← Quay lại trang sách

CON GÀ CON

Chưa tới công trường, mới vào dùng cơm tối trong quán ăn nhà ga chúng tôi đã nghe nói đến anh ấy. Một bọn thanh niên huyên náo chiếm già nửa gian buồng. Va-li, ba-lô và túi dết của họ chất đống dưới cửa sổ. Bọn trai trẻ ồn ào, da tay như bánh mật và mặt rám tím đi vì rét, đã ghép bàn lại, trên bày la liệt những đĩa và chai. Như tất cả những người làm việc ngoài trời, họ đã quên không biết nói nhỏ và tiếng họ chuyện trò ran ran cả căn buồng.

Nghe họ nói có thể đoán ngay được tất cả bọn đều nằm trong một kíp công nhân phụ trách máy bơm lớn. Công việc ở sông đào vừa xong, họ được cử đến Di-gu-li vào một công trường mới, ở đó họ sẽ được sử dụng lần đầu một cái máy xưa nay chưa từng có, vừa ra khỏi xưởng chế tạo và do một nhà chế tạo lừng danh mới hoàn thành. Lòng tự hào của họ hiện rõ trên nét mặt. Nhưng, như thói thường vào những trường hợp ấy, đầu óc các nhà kỹ thuật trẻ tuổi còn vương vấn nơi họ vừa bỏ ra đi. Họ nhớ con sông đào với một lòng trìu mến tiếc thương như anh học sinh vấn vương lớp học lúc phải xa trường. Trong câu chuyện tràn đầy tính trai trẻ say sưa, tôi thường nghe nói đến tên một anh Phê-đô I-va-nô-vích nào đó mà rõ ràng là tất cả bọn ai nấy đều quý mến và nhắc nhở với một niềm vui vô hạn.

- Ồ, giá mà Phê-đô I-va-nô-vích cũng được đi với chúng mình nhỉ?

- Cậu chỉ nghĩ vớ vẩn. Công việc chưa hoàn thành, ai để cho một người như anh ấy đi.

- Này, các cậu có nhớ những câu anh ấy tiễn đưa chúng mình không?

Vừa đến công trường chúng tôi đã biết ngay rằng Phê-đô I-va-nô-vích là kỹ sư phụ trách một khu công tác, chính cái khu làm việc của đoàn thanh niên chúng tôi vừa gặp đi Quy-bi-sép. Điều đáng lưu ý là tất cả những người nói chuyện với chúng tôi bất cứ ai cũng nhắc đến anh và đều không hết lời ca tụng. Người ta bảo anh là một nhà quản trị tháo vát và nhiệt thành, một kỹ sư táo bạo luôn luôn tìm cái mới, không bao giờ tự mãn, một đảng viên cộng sản kiên quyết và sáng suốt, sinh ra để làm thủ trưởng, một con người dũng cảm, tận tâm, có khả năng làm việc phi thường.

Chúng tôi được nghe rất nhiều chuyện thú vị về Phê-đô I-va-nô-vích nên dần dà trí tưởng tượng của chúng tôi đã dựng lên nhân vật con người xây dựng tiền tiến của Liên-xô, một trong những người mà trí tuệ và sáng kiến đã biến những chương trình vĩ đại của Sta-lin thành sự thật. Chúng tôi chỉ còn thiếu một vài nét sống. Nhưng lúc đó kỹ sư lại vắng mặt tại công trường. Anh đi cùng một đoàn đại biểu chiến sĩ thi đua sang thăm khu bên cạnh, ở đấy có việc gì đang hỏng.

