, chắc Lịch sẽ chẳng bao giờ dung tha Trang. Quí Lan tỏ ra là người đại lượng hơn nhiều, chàng nhận thấy như vậy.

Nếu mẹ chàng còn sống, Đavít không muốn thú nhận với bà rằng chàng đã thất vọng nhiều về vợ chàng. Chàng cưới Quí Lan vì khuôn mặt mỹ miều của nàng, vì làn da tươi mát, thân mình tròn trĩnh của nàng, vì đôi mắt đen long lanh, hai bàn tay xinh xắn của nàng và vì tâm hồn nàng như một trẻ thơ vô tội chưa hề biết sợ Chúa là gì. Nàng có nhiều khuyết điểm…

Đavít chợt ngẩng đầu, vươn vai để lấy sự thoải mái cho thân thể. Sự thật, chàng phải tự nhận rằng, nếu với Trang trong nhà, chàng sẽ không còn thiếu gì nữa cả. Họ đều thông minh như nhau. Với nàng, chàng có thể bàn bạc về chuyện con cái, về công ăn việc làm và về tất cả các vấn đề khó khăn khác. Nàng săn sóc chàng để chàng được thoải mái sau các giờ làm ăn mệt nhọc, nàng giải quyết các công việc trong nhà cho chàng và nàng biết tránh tất cả những điều phật ý nhỏ nhen. Cuộc đời của chàng như vậy, quả đã là tốt số.

Tràng kinh tụng niệm đã dứt. Đavít nghe tiếng những mảnh đất đầu tiên rơi lộp độp trên quan tài của cha chàng. Quan tài do quan Tổng đốc kính biếu, bằng một khối gỗ ba lớn, chung quanh chạm trổ và sơn son thếp vàng.

Ông Khương Sơn đứng phía bên kia miệng huyệt, đưa tay lau nước mắt. Ông không khóc lớn tiếng như khóc thương các người thân thuộc. Ông giữ im lặng, trong khi hai hàng lệ trào ra chảy dài xuống má. Ông rất thương tiếc ông Era mặc dầu có đôi khi ông không hoàn toàn tín nhiệm hẳn ông ấy. Con người, không ai hoàn hảo cả. Ông Khương Sơn vui vui khám phá ra rằng dầu hai nhà đã làm thông gia với nhau, điều này vẫn không làm cho ông Era bớt ham lợi. Tuy nhiên, ông Era đã tỏ ra rộng rãi trên nhiều phương diện khác. Ông Khương Sơn buồn rầu tự nhủ: “Ông có thể lừa dối tôi, nhưng ông đã không để cho ai khác có thể lừa gạt tôi cả”, ông Khương Sơn thành thật buồn rầu vì không còn được nhìn thấy khuôn mặt đỏ gay đầy râu ria của bạn ông nữa. Ông cảm thấy như có người đang nhìn mình, ông ngẩng đầu lên và bắt gặp Đavít đang chăm chăm nhìn ông từ bờ huyệt bên kia.

Đavít liền nhìn xuống ngay và tự nhủ: “Bây giờ ông Khương Sơn là người thân nhất của ta. Ông chẳng khác nào một người cha ruột”. Đavít có nhiều thiện cảm với người thương gia Trung Hoa này, nhưng đột nhiên cái cảm tưởng về một mối tình bằng hữu như thế đã làm cho chàng bừng tỉnh. Mối dây liên hệ cuối cùng với dân tộc của mẹ chàng đã bị cắt đứt. Chàng cảm thấy các kỷ niệm về tôn giáo của chàng ngày trước bừng dậy trong lòng chàng một cách khó nhọc. Khi việc chôn cất đã kết thúc, Đavít trở về nhà mang theo trong lòng biết bao hối hận. Bây giờ chỉ còn có một mình chàng là người thụ nhận cái trọng trách bảo tồn các tàn tích tín ngưỡng cổ xưa ấy, hoặc để cho chúng tàn lụi dần.

Trang đã tìm cách để trở về nhà sớm, và nàng là người đầu tiên mà Đavít gặp khi chàng vừa bước vào cổng. Nàng trông chàng có vẻ đã khuây khỏa nhiều.

- À, Trang! Tôi cần nghỉ ngơi một lát. Trang trông nom nhà cửa giúp. - Chàng nói.

- Cậu đi nghỉ đi. Để đấy cho tôi.

Chàng mỉm cười cám ơn nàng bằng một nụ cười ấm áp mà sự ấm áp ấy đã tiết ra từ đôi mắt, làn môi. Chàng đi ngang qua trước nàng để về phòng riêng.

Trang bận rộn rất nhiều trong việc chăm sóc lũ trẻ. Thằng bé nhỏ nhất đang khóc đến lả người trên tay chị vú. Trang bồng lấy nó và dỗ dành.

Nàng bảo người vú:

- Chị đi thay áo quần đi. Bận áo quần như ngày thường ấy, để nó khỏi sợ.

Nàng ấp thằng bé vào lòng và dịu dàng nựng nịu nó. Nàng dỗ dành được tất cả các con của chàng. Lũ trẻ xem nàng gần như mẹ chúng, và có thể, chúng xem nàng hơn mẹ chúng vì giọng nói của nàng có tính cách quyết đoán trong đời sống của chúng và là niềm an ủi của chúng trong những khi Quí Lan bẳn gắt hay mất ngủ. Trang luôn luôn như vậy, tính tình không thay đổi. Còn Quí Lan thì thương con một cách kỳ cục, thất thường, khi thì mơn trớn, cho bánh cho kẹo thật nhiều, hít vào má, véo vào tay, thôi thì đủ cách, khi thì tát mắng om sòm. Trang luôn luôn dịu dàng nhưng không thái quá để trở thành nhu nhược. Nàng là cái nền tảng của cuộc đời chúng.

Đứa trẻ đã nín. Trang cởi áo ngoài cho nó, và khi nó đã khô ráo và ấm áp, nàng cho nó uống nước trà mới pha. Khi chị vú trở lại, chị thấy đứa bé đã hết khóc và đang tươi cười.

Trang hết chăm sóc đứa này đến đứa khác, nhờ một món đồ chơi hoặc một lời tưng tiu an ủi, nàng đã làm cho các con của chàng được sung sướng. Nàng có giấu kín một số đồ chơi trẻ con mà nàng đã mua nơi này nơi khác. Đối với lũ trẻ, những đồ chơi này luôn luôn mới mẻ vì được thay đổi cho khỏi nhàm. Nàng mang cho mỗi đứa một cái để chúng quên đi cảnh tang tóc trong nhà.

Thằng con lớn của Đavít hỏi:

- Chúng em sẽ không còn thấy ông nội nữa phải không?

- Hồn ông nội sẽ mãi mãi ở đây.

- Em có thể thấy hồn của ông nội không?

- Em không thể thấy bằng mắt được. Nhưng ban đêm, đôi khi, em nghĩ đến ông nội, nghĩ đến những lời ông nói, những việc ông làm khi còn sống, em sẽ cảm thấy rất gần gũi với ông. Đây là cuốn sách mà cô đã giữ cho em. Xem thử em có đọc được không nào.

Trang phụ trách luôn việc dạy cho mấy đứa trẻ học hành. Nàng ngồi xuống, hai đứa trẻ đøng tỳ tay vào gối nàng. Nàng mở sách và chúng cố gắng đọc. Nàng hãnh diện về việc chúng học hành mau tấn tới; nàng hết lòng ngợi khen chúng, nên chúng quên mất nỗi buồn th¬ng trong gia đình.

Trang đã tìm thấy cuốn sách này trên cái kệ trong phòng bà Era. Đã lâu nàng rút một ít sách ở đấy để mang vào thư phòng và một ít bỏ vào cái rương đựng các đồ vặt vãnh của bà Era như khăn quàng, các thứ trang sức lăng nhăng, các biểu tượng thánh mà không còn ai dùng đến nữa. Nhưng Trang đã giữ lại riêng cho nàng cuốn sách nhỏ này viết bằng chữ Trung Hoa rất giản dị; nó kể lại lịch sử dân tộc Do Thái đã làm nô lệ ở Ai Cập như thế nào và sau đó đã được một vị sủng thần của nữ hoàng giải phóng, chính ông này cũng có mang trong mình một dòng máu ngoại quốc. Hai đứa con trai của Đavít đọc cuốn sách một cách thích thú.

Một đứa hỏi:

- Ai Cập ở đâu thế nhỉ?

Thằng lớn nói:

- Tại sao người ta bị làm nô lệ như thế?

Rồi nó tiếp:

- Có phải Maisen đã giải phóng họ không?

Khi câu chuyện chấm dứt, thằng anh vẻ mặt rất nghiêm trang:

- Vị Chúa của họ thật là độc ác, sao lại giết những đứa trẻ như tôi. Tôi không muốn có vị Chúa ấy ở đây.

Trang không biết trả lời ra sao. Nàng nói:

- Đó chỉ là một câu chuyện lịch sử, đã qua lâu rồi.

Trang cất cuốn sách và khi đã yên lòng rằng lũ trẻ vui vẻ trở lại sau bữa cơm tối, nàng liền ngồi suy nghĩ. Phải có một người nào trong nhà biết để giải đáp những câu hỏi của lũ trẻ, nàng sợ khi chúng lớn lên mà không biết đến nguồn gốc của tổ tiên thì thật là một điều lầm lẫn lớn. Tổ tiên là gốc rễ của gia đình, trẻ con là hoa là lá, không được có sự gián đoạn nào giữa họ. Trang quyết định lục lọi sách vở của bà Era những khi nàng rỗi rảnh, tự học đủ để giải đáp những thắc mắc của chúng.

Bây giờ nàng phải đi đến phòng của Quí Lan để xem mợ chủ có được hầu hạ tươm tất không và đã hết buồn chưa.

Hoàng hôn xuống dần, không khí trở nên mát dịu, ngôi nhà yên tĩnh khi Trang đi ngang qua các sân. Nghĩ đến hai người đã mất, Trang cảm thấy buồn. Tuy nhiên thế hệ trước qua đi, thế hệ sau tiếp tục. Bây giờ Đavít là đầu của thế hệ hiện đại. Đột nhiên Trang nghĩ ngay đến cánh cửa khóa chặt với những cảm tưởng sắc bén nhất mà nàng đã in sâu vào tận đáy lòng. Lần đầu tiên trong đời Đavít, chàng đã khóa chặt cửa không cho nàng vào. Có lẽ đó là cái chướng ngại vật chàng đã tạo ra để ngăn cản mình, mà cũng có thể là để ngăn cản cả nàng! Bây giờ nàng nhất thiết không còn đến với chàng nữa; cánh cửa sẽ mãi mãi cài then nếu không do chàng tự mở ra.

Nhưng điều đó đối với nàng không có gì thay đổi hết. Nàng còn có biết bao nhiêu việc phải làm cho chàng. Sự tiện nghi và thoải mái không còn là đủ. Nàng phải tìm kiếm những gì khác để làm tăng thêm uy thế cho chàng, phát triển con người chàng mà cuộc đời lúc đó đã đạt đến cái giá trị cao nhất, để chàng tự tìm lấy trong chính mình một sức mạnh và một sự bình an. Nàng ngước mặt nhìn trời một lúc. Suốt đời, Trang chưa bao giờ cầu nguyện, nàng cũng không thờ phụng một vị Chúa nào, nhưng lòng nàng đang lục lọi khắp bầu trời và dừng lại nơi vị Chúa của dân tộc chàng mà nàng còn nhớ rõ tên ngài là Dêhôva rồi thầm thì nguyện cầu:

“Xin ngài hãy nghe tiếng kêu xin của tiện nữ, một kẻ mà Ngài không biết đến. Xin ngài hãy mở lòng mở trí con, cho con có đủ khôn ngoan để giúp đỡ người mà con yêu”.

Nàng lắng nghe trong chốc lát nhưng không có một dấu hiệu nào xuất hiện. Khóm trúc khẽ lay động trong bầu không khí hầu như là im vắng và từ một nơi nào đó, rất xa, trong thành phố, tiếng khóc thê lương của một người đàn bà văng vẳng gọi hồn xiêu lạc của đứa con đang hấp hối.

Quí Lan trịnh trọng ngồi trong nhà riêng của nàng. Bây giờ nàng đã là bà chủ, là người đàn bà lớn nhất trong thế hệ hiện tại của gia đình này. Nỗi mệt nhọc của cuộc tang ma trên sườn đồi không còn nữa, nàng khoan khoái ăn bánh ngọt và nhấp giọng bằng trà Tàu nóng. Đôi mắt nàng không còn đỏ hoe vì khóc nữa.

Khi nhìn thấy Trang vào, nàng làm ra vẻ buồn rầu, đặt cái bánh sắp ăn xuống bàn và nói:

- Lão gia mất đi, tôi thương nhớ không thôi.

- Thưa mợ, hết thảy chúng ta đều thương nhớ lão gia.

Nàng nhận thấy Quí Lan muốn nói chuyện, bèn ngồi ở một cái đôn cạnh đấy, hai tay chắp lại trên gối.

Quí Lan rầu rĩ nói:

- Lão gia đối với tôi rất tốt. Tôi chưa từng thấy cụ gắt gỏng bao giờ.

- Vâng, cụ không thế bao giờ.

Hai mắt Quí Lan lại rưng rưng ngấn lệ:

- Cụ tốt với tôi hơn cả phu quân tôi nữa.

- Thưa mợ, thiếu chủ là người rất tốt.

Quí Lan lau khô hai hàng lệ.

Nàng nói cách cương quyết:

- Trang ạ, tôi cảm thấy trong đáy lòng của chồng tôi có một cái gì cứng cỏi. Cô cũng sẽ cảm thấy như thế, nếu cô không thấy chàng toàn hảo. Tôi là vợ của chàng, tôi biết rõ. Tôi nhắc lại, trong lòng chồng tôi có một cái gì cứng cỏi, thỉnh thoảng tôi nhận thấy điều đó mỗi khi chàng nhìn tôi.

Trang thở dài:

- Thưa mợ, tôi đã từng trình mợ rõ, cậu thích nhìn thấy mợ tươi trẻ, xinh đẹp. Thế nhưng mợ không chịu để tôi săn sóc tóc tai áo xống cho mợ mỗi khi cậu đến. Có nhiều bữa, mợ cảm thấy bần thần mệt mỏi, mợ cũng không chịu để cho tôi giúp mợ tắm gội. Những cái bánh này, thưa mợ… chắc mợ cũng đã biết rằng cậu không thích mùi mỡ heo. Vậy tại sao mợ lại ăn bánh loại này?

Trong mấy năm nay, Trang thường thành thật tỏ bày ý kiến cùng người thiếu phụ trẻ đẹp này. Mỗi khi Trang nói thì nàng thường nheo mày nhìn nàng chòng chọc. Tuy bây giờ Quí Lan đẫy người hơn trước, nhưng vẫn còn tuyệt đẹp. Từ khi Trang cởi bỏ băng chân cho nàng đến nay, Quí Lan thường than đau chân. Nàng chỉ đi lại lúc nào thật cần thiết. Nàng thích ăn đồ ngọt và các thứ cao lương mỹ vị. Thấy Quí Lan cau mày, Trang bật cười:

- Xin mợ đừng giận, tôi nói như thế chẳng qua là vì tôi thương mợ, quý mợ đấy thôi.