Chúng tôi đang nóng ruột đợi anh về, tình cờ lại được gặp anh ngay tại nơi làm việc. Người ta chỉ cho chúng tôi đồng chí phụ trách giữa lúc anh đang đứng trên con chạch bờ đê, hăng hái hướng dẫn các đốc công và trưởng kíp vây chặt xung quanh. Rồi sau họ giải tán một cách vội vã; còn lại một mình kỹ sư buông mắt ngắm nghía toàn cảnh công trường. Người anh tầm thước, mập, khuôn mặt chất phác như tỏa ra một nghị lực vui tươi, đôi mắt trong như nước sông, những con sông chảy giữa thảo nguyên vào một ngày hè tươi đẹp. Bó chẽn người trong tấm áo bông đen, cúc cài cẩn thận, anh thoáng có một đôi vẻ lịch sự. Kỹ sư cầm trong tay chiếc mũ lưỡi trai, gió thổi tung mái tóc vàng hung đã từ lâu chưa biết đến lưỡi kéo thợ cúp.

Tôi trèo lên đỉnh đập tự giới thiệu. Anh bắt tay chặt rồi đột ngột nói với tôi:

- Anh và tôi, chúng ta thật là may mắn. Chúng ta chọn rất đúng lúc mà ra đời. Chúng ta được thấy những cái thú vị nhất. Mà đâu có phải chỉ được nhìn, còn được xây dựng nữa. Này, anh thử trông mọi vật xung quanh!

Đứng trên ngọn cái đập, chúng tôi đưa mắt nhìn cảnh trí các công trường dài đến tận chân trời. Trời mùa xuân trong trẻo. Những kiến trúc to lớn, phức tạp, in rõ hình trên màu xanh cây cỏ thảo nguyên. Không khí quá nóng chuyển mình ở trên cao và chim sơn ca cất tiếng hót, hăng như chiến sĩ thi đua!

- Ấy thế mà tôi còn được xúc lưỡi xẻng đầu tiên ở đây nữa. Tôi không nói nghĩa bóng đâu, thật đấy. Trời thì rét kinh khủng, đất cứng như đá. Cán xẻng suýt vỡ mà vẫn đào được gần một ki-lô đất vì người ta nóng ruột quá mất rồi muốn leo ngay vào công việc.

Tôi toan rút sổ tay trong túi ra theo thói quen của người viết báo thì kỹ sư đã ngó nhìn đồng hồ rồi vội vã cáo lui.

- Anh thứ lỗi, tôi có việc bận… Anh cần gì đến tôi, xin đừng nề hà… cứ gọi dây nói cho tôi lúc nào cũng được…

Anh trèo xuống khỏi bờ đê với dáng lanh lẹn của thanh niên và thoăn thoắt tiến về phía con đường có một chiếc xe con đợi sẵn.

Thực tế, anh rất sẵn sàng giúp đỡ tôi. Không ai nắm được nghệ thuật nói đến người khác và nêu bật sự dũng cảm của họ trong công việc giỏi bằng anh. Nhanh nhảu, thích giao du, say đắm tất cả mọi vật trên đời nếu thời gian không gấp, anh có thể nói hàng mấy giờ liền về cái công trường của anh hoặc mơ mộng đến tương lai của miền đất này giờ đây vẫn còn khô cằn, hoang vắng, và hình dung trước trong trí óc cái giai đoạn sắp tới mà sức mạnh ghê gớm của nước được thuần dưỡng sẽ chuyển thành điện lực cung cấp cho kỹ nghệ, đồng thời những sa mạc khô cằn sẽ biến thành ruộng đất phì nhiêu.

Anh biết nói đến tất cả những điều đó như chính anh đã đến thăm cái tương lai ấy, như chính anh đã được ngắm nghía thỏa thuê cái ngày mai ấy bằng đôi mắt thông minh và nhanh nhẹn để có đủ chứng cớ về kể lại với chúng tôi.