Quí Lan nhìn Trang thật lâu, cố làm ra vẻ khó chịu, nhưng rồi phì cười ngay:

- Đừng có trách móc tôi quá như thế. Bây giờ tôi là bà chủ rồi đấy. Phải chấm dứt, không được bảo rằng mợ hãy làm như thế này, mợ hãy làm như thế khác nữa, nghe không?

Quí Lan, người đàn bà bé nhỏ ấy ưỡn ngực ra vênh vênh nhìn Trang miệng tuy cười nhưng hai mắt long lanh.

Trang nhận thấy điều này và ngạc nhiên không ít. Nàng tự hỏi không biết điều gì sẽ xảy ra đây. Mợ chủ của nàng là người tính khí thất thường nhưng thích nịnh, ưa ngọt, dễ buồn, dễ vui. Nếu nàng trở thành hợm hĩnh và cao ngạo, Đavít sẽ chán ngán. Giữa hai vợ chồng chỉ có sự liên hệ về xác thịt nên rất dễ nhàm chán. Đavít không phải là một người đàn ông dâm dật. Quả thật chàng có đam mê nhưng cả tâm hồn cùng thể xác chàng trộn lẫn vào sự đam mê ấy nên chÝnh chàng không thể nào phân tách được từng phần, phần nào đã tạo thành con người chàng toàn vẹn. Bao lâu vợ chàng còn trẻ đẹp sinh lực còn dồi dào, vui vẻ để chàng khỏi bực nhọc, bình tĩnh để chàng khỏi khinh khi, bấy lâu nàng còn giữ được chàng. Nhưng nếu nàng xúc phạm đến chàng một điểm nào đó, cái uy thế quá đỗi mong manh của nàng sẽ bị sụp đổ và nàng sẽ mất chàng.

Trang không lạ gì những điều ấy. Nàng có nhiều thì giờ để suy nghĩ, suốt đời nàng đóng khung trong ngôi nhà này, nàng đã nghĩ đến từng người cùng nàng chung sống dưới cùng một mái nhà, đặc biệt là Đavít. Nàng đã vượt ra ngoài sự ghen tuông hay hy vọng; nàng chỉ có một niềm lo nghĩ độc nhất là làm thế nào cho chàng được tăng thêm hạnh phúc và sức khỏe.

Trang không muốn lộ vẻ ngạc nhiên ra nét mặt về sự kiêu hãnh mới này của mợ chủ. Nàng bình tĩnh nói:

- Mợ đã biết rõ, mợ sẵn lòng chiều cậu.

Sau đó, Trang đi vào phòng ngủ để xem lại cho chắc mọi sự đều sẵn sàng. Đây là phòng ngủ của Quí Lan nhưng Trang luôn luôn biết rõ khi nào thì Đavít đến. Những khi chàng đến đấy, buổi sáng Trang thường thấy nào ống điếu, nào giày vải, nào khăn lụa hoặc cuốn sách mà chàng mang theo. Trang thường để ý đến mấy cuốn sách này, ban đầu chỉ là mấy tập thơ; bây giờ chàng đọc các loại sách về lịch sử hoặc triết lý, những trang trừu tượng chàng không thể đọc cho vợ nghe.

Từ ngày ở Bắc Kinh trở về, chàng đã lấy số sách ấy tại thư phòng của mẹ chàng và bây giờ chàng bắt đầu đọc. Trang cố gắng tìm hiểu nguyên do, nàng đã suy nghĩ nhiều về sự thay đổi này, những đổi thay đã dẫn đưa Đavít trở về với tổ tiên chàng trong mấy ngày gần đây.

Trang xem lại cây đèn, lau lại mặt bàn, gấp lại cái khăn, vén màn tường, đóng cửa lưới để muỗi và bướm đêm khỏi bay vào và đốt một cây hương trầm để gian phòng được thơm tho rồi nhẹ nhàng bước ra. Mợ chủ nàng thường ngồi bên bàn phòng ngoài. Trang hỏi:

- Thưa mợ, mợ có cần tôi giúp mợ để thay áo quần ngủ không ạ?

Quí Lan lắc đầu, hách dịch đáp:

- Còn sớm. Hãy để ta một mình.

Trang lẳng lặng vâng lời và lui ra. Nề nếp trong nhà sẽ đổi thay rất nhiều nếu Quí Lan ra tay điều khiển hằng ngày. Trang tự nghĩ, có nên đến kiếm Đavít không? Có thể chàng rất cần đến nàng và ngạc nhiên tại sao nàng lánh mặt mấy hôm rày. Nhưng không thể được! Nàng dừng chân lại. Hình ảnh của cánh cửa khóa chặt, quá rõ ràng, nàng đi kiếm thím Hoàng ở sân sau. Nàng gặp thím đang ngồi trên giường, chồng thím ngồi một bên, trên một cái ghế đẩu tre. Cả hai đang khóc.

Vì quá bận rộn công việc, Trang ít chuyện trò với họ. Trong mấy năm gần đây, họ đã tận tụy phục vụ ông Era trong khi Trang bận chăm sóc cho con cháu của ông. Họ đang buồn rầu sầu khổ. Trang không tìm cách an ủi họ mà chỉ lẳng lặng ngậm ngùi lau nước mắt.

Thím Hoàng vừa khóc vừa nói:

- Chị Trang, tôi muốn nhờ chị giúp chúng tôi một việc.

- Xin thím cứ nói.

- Tôi không còn lòng dạ nào để ở lại trong cái nhà này nữa. Cả ông nhà tôi cũng thế. Chúng tôi sẽ về quê sống cùng con trai tôi để chăm sóc mấy đứa cháu. Chị làm ơn nói giúp thiếu chủ.

Họ quá buồn khổ, Trang không dám xin họ thay nàng để hầu hạ Đavít.

- Chú thím cứ yên lòng. Một lát nữa tôi sẽ nói với thiếu chủ sau khi cậu ấy đã khuây khỏa nỗi buồn riêng. Cậu sẽ không từ chối đâu. Nhưng khi chú thím đi rồi thì tôi biết xoay xở sao đây. Tôi thường nhờ vả thím nhiều…

- Tôi không còn lòng dạ nào ở đây nữa… chị Trang ạ.

Thím Hoàng lại tiếp tục khóc.

Trang lui về, lòng buồn vô hạn. Nàng sai một tên gia nhân đến hỏi cậu chủ có cần sai bảo gì không. Rồi nàng trở về phòng riêng một mình. Trời đã tối, nàng cảm thấy mệt mỏi và tương lai trước mắt nàng dường như chẳng có gì sáng sủa.

Lúc sinh thời, ông Era không có thì giờ nói cho ông Khương Sơn biết lý do tại sao Đavít và đoàn gia nhân đã đột ngột rời khỏi Bắc Kinh trở về. Còn Đavít thì vì quá phiền muộn, quên khuấy đi mất. Đavít bận lo nhiều việc, đã có tin các tàu hàng từ Ấn Độ đến, sắp cập bến. Từ bến tàu về nhà rất xa, phải khuân vác hàng hóa bằng đường bộ. Nhưng trong tình trạng chiến tranh hiện tại, đói khổ và cướp bóc khắp nơi, chàng phải mướn người canh gác và xin quân lính các tỉnh hộ tống mỗi khi đoàn khuân vác đi ngang qua địa phận của họ. Ngay cả cái chết của thân sinh chàng, Đavít cũng không có thì giờ để than khóc. Chàng phải trở về với công việc, chưa có thì giờ để nói cho ông Khương Sơn biết những gì đã xảy ra ở Bắc Kinh.

Đavít cảm thấy bối rồi về những gì đã diễn biễn trong chính bản thân cũng như các việc xảy ra ở bên ngoài. Chàng nhận thấy ngay Trang đã xa lánh chàng. Và mặc dầu điều này đã làm cho Đavít phiền rầu không ít, chàng cũng biết rằng nàng hành động như vậy là khôn ngoan.

Khi công việc đã bớt bề bộn, hàng hóa đã chất hết vào kho, và khi mà nỗi buồn bất tận về cái chết của người cha thương mến đã nguôi ngoai đôi chút, bấy giờ Đavít sẽ tự vấn lương tâm xem phải cư xử với Trang như thế nào.

Trong khi Đavít cùng người con trưởng của ông Khương Sơn đang bận kiểm điểm số lượng hàng hóa mới về, ước tính giá cả số hàng vải Ấn Độ đã nhập kho, thì ông Khương Sơn đến, vẻ mặt hốt hoảng. Cả hai rất lấy làm ngạc nhiên khi nghe ông gọi, vẻ mặt nghiêm trọng:

- Đavít vào đây cha hỏi, cả con nữa.

Cả hai theo ông Khương Sơn vào một gian phòng nhỏ. Ông Khương Sơn khép cửa lại, mặt ông xanh ngắt, đôi môi nhợt nhạt vì lo sợ. Ông nói rất khẽ:

- Ta vừa mới được tin từ Bắc Kinh cho hay rằng Hoàng cung đang phẫn nộ về con Đavít ạ. Thương điếm của chúng ta ở kinh đô đã cho người mang thư về. Quan Tổng Thái giám bắn tin rằng, một trong số gia nhân của con đã tỏ ra khiếm lễ với Tây Thái Hậu. Thế nghĩa là thế nào?

Đavít thất kinh. Chàng hiểu ngay mọi chuyện và ấp úng kể lại những gì đã xảy ra. Hai cha con ông Khương Sơn lẳng lặng ngồi nghe.

Khi Đavít dứt lời, ông Khương Sơn nói:

- Chắc chắn quan Tổng Thái giám muốn bắt dẫn Trang về kinh, lấy cớ là để trách phạt. Nếu chúng ta không chịu, khó hy vọng làm ăn lớn. Uy thế của vị sủng thần của Thái Hậu rất lớn, bao trùm cả nước.

- Con sẽ đi Bắc Kinh một chuyến. Con sẽ xin triều yết Thái Hậu để trình bày sự thật. - Đavít lớn tiếng nói.

Ông Khương Sơn kêu lên:

- Ồ! Điên, điên! Con liệu sức có chống nổi quan Tổng Thái giám hay không? Làm như vậy con chỉ chuốc lấy cái họa diệt thân vì quan Tổng Thái giám rất được nhị vị Thái Hậu tin cẩn. Không, không… chúng ta không còn trông mong gì khác ngoài việc gởi Trang về kinh.

- Không, con không thể làm thế…

Hai người nhìn chàng với đôi mắt khác lạ khiến Đavít xốn xang trong lòng. Họ lại nhìn nhau và cùng nghĩ đến sắc đẹp của Trang. Chính ông Khương Sơn đôi khi đã nói với con trai ông rằng thật khó lòng có một người đàn ông nào có thể dửng dưng được với một nàng tỳ nữ xinh đẹp như thế, thông minh và học thức như thế!

Hoàn cảnh của chàng thật khó nói.

- Cha và anh ngạc nhiên cũng phải, nhưng con xin xác nhận rằng những gì cha và anh đang nghĩ, là điều không thể có được. Trong tôn giáo của con – nghĩa là tôn giáo của dân tộc Do Thái – người đàn ông chỉ được phép có một vợ mà thôi. Con nhận thấy… nhận thấy biết ơn người nữ tỳ xưa nay vẫn được xem như là em gái. Con không thể nộp nàng cho… cho một tên hoạn quan được.

Ông Khương Sơn vẫn còn hy vọng:

- Nhưng nếu cô ta tự ý đi Bắc Kinh thì con tính sao?

Đavít cảm thấy khó thể tỏ bày sự thật và không biết cái gì đã ngăn chàng không nói ra. Bạn hữu chàng sẽ không chê trách gì nếu chàng thẳng thắn nói rằng chàng yêu nàng và muốn cưới nàng làm vợ lẽ. Họ sẽ vui vẻ tìm cách giữ nàng lại cho chàng. Nhưng chàng không thể nào nói được. Chàng cúi đầu lẩm bẩm:

- Nếu chính nàng muốn đi thì phải chịu vậy chứ sao?

Họ quay trở lại với hàng hóa, sổ sách. Chàng cố gắng chú tâm vào công việc. Nhưng chàng có lòng dạ nào để nghĩ đến những con số, những hàng hóa hoặc ngay cả tiền lời? Ông Khương Sơn sẽ cho gọi Trang đến để nói cho nàng hiểu, nếu nàng từ chối, sẽ gây thiệt hại rất lớn cho Đavít và cho cả hai gia đình. Có thể, Trang sẽ quên mình chấp nhận sự hy sinh.

Đavít cảm thấy bối rồi vô cùng, chàng không thể tiếp tục công việc nên đã nói với người con trưởng của ông Khương Sơn:

- Tôi cảm thấy khó chịu trong người. Tôi phải về nghỉ ngơi một chút, ngày mai sẽ trở lại.

Người anh vợ nhìn sững chàng mà không đáp. Đavít nhận thấy một vẻ soi mói hiện ra trong đôi mắt ti hí của anh, chàng liền hấp tấp ra về. Chàng không thể ở nán lại thêm phút nào được cả.

Khi về đến nhà, chàng sai người đi gọi Trang và ngồi đợi nàng một cách hết sức kiên nhẫn. Trang vừa vội vã bước vào, vừa lau hai bàn tay vào tấm vải xanh mang trước ngực.

- Tôi ở trong bếp. Người ta đến bảo tôi rằng hũ tương mới làm không được đặc, nên tôi phải đến xem.

Đavít không để ý gì đến câu nói này của Trang: Nàng quá xinh đẹp, quá ngon lành, và là cái cột trụ của gia đình này; chàng không thể nào sống thiếu nàng.

- Trang, ngồi xuống đây! - Chàng nói cụt lủn.

Nàng ngồi ghé xuống ghế. Vẻ mặt và giọng nói của chàng đã làm nàng lo lắng…

- Việc gì đã xảy ra thế?

Chàng kể sơ công chuyện cho nàng nghe. Chàng nói rất nhanh như để mau trút bớt một gánh nặng trong lòng. Chàng biết nàng có thể chịu đựng được tất cả. Nhưng chàng đâm sợ khi thấy khuôn mặt hồng hào của Trang đột nhiên tái mét và cơ hồ nàng muốn té xỉu.

- Trang đã nói với cậu là Trang phải đi tu thôi. - Nàng nói rất nhỏ. - Trang không thể giúp cậu bằng cách nào khác được cả.

Nàng đứng dậy, cởi tấm vải xanh mang trước ngực mà khi vội vã chạy đến đây đã quên cất đi.

Đavít nói:

- Khoan. Có một cách khác để giữ Trang lại với anh.

Trang biết Đavít muốn nói gì rồi, nhưng lòng nàng đã trở nên sắt đá, nàng không muốn dịu ngọt với chàng nữa. Trang hỏi:

- Cách nào?

Đavít nhìn đi nơi khác và nói rất khẽ:

- Em đã biết rõ rồi mà.

Trang bực mình vì chàng không dám ngó thẳng vào nàng. Nàng nói, giọng rắn rỏi:

- Có phải anh muốn nói rằng, anh cưới tôi làm vợ lẽ?

Nàng nhìn vẻ mặt tiều tụy và bất động của Đavít. Không có một chút vui nào trong đôi mắt.

Trang buông tấm vải xanh rơi xuống nền gạch.

- Anh đã khóa trái cửa phòng lại, không cho tôi vào. Tại sao?