Nhưng tôi nhận thấy anh không hề nói về anh một chút nào, và có cảm tưởng như anh cố tình quên hết mọi điều liên quan tới cá nhân anh. Đối với tôi, cái đó thật lạ lùng trong con người giao du rộng và tính nết cởi mở ấy. Nhưng càng ngày anh càng làm tôi mến thêm nên tôi định bụng hễ có dịp là sẽ nói thẳng với anh, không dè dặt…

Dịp đó đến rất mau. Hôm đó người ta hoàn thành công việc tu sửa con đê bằng đất hình thù giống một quả núi chắn ngang. Đó là một ngày đáng ghi nhớ, anh em công nhân các trạm khác, râu ria mới cạo, mặc quần áo đẹp, đầu chải nước hoa thơm phức, cũng kéo đến xem đổ nốt những thước khối cát cuối cùng lên đỉnh đập.

Anh trưởng khu cũng có mặt ở đấy. Anh đứng trong đám đông, mặc áo bằng da, đầu đội mũ mền hất ngược ra phía sau. Giở một tờ báo lên che nắng, vẻ mặt sung sướng như người mê xem hát trước điệu bộ một diễn viên điêu luyện, anh nhìn làn nước màu nâu tuôn ra khỏi miệng vòi bơm mở rộng.

- Sắp xong chưa anh Phê-đô?

Anh gật đầu trả lời, rồi vui vẻ gấp tờ báo, nghe kêu sột soạt.

- Anh đọc chưa? Nhân dân Trung-quốc đang trị thủy sông Hoàng-hà! Hàng triệu người đang làm việc! Vĩ đại quá phải không anh? Bài báo viết khá, mình có thể hình dung rất dễ họ đang làm những gì ở nơi ấy. Im lặng một lát, anh nói thêm: Trung-quốc xây dựng những con đê khổng lồ, Ru-ma-ni khơi sông đào Đa-nuýp-Hắc-hải, Bun-ga-ri trồng rừng để chống gió nóng, còn Hung-ga-ri bắt bông và các loài cam chanh phải mọc giữa trung tâm châu Âu. Thật khác nhau một trời một vực với chúng nó đang cấy rận truyền dịch hạch…

Đôi mắt xanh của anh trở nên tinh ranh:

Ấy thế mà ai chỉ đường cho họ? Tôi với anh đấy thôi, những người xô-viết! Đúng như thế… Trung-quốc xa xôi, cách đây hàng ngàn dặm, thế mà tôi sung sướng như những việc đó xảy ra ở nhà tôi, trong khu tôi…

Chúng tôi đến ngồi lên một ống dẫn nước lớn, ống đặt trên đỉnh đập chạy dài xuống phía dưới, nơi thấp thoáng những máy bơm hình thù thô lỗ, gần dải sông sáng như gương. Cát hòa lẫn nước chảy trong ống. Nhiều hòn cuội bị làn cát cuốn theo chốc chốc lại va vào thành ống kêu lanh canh, tạo cho những vật ấy một vẻ sinh động. Phê-đô xoa tay lên cái ống:

- Anh có bao giờ nhảy dù không nhỉ? Tôi đã nhảy rồi, hồi còn là sinh viên… Bây giờ mỗi khi nghĩ đến những chuyện vừa nói là ngực tôi như tắc thở hình như tôi đang nhảy dù xuống đất vào một buổi sáng đẹp trời trong trẻo…

Tâm hồn anh bạn có vẻ chứa chan tình cảm. Tôi bèn nói rất thành khẩn là đang chuẩn bị viết một thiên phóng sự về anh và yêu cầu anh tự thuật cho tôi rõ thêm nhiều sự việc tôi đã nắm được. Tự nhiên người anh lạnh hẳn. Rồi bằng một giọng khó chịu, anh trả lời rằng bản thân anh tuyệt đối không có gì hay, đáng nói.

- Thế có phải khu của anh giữ cờ thi đua luân chuyển từ hơn một năm nay không? Ở chỗ anh, trong công tác ai ai cũng dũng cảm, cái gì cũng dũng cảm ghê lắm kia mà!