- Làm sao anh biết được?

- Anh biết, anh biết rất rõ. Anh sợ phải nói với tôi những lời mà anh đã nói vừa rồi. Anh sợ cả chính mình anh… anh sợ những gì đang còn ở trong anh và sẽ còn mãi cho đến ngày anh nhắm mắt.

- Không phải thế! - Đavít thét lên.

- Anh không có thể chối cãi được điều ấy… Nó đã có trong anh từ thuở mới lọt lòng.

Đavít lẳng lặng cúi đầu, tay chống cằm. Chàng nhìn thấy Lịch, rõ ràng như khi nàng còn sống, nghe tiếng nói của nàng và cũng là tiếng của mẹ chàng, tiếng của tất cả những người đã sống trước chàng; đó chính là tiếng của Đấng Dêhôva.

Trang bình tĩnh nói với cái giọng nói hoạt bát thường nhật:

- Nếu tôi chấp thuận, lương tâm anh sẽ chỉ có thể có giá trị hơn lên khi tình yêu của anh đối với tôi ngày một giảm xuống. Không, Đavít ạ! Em không dám. Hãy để cho em đi. Phải, tự ý em muốn đi, nhưng không phải đi vào cung!

Nàng hấp tấp chạy ra khỏi phòng, Đavít không thể chạy theo. Nàng đã nói thật. Những gì bà Era đã nhét vào tâm hồn bất kham của con bà, đã đâm chồi mọc rễ. Chàng đã vùi dập nó, đã thách đố nó, nhưng nó không chết, nó vẫn còn sống mãi trong chàng. Đức tin và tinh thần dân tộc đã làm cho kẻ chết được hồi sinh và yêu sách đòi hỏi người sống. Chàng không thể nào tự do được. Chàng sụp quì gối, đầu gục xuống hai cánh tay xếp trên bàn, thầm thì:

- Ôi! Dêhôva, Thiên Chúa Độc Nhất và Chân Thật! Xin nhận lời con, xin tha thứ cho con.

Chân đất, tay không. Trang cúi đầu chạy trốn xuyên qua thành phố. Cổng tu viện bỏ ngỏ, nàng bước vào. Bên trong rất vắng vẻ. Nàng kêu lên:

- Ni viện trưởng! Con đây. Ni bà đâu rồi?

Một ni bà đã già, vẻ mặt hiền từ, bận áo màu lam, tiến đến cầm lấy tay nàng.

- Mô Phật! Vào đi con, tội nghiệp!

Trang hổn hển nói:

- Con đang gặp một điều hết sức nguy hiểm ni bà ạ.

- Ở đây Thần Phật sẽ phù trợ chúng ta, tất cả.

Nàng năn nỉ:

- Xin ni bà hãy khóa chặt cổng lại.

Bây giờ đây, nàng chợt cảm thấy hốt hoảng vì những gì đã diễn biến trong nội tâm nàng. Nàng cầm lấy tay vị ni sư già cả:

- Nếu con có xin về, ni bà đừng có cho, ni bà nhé, nhé!

- Không, ni bà không cho đâu…

Rồi vị ni viện trưởng cài then cửa lại.

Không bao giờ Đavít có thể tưởng được rằng Trang ra đi, không trở lại. Chàng chờ đợi giờ này sang giờ khác, lòng rối như tơ. Rồi sốt ruột vì đợi chờ quá lâu, Đavít sai thím Hoàng đến kiếm nàng ở tu viện.Thấy cậu chủ quá đỗi âu sầu, thím Hoàng không dám hỏi han; thím ra đi một mạch.

Trong thâm tâm, Đavít chỉ sợ Trang gieo mình xuống nước quyên sinh, nhưng khi thím Hoàng trở lại cho biết quả thật nàng đang ở trong tu viện chàng mới yên lòng.

Đavít im lặng ngồi nghe thím Hoàng nói, và sợ cái tin này chẳng mấy chốc sẽ được loan truyền khắp nhà nên chàng liền đến cho Quí Lan hay trước. Chàng chỉ nói rằng Trang sợ không cách nào tránh khỏi bị quan Tổng Thái giám cưỡng đoạt nên nàng đã đi tu. Chàng không nói gì về cái tình trạng mập mờ của lòng chàng, mà cũng không nói gì về sự bình an kỳ lạ mà chàng đã cảm thấy kể từ khi khép lại cánh cửa lớn ngăn cách chàng và Trang. Nhưng chính nàng lại là người đã từ bỏ chàng, và đồng thời chàng cảm thấy hổ thẹn vì đã làm cho nàng phải trốn đi như một tên nô lệ bị đánh đuổi. Nàng, người mà chàng đã yêu thương từ thuở bé và khi lớn khôn đã biến thành một mối tình sâu đậm lúc nào không hay. Chàng e sợ sự thật, lẩn tránh tình yêu. Chàng đâm ra trách Trang “Nàng không có quyền lìa bỏ ta một cách đột ngột như vậy”, chàng tự nhủ. Đavít cảm thấy mình bị xử tệ và đâm ra oán hờn; giận Trang, chàng đi sang ngôi nhà mà Quí Lan đang ở.

May mắn thay, Quí Lan đang ở trong một hoàn cảnh tốt đẹp nhất. Nàng ước ao được làm một bà chủ gia đình thật sự vì trên nàng bây giờ không còn có ai. Các thành phần Tây phương của gia đình không còn nữa, cho nên Quí Lan đã tỏ ra tươi cười, niềm nở với con cái cũng như với các gia nhân. Khi Đavít hiện ra ở ngưỡng cửa vòng nguyệt, chàng nhìn thấy một khung cảnh tuyệt diệu trước mắt khiến chàng hết sức hân hoan trong lòng. Quí Lan, người vợ xinh đẹp của chàng đang ngồi đùa giỡn với lũ con. Hôm nay Trang không tới dạy học nên các con chàng rỗi rảnh. Một đứa đang chơi kiệu, một đứa đang đùa nghịch với con dế buộc đầu sợi chỉ. Còn đứa thứ ba thì đang ngồi trên lòng mẹ nó. Dọc chân tường, hoa cúc đang hồi thịnh nở, và nắng chiều chiếu xuống lũ trẻ xinh tươi, chiếu xuống các cụm hoa vàng rực rỡ. Đavít bỗng cảm thấy xúc động trước cái vẻ yêu kiều diễm lệ của vợ, một điều mà đôi khi chàng đã quên không để ý tới. Dưới ánh nắng chiều, làn da sữa của nàng cũng mịn màng như da đứa bé. Đôi môi hồng thắm và mái tóc đen bóng nhờ sự săn sóc chuyên cần của Trang. Sáng hôm ấy chính Trang đã cài vào đầu tóc nàng những chiếc trâm ngọc hòa hợp với đôi hoa tai ngọc cùng màu và cái áo cụt màu xanh vỏ táo.

“Vợ như thế, con như thế, sao ta không sung sướng nhỉ?” - Đavít tự hỏi.

Đavít dừng lại ở ngưỡng cửa Quí Lan ngẩng nhìn chàng, và lũ trẻ chạy đến bên chàng. Gia nhân chẳng có ai, chúng bận việc ở nơi khác. Quí Lan ngắm nhìn chồng. Nắng chiều đã tỏ ra thích hợp cho chàng cũng như nàng. Trong khi Đavít đang chiêm ngưỡng Quí Lan thì nàng cũng nhìn ngắm chồng, khâm phục dáng dấp cao lớn và vẻ xinh trai đang độ chín muồi của chàng. Chàng để râu theo lối ngoại quốc, không để dài, làn da nhẵn thin, đôi mắt đen, to, miệng chàng cương quyết, nhất là tấm thân vững chãi của chàng đã làm cho lòng nàng xúc động. Nàng yêu chồng, nhưng ngày lại ngày tiếp tục qua đi mà không biết đã yêu chàng ở điểm nào! Nàng ngồi bên chồng và khi nhìn nhau, mắt họ long lanh ngời sáng.

Đavít đỡ lấy đứa bé trong tay vợ.

- Mình để anh xem con đã bao lớn rồi?

Quí Lan hấp tấp chuồi cái tã lót phía dưới đứa bé.

- Chưa có lớn bao nhiêu. Lót cái này kẻo thằng nhãi đái tè ướt cả quần áo.

Đavít bật cười, nghe vậy hai thằng anh chạy đến đứng tựa cùi tay vào gối cha nó. Ngang qua ba đứa trẻ, hai vợ chồng lại nhìn nhau mắt trong mắt, họ mỉm cười.

- Sao giờ này mình còn ở đây?

Đavít đáp:

- Một sự lạ vừa xảy ra. Mình có nhớ cái lão hoạn quan đã muốn mua Trang hồi mình lên Bắc Kinh chứ?

Đavít nói tỉnh bơ đến nỗi chàng lấy làm ngạc nhiên về sự bình tĩnh của mình.

- Lão ấy còn muốn mua cô ta nữa sao? - Nàng hỏi, vẻ chăm chú.

- Trang không muốn vào cung, chỉ còn một cách độc nhất để thoát khỏi tay tên quan hoạn ấy mà không hại gì đến gia đình mình cả.

Quí Lan quan sát thật kỹ khuôn mặt của chồng. Không bao giờ chàng có thể nói cho vợ chàng biết những gì đang tiềm ẩn tận đáy lòng chàng. Vả lại, chính chàng cũng không biết rõ những gì đang tiềm ẩn ở đấy? Làm sao một người đàn ông có thể biết những gì thương mến nhất, quí báu nhất đời mình, trong khi tất cả những gì mà hắn có hắn đều cân nhắc, đắn đo, ngay cả trong tình yêu cũng thế.

Chàng chậm rãi nói:

- Trang đã đi tu rồi!

Quí Lan tròn xoe mắt:

- Đi tu? Ở mãi trong chùa sao?

- Biết tìm nơi đâu khác để cô ta yên sống được?

Mấy đứa nhỏ bắt đầu lao nhao. Thằng con lớn hỏi:

- Cô Trang không còn ở với chúng ta nữa sao má?

Quí Lan đáp:

- Nếu làm ni cô thì cô ấy phải ở trong chùa.

Thằng em nó khóc òa:

- Không, không. Em thương cô Trang, em muốn gặp cô Trang.

Mẹ nó dỗ:

- Nín đi con! Nín đi. Cô Trang sẽ trở lại đây thăm chúng ta khi nào cô ấy hết tu tập.

Đavít thinh lặng. Chàng đang mân mê bàn tay tí xíu của thằng bé nhỏ nhất. Lòng tay đứa bé ấm ấm trong tay chàng.

Quí an trầm ngâm nghĩ ngợi. Nàng cũng cân nhắc, cũng đắn đo điều hơn lẽ thiệt. Trang bỏ đi, nàng thấy thiếu thốn rất nhiều. Nhưng sau kỳ tu tập, khi nào cô ta muốn, cô có thể trở về thăm. Tối lại, cô ra trở về chùa. Nhưng có lẽ cũng không nên để cô về luôn và ở lại lâu.

Kể từ khi song thân Đavít qua đời, sự hiện diện của Trang ít cần thiết hơn. Trong nhà đâu có cần giữ gìn theo lề luật, theo truyền thống nữa mà cần đến cô ta. Quả thật cô ta đi tu mà hay đấy! Đôi khi cô ta có vẻ như là một bà chủ nhà!

Một sự ghen tuông ngấm ngầm lâu nay yên ngủ trong lòng Quí Lan vì nàng đang còn cần đến Trang, bây giờ chợt trỗi dậy. Trang quá xinh đẹp! Trang có học thức và Đavít thường thích bàn chuyện với cô ta.

Đột nhiên nàng nói với chồng:

- Trang vào chùa tu thế mà hay đấy. Cô ta không muốn lấy chồng, trong trường hợp này, người đàn bà có thể làm gì khác nếu không đi tu? Biết bao lần em nói với cô ta rằng chúng mình sẽ kiếm cho cô ấy một người chồng, nhưng cô ấy không chịu nghe. Đàn bà đâu có trẻ đẹp mãi được. Thế nào cũng phải lấy chồng hoặc sớm hoặc muộn, nếu cô ấy không chịu vào cung. Không thế, dĩ nhiên…

- Không thể được. - Đavít đột ngột nói, hai mắt vẫn nhìn xuống.

Quí Lan lại cảm thấy ghen hờn:

- Nếu cô Trang yêu quý chúng ta như cô thường nói thì cô đã vào cung rồi. Thật không có gì sung sướng, hân hạnh cho gia đình ta bằng có được một người tiến cung! Cô ta sẽ có thể giúp đỡ anh và khi con cái chúng ta đã khôn lớn, chúng nó và cả em nữa, sẽ vào cung thăm viếng; như vậy có phải là chúng ta được nhờ cậy biết bao!

Đavít không nói gì. Chàng vẫn tiếp tục đùa giỡn với cái bàn tay bé nhỏ của đứa trẻ. Đột nhiên chàng đứng dậy đặt đứa trẻ trở lại vào lòng mẹ nó.

Chàng nói:

- Vắng Trang, trong nhà có vẻ khác lạ. Nhưng cô ấy đã biết chọn con đường phải. Anh ra thương điếm một lát nhé!

Chàng khẽ vuốt má vợ và bước đi. Tâm hồn chàng đã bình tĩnh. Một quãng đường đời đã chấm dứt. Chàng cũng cảm thấy cuộc chiến đấu đã ngừng hẳn. Chàng đã làm chủ con tim chàng cũng như đã làm chủ cửa nhà gia thế.

Khi thím Hoàng đến kiếm Trang, vị ni cô giữ cửa chùa không cho thím vào trước khi có lệnh của ni bà trụ trì. Dọc các hành lang, các ni cô và các chị tập tu thì thào bàn tán về sự hiện diện của cô nữ tỳ xinh đẹp nhà Era trong chùa. Họ biết rõ lão chủ nhân đã qui tiên trước đó ít lâu, vì tại Khai Phong không ai là không biết cái đám tang to lớn và sang trọng ấy. Ni bà trụ trì biết những lời bàn tán đó, nhưng chưa hỏi Trang. Phải để cho thời gian làm nhẹ bớt cơn đau buồn của nàng.

Theo lệnh của ni bà, người ta đưa Trang đến ở trong một gian phòng lớn, yên tĩnh, cạnh mấy khóm trúc. Các chị tập tu mang nước nóng đến cho nàng tắm rửa. Họ cũng mang đễn cho nàng mấy cái áo màu lam bằng hàng mỏng. Trang tắm rửa xong, thay áo quần mới màu lam. Các chị tập tu liền đi trình cho ni bà trụ trì biết. Ni bà dạy cất áo quần cũ của nàng vào tủ rồi mang đến cho nàng những đĩa cơm chay nấu bằng rau đậu và một ấm trà thật ngon.

Khi vị trụ trì biết có một người đàn bà lớn tuổi đang đợi ở cổng chùa, bèn đích thân đến thông báo cho Trang. Nàng đang ngồi bên cửa sổ, hai tay chắp trên gối. Trong bộ áo quần màu lam, Trang có vẻ như xinh đẹp hơn lên, đến nỗi ni bà cảm thấy tim mình thắt lại.