Anh kỹ sư mỉm cười rồi trả lời có vẻ thương hại, hình như tôi bắt anh phải giải thích một điều thế gian ai cũng rõ, chỉ mình tôi mù mịt:

- Cờ thi đua luân chuyển à? Chúng tôi giữ nó thật và còn quyết không để ai giật mất nữa kia! Nhưng nếu anh biết đến những con người của tôi, những con người xây được cả núi chứ nói gì một cái đập! - Bỗng anh chồm lên - Sao cát lại nhiều nước thế này? Út-sma-nốp, Út-sma-nốp! Gọi ngay dây nói cho máy bơm, hỏi họ sao lại để chảy cái thứ nước bùn này? Thôi bây giờ, tôi phải xin phép anh đi thôi. Chắc anh em kỹ sư đã đợi tôi ở văn phòng…

Anh đi mấy bước trên cái ống dẫn nước rồi ngoảnh đầu lại. Thấy tôi chưng hửng, anh quay gót:

- Anh có vẻ khó chịu? Quả thật tôi thiếu thì giờ… Hay chiều hôm nay mời anh lại đằng tôi. Mai chủ nhật rồi, tôi rỗi, nhà tôi sẽ làm bánh pen-mê-ni, chúng ta uống cốc rượu rồi nói chuyện. Anh đừng giận. Tôi xin trả lời hết thảy các câu anh hỏi, như ở phòng nhân sự…

Và anh chạy dọc theo cái ống máng về phía đồng bằng, chạy thế không phải để vì ở nhiều quãng ống dẫn nước đặt cao lên cọc khá xa mặt đất.

Tối hôm đó tôi tới thăm Phê-đô I-va-nô-vích. Anh ở một nửa tòa nhà hai chủ trong cái thị trấn mới đã trải rộng một cách ngoạn mục trên những quả gò bên bờ cái biển tương lai lúc đó mới có hình trên bản đồ thiết kế. Tôi được biết suốt bao nhiêu năm qua anh kỹ sư đã sống lưu động hết công trường này đến công trường khác, nhưng trong căn nhà rộng rãi, đầy đủ tiện nghi của anh, không có gì bộc lộ cuộc đời nay đây mai đó.

Trong khi vợ anh, một chị người Si-bê-ri hiền hậu có khuôn mặt dễ thương, làm bánh pen-mê-ni dưới bếp và thỉnh thoảng lên bày bàn một cách nghệ thuật và khoan thai, tôi và anh chủ nhà đến ngồi lên một cái giường thấp. Tôi lập tức hỏi tại sao anh cứ cố tình thoái thác không kể cho nghe về anh. Anh đành chịu thua nhưng lại nói bằng giọng của kẻ phải chịu nhận uống một liều thuốc đắng:

- Được được, tôi sẽ xin nói về tôi. Anh thì cần những cá tính đặc biệt, có phải thế không nhỉ? Cần đến những kẻ sống một cuộc đời có thể dùng làm gương sáng để động viên mọi người? Như vậy sao lại chọn tôi? Tôi là một người xô-viết, cũng như mọi người khác thôi. Từ bao lâu nay Đảng giáo dục tôi: sinh hồi cách mạng tháng Mười, làm thiếu nhi, đoàn viên thanh niên rồi đảng viên cộng sản; Chính phủ chăm sóc tôi từ khi còn nhỏ, từ nhà gửi trẻ mẹ tôi gửi tôi đi làm việc đến trường Đại học mà tôi được học bổng Sta-lin. Tôi cũng chưa có dịp ra tiền tuyến, mới được nghe súng nổ trong những buổi đi săn - Anh ngã người để nhìn rõ hơn đứa con gái lên bốn, em bé đang nhón đầu ngón chân để đặt bơ lên mặt bàn đã bày xong các món ăn - Này anh thử nghĩ xem, tại sao tôi lại lên mặt anh hùng với anh được? Tại sao tôi lại có thể nói những điều không có?

- Sao lại không có? Thế cái cầu? Tôi đã nghe kể tỉ mỉ về việc anh cứu cái cầu khỏi nước lũ ra sao.