Ngày xưa, khi chồng bà nhắm mắt lìa đời sau lễ thành hôn chưa đầy một tháng, bà đến tu tại chùa này. Sau khi biết chắc mình không có mang thai, bà quyết hiến dâng cuộc đời cho Trời, Phật… Bà có thể đọc được ý chí biểu lộ trên khuôn mặt một người đàn bà khi người ấy quyết hiến thân sống cuộc đời cô độc.

Bà dịu dàng nói:

- Ngoài cổng chùa có một bà già tên là Hoàng, muốn gặp con, con ạ. Ta có nên cho mời bà ấy vào không?

Trang đứng dậy, đôi mắt to đau buồn nhìn khuôn mặt khoan hòa hiền hậu của ni bà. Trang định lắc đầu từ chối nhưng nàng cảm thấy không thể… Nàng bỗng quyết định nhanh chóng! Nếu không lầm thì chắc Đavít đã sai thím Hoàng đến kiếm nàng.

Nàng nói:

- Con nghĩ, nên để cho bà ấy vào thì hơn.

Thím Hoàng bước vào và nhìn thấy Trang trong bộ áo quần lam, thím nghẹn ngào không nói được, hai dòng lệ chảy dài xuống gò má nhăn nheo. Thím dang hai tay ra, và không cầm lòng được, Trang lăn mình vào vòng tay thím. Hai người cùng khóc như mưa, trong khi ni bà cúi đầu đứng đợi.

Thím Hoàng nín khóc trước tiên.

Thím ngồi xuống ghế. Thím nói:

- Chân tôi run quá.

Trang vẫn đứng, nước mắt chảy ròng ròng.

Thím Hoàng hỏi:

- Cậu ấy đã làm gì chị?

Trang lắc đầu, chùi mắt vào cánh tay áo.

- Không gì hết. - Nàng nói rất nhỏ.

- Vậy, cậu ấy không làm gì cả sao? - Thím Hoàng hỏi lại, mắt thím chăm chú nhìn Trang.

Trang nhìn xuống nền nhà. Cũng với cái giọng nhỏ ấy, nàng nói:

- Tên quan hoạn ấy còn cho người đến quấy rầy nữa.

- Trong lúc đó, chị không phải vợ cũng không phải là nàng hầu…

- Tôi không có ai bảo bọc cả.

Thím Hoàng thở dài thườn thượt:

- Bây giờ nếu chị về nhà thì có muộn lắm không?

- Tôi còn mong đợi gì, ngoài sự đau khổ?

- Chớ gì chị cũng làm như tôi, chịu lấy người đàn ông mà người ta chọn lựa cho mình.Tôi vẫn tiếp tục sống chung với gia đình, hầu hạ ông chủ của tôi cho đến ngày ông xuống suối vàng. Bây giờ đây lão chồng già của tôi lại là nguồn an ủi của tôi đấy.

Trang không có thể nói rằng Đavít khác với ông Era, cũng như nàng khác thím Hoàng. Nàng mỉm cười, nhưng hai mắt đầy lệ.

- Thím có nhớ không, một hôm thím đã nói với tôi rằng đời buồn?

Trang nói những lời này với một giọng hết sức dịu dàng, hết sức diệu vợi, đến nỗi thím Hoàng không biết trả lời ra sao. Hai bàn tay kẹp giữa đầu gối, thím ngồi bất động, nhìn sững Trang, thở dài thườn thượt. Rồi thím quay sang hỏi ni bà trụ trì:

- Ni bà có cạo trọc đầu chị ấy không?

- Tôi tuân theo luật lệ tu hành. - Trang nói ngay, không để bà kịp đáp.

Thím Hoàng đứng dậy thở dài buồn bã:

- Nếu lòng trí chị đã hướng về Trời thì tôi ở nán lại đấy có ích gì. Nhưng trước khi tôi về, chị không muốn nhắn gì cậu chủ sao?

Ni bà nhìn Trang như đọc rĩ cả tâm can nàng. Khuôn mặt mỹ miều của nàng ửng hồng. Đôi môi tươi thắm đang run rẩy và lệ lại trào lên mí mắt.

Nàng cúi đầu khẽ nói:

- Có lẽ tôi sẽ không bao giờ gặp cậu ấy nữa!

Ni bà nhìn nàng thương hại. Ngày xưa bà cũng đã nhiều lần khóc trắng đêm, nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ có thể thoát khỏi được vòng tình ái và những ràng buộc của con tim. Nhưng sau đó, vết thương lòng đã lành lặn, con tim không còn xao xuyến nữa, tất cả đều lãng quên trong quá khứ. Mỗi khi ni bà chợt nhớ lại quá khứ hoặc một kỷ niệm đột nhiên hiện ra trong bức màn đen của tâm tư, bà chỉ cảm thấy sự dịu dàng của quãng thời gian chung sống cùng chồng mà không còn buồn phiền đau khổ nữa.

- Không cần gì phải quyết định vội vã bây giờ con ạ. - Bà nói với Trang. - Để xem lòng con khuây khỏa ra sao đã.

Thím Hoàng gật gật đầu, vẻ thận trọng. Thím ra về.

Khi thím Hoàng đã ra về, ni bà ngồi xuống ghế.

Trang vẫn đứng. Lời của vị ni bà rất dịu dàng nhưng nó vang dội tận cõi lòng Trang như những tiếng chuông chùa.

- Mô Phật, ni bà muốn nói rằng con sẽ thôi không còn yêu cậu ấy nữa có phải không ạ?

Ni bà mỉm cười:

- Tình yêu sẽ biến đổi. Khi ngọn lửa tình đã tắt, ánh sáng nó vẫn còn tỏa ra, nhưng không còn tập trung vào một người mà sưởi ấm toàn diện linh hồn. Bây giờ, linh hồn ấy sẽ bào trùm tất cả chúng sinh trong một tình yêu vô lượng.

Trang im lặng đứng nghe, chiếc áo màu lam lụng thụng trên người nàng. Ni bà cảm thấy tự đáy lòng mình dâng lên một tình xót thương cô gái trẻ.

Một lát sau Trang nói:

- Mô Phật, con có phải trình cho ni bà hay lý do tại sao con đã đến đây không?

- Mô Phật, con chỉ nói khi nào điều đó mang lại cho lòng con niềm an ủi.

- Không có luật lệ nào buộc con phải khai tại sao con trốn vào đây sao?

- Không. Tất cả chúng ta vào đây là vì phiền muộn. Những gì trong quãng đời trước của chúng ta đã hiện ra như một vật quái gở nên chúng ta phải tìm nơi nương náu. Chỉ có một điều mà ta quan tâm nhất là con phải độc thân, vì nếu có chồng ta phải được phép của chồng con mới được.

- Con nói thật, con không có chồng.

- Vậy thì con hãy sống nơi đây, sống trong sự bằng an. Trời ở trên chúng ta và đất ở dưới tất cả mọi người.

Dứt lời, bà đứng dậy bước ra khỏi phòng.

Trang đứng lặng một hồi lâu; nàng không cảm thấy mệt mỏi cũng không cảm thấy đau đớn gì. Một sự bình an sâu xa tràn ngập tâm hồn nàng.

Trang sống trong tu viện ba năm trời.

Nàng đã dùng cái thời gian đó để dẫn đưa ngọn lửa từ đáy sâu của lòng nàng, biến thành ánh sáng tỏa ra bên ngoài như lời ni bà viện trưởng đã nói. Trong suốt thời gian này Trang không gặp Đavít lần nào. Nàng không hề bước chân ra ngoài mà đàn ông thì không được phép vào bên trong chùa sư nữ.

Trang khởi sự việc tu trì ngay vào ngày sau, khi thím Hoàng ra về. Nàng bắt đầu học giáo lý nhà Phật, học các nghi thức tụng niệm, lãnh phần công việc hằng ngày như quét tước chùa chiền, săn sóc vườn tược, phụ giúp nấu nướng v.v… và sau khi vị ni bà niên trưởng trong tu viện xuống tóc cho Trang, giai đoạn tập tu của nàng đã chấm dứt. Nàng tuyên hứa và trở thành ni cô. Cuộc sống thầm lặng của tâm tư nàng đã khép kín. Ni bà trụ trì đã đặt cho nàng một tên mới là Chính An.

Trong năm đầu, Quí Lan chỉ đến thăm nàng có hai lần, nhưng hai năm sau Quí Lan đến gặp nàng luôn.

Trang rất trầm lặng, còn Quí Lan thì vẫn luôn luôn liếng thoắng, hết nói chuyện này đến chuyện khác luôn mồm. Cô ta tọc mạch, thấy gì cũng nhìn cũng hỏi. Quí Lan còn kể cả các việc lặt vặt trong gia đình nữa. Nhờ thế, Trang mới biết hai vợ chồng thím Hoàng đã trở về quê sống cùng các con trai họ. Nàng còn biết thêm rằng, sau khi ông Era chết đi. Arông tính nào vẫn tật nấy. Hắn trở lại bê tha, lười nhác như cũ. Tức giận, Đavít đã bảo các con trai của ông Cao Liên dẫn nó đi theo đoàn thương hồ. Các con ông Cao Liên nay nối nghiệp cha, họ thay ông chỉ huy đoàn thương hồ, vì thân sinh họ đã quá già yếu. Họ đã bỏ rơi Arông lại tại một xứ miền Tây. Dân Do Thái tại đây sẽ có cách cải thiện hắn. Từ đó không ai còn nghe nói đến hắn nữa.

Sáu năm đầu, Quí Lan đến chùa luôn. Cô ta đã sinh đứa con thứ tư, và khi đầy tháng, Quí Lan bồng nó đến thăm Trang.

Quí Lan hãnh diện vì có nhiều con trai nhưng khi các ni cô đi tản mát, để lại một mình Quí Lan với Trang, cô ta mới tỏ rõ rằng cô chẳng mấy thích thằng bé này.

Cô ta chỉ thằng bé trong tay chị vú nói lớn:

- Trang xem đấy, nó có phải là con tôi không?

Quí Lan không thể nào gọi người tì nữ cũ của mình khác được.

Trang cười nói:

- Thì chính cô đã sinh ra nó mà?

Trời đã nâng nàng lên ngang hàng với Quí Lan. Nàng không còn phải “thưa mợ chủ” như trước kia nữa.

Quí Lan bĩu môi:

- Nó Tây giống hệt như là bà nội nó.

Trang không thể nín cười được. Thật vậy nó giống bà Era như tạc. Khuôn mặt nó có những đường nét thô và mạnh. Trang ra hiệu bảo chị vú trao thằng bé cho nàng. Đặt đứa nhỏ trên gối, nàng xem kỹ chân tay nó và nhận thấy tất cả đều lớn và thô.

Nàng nói:

- Sau này nó sẽ rất cao lớn. Cô xem trái tai của nó đây này, trái tai dài biểu hiện lòng quả cảm và khôn ngoan. Thằng bé này ngày sau sẽ gặp rất nhiều may mắn.

Nàng đã an ủi Quí Lan như vậy và cô ta rất lấy làm cảm kích. Cô năn nỉ:

- Về nhà chơi ít bữa đi Trang. Tại sao lâu nay không về thăm nhà lần nào cả thế? Ngày nay lũ gia nhân không còn vâng lời tôi như trước kia đã vâng lời Trang. Thằng cu lớn biếng học quá chừng, hôm qua cha nó đánh một trận nhừ tử vì thế. Tôi khóc, cha nó còn trút cả giận lên đầu tôi nữa. Nếu cô về, mọi người sẽ nghe lời cô như từ trước họ đã nghe cô, Trang ạ.

Trang mỉm cười lắc đầu. Nàng trao trả đứa bé cho chị vú.

Quí Lan nói để làm vui lòng Trang:

- Trang ạ, khi nào cô cũng vẫn thế, mặc dầu đã xuống tóc quy y.

Trang chột dạ. Phải chăng câu nói đó đã lột trần những nỗi niềm thầm kín của lòng nàng. Có phải vì đầu nàng đã cạo trọc, vì nàng đã trở thành ni cô nên nàng không dám gặp mặt Đavít nữa? Trước vẻ mặt nghiêm nghị và im lặng của nàng, Quí Lan ngỡ rằng mình đã thuyết phục được Trang.

Hôm ấy, khi trở về nhà, Quí Lan đã nói cùng Đavít rằng cô đã mời được Trang về thăm nhà một ngày. Đavít trở nên nghiêm nghị và lặng thinh, không nói gì.

Trong phòng riêng, Trang ngồi xét mình một cách nghiêm khắc. Nàng tự nghĩ: “Quả thật mình đã sợ Đavít nhìn thấy mình như thế này”.

Các ni cô không có dùng gương, trong phòng Trang đổ một thau nước đầy và cúi soi mặt. Trong cái ánh sáng yếu ớt của buổi chiều tà, khuôn mặt nàng phản chiếu lờ mờ trong thau nước. Đây là lần đầu tiên Trang nhìn thấy cái đầu trọc lóc xấu xí của nàng. Nàng không nhìn thấy gì khác cả, không nhìn thấy đôi mắt u buồn trầm tĩnh, cũng không nhìn thấy đôi môi hồng thắm, khuôn mặt diễm kiều… Bây giờ đối với nàng hình như tất cả sắc đẹp của nàng đều qui tụ ở mái tóc đen nhánh, ở hai con rết quấn trên tai và ở nơi những đóa hoa mà nàng thường cài lên mái đầu. Trang nhìn mãi rất lâu, đoạn nàng hắt thau nước qua cửa sổ, xuống hàng huệ mọc sát chân tường.

“Để Đavít nhìn thấy ta bây giờ, thật là một hình phạt quá nặng nề đối với ta”, nàng tự nghĩ.

Tuy nhiên, hai năm sau đó Trang đã đến nhà Đavít. Quí Lan đã sinh đứa con thứ năm, một bé gái kháu khỉnh và đang mang thai đứa thứ sáu. Một hôm, một con ở hấp tấp chạy đến chùa năn nỉ ni cô Chính An về nhà gấp vì đứa con đầu của Đavít sắp chết. Nó đưa cho nàng một mảnh giấy gấp tư. Nàng đọc vỏn vẹn mấy chữ:

“Xin hãy thương con tôi mà trở về nhà gấp”.

Nàng bảo con ở:

- Được, tôi sẽ đến.

Rồi nàng vội vã xin phép ni bà trụ trì. Trong mấy năm rày ni bà đã quá già, quá yếu, không bước chân ra khỏi cửa phòng một bước. Bà tỏ ra rất tốt đối với mọi người nhưng đặc biệt yêu thương ni cô Chính An. Bà xem nàng như chính con ruột của bà vậy.

Ni bà cầm lấy tay nàng, dịu dàng hỏi:

- Ngọn lửa lòng con đã tắt chưa?

- Mô Phật, lòng con đã nguội lạnh.

- Vậy thì con hãy đi đi. Ta sẽ cầu nguyện cho đứa bé mau lành.

Ngày hôm ấy Trang rời khỏi chùa, nơi nàng nương náu bấy lâu và đã trở thành gia đình của nàng. Trên đường phố về nhà Đavít, quả tim nàng đánh như trống trận để trấn an, nàng vừa đi vừa niệm Phật liên hồi và tay lần tràng hạt bằng gỗ Ấn Độ màu nâu.

Khi bước qua cánh cổng quen thuộc ngày xưa, nàng gặp Đavít đang đứng đợi. Tim nàng càng đập mạnh hơn, nhưng nh