- Ai nói với anh như thế? Hàng trăm người đã cứu cái cầu chứ mình tôi đâu. Băng tan, giữa lúc lũ to nhất, họ phải dầm mình trong nước đến tận vai mà cầm móc làm việc. Còn tôi đến bàn chân cũng không ướt. Cái cầu! Ai lại nghĩ như thế nhỉ? Nếu không có những anh em ấy thì cầu đã trôi ra bể A-dốp từ đời tám hoành nào rồi! Trong bọn chúng tôi có một đồng chí thợ lặn, anh ấy mới thật anh hùng. Anh có biết những ngày đó, đồng chí ấy làm những gì không?

- Chuyện anh thợ lặn ấy ta sẽ nói sau! Nhưng anh đã bao nhiêu đêm không ngủ… Và có phải chính anh đã nghĩ ra cách ném bộc lôi…

Trên mặt anh vẻ khó chịu chuyển thành kinh ngạc:

- Anh cho là người thủ trưởng có thể ngủ trong lúc anh em dầm mình làm việc trong nước lạnh buốt xương? Còn vấn đề bộc lôi thì nhiệm vụ tôi là phải nghĩ ra vì trên cho tôi công tác ở đây và tin tôi. Hơn nữa, tôi được trả lương cũng chỉ vì thế.

- Nhưng hình như anh đã ném gói bộc lôi đầu tiên sau khi ra lệnh cho mọi người rời xa cái cầu.

- Người ta nói quá ra đấy! Một là không phải chỉ có mình tôi. Hai người cả thảy. Tôi với đồng chí giật mìn, một anh chàng rất dũng cảm, trong chiến tranh đã được huân chương Chiến thắng đầy ngực. Hai là tôi đã tính trước sức công phá của bộc lôi, nó chỉ làm vỡ tung băng mà khung cầu vẫn vững. Nếu không thì anh cũng rõ, ai lại liều lĩnh để nguy đến cái cầu. Tôi ra lệnh cho anh em rời ra xa là lẽ tất nhiên: nhỡ xảy ra việc gì thì sao? Cái chính là tôi bảo vệ tai nạn cho họ, anh có nghe thấy tiếng nổ ấy mới biết. Sau buổi đi tôi bị điếc đặc ba ngày liền!

- Thế chuyện anh công nhân trắc địa?

- Chuyện ấy họ cũng kể với anh? Sao nữa? Thôi được, đồng ý là tôi đã cứu anh ta. Nhưng nếu anh ở hoàn cảnh tôi, anh có thể bình chân như vại mà nhìn anh ấy chìm lỉm được không?

- Thế còn trường hợp chữa đê?

- Có gì khác thường đâu. Nói cho đúng lẽ ra chúng tôi còn phải bị phê bình ra trò nữa kia, nhất là tôi, tôi không tính được sức mạnh của nước lũ, thiếu minh mẫn. Tuy tôi đã biết rất rõ con sông mực nước thất thường, khó trị. Đến việc này cũng vẫn là công anh em cả. Chính họ đã cứu được hết. Có nhìn họ làm việc mới thấy họ anh hùng thật!

- Nhưng tôi lại được biết lúc gay go nhất anh đã nhảy xuống nước đem thân mình ra ngăn chỗ nước xối vào?

Anh kỹ sư cất tiếng cả cười, vui vẻ và thành thực đến nỗi hàng mi vốn bạc màu vì nắng chợt đen sẫm lại và dính nước mắt.

- À, những câu chuyện thần kỳ bắt đầu nảy ra như thế đấy?

Đột nhiên anh kéo vào lòng anh đứa con gái vừa mang một giỏ bánh mì dưới bếp lên.

- Anh nhìn cô ả này xem - Em bé nép vào người bố, rúc đầu trong áo anh và liếc nhìn chúng tôi, đôi mắt cũng xanh như mắt bố.

- Con kể chuyện con gà con một tí đi!

- Bố kể cơ! - Cô bé vừa đáp vừa rúc đầu thêm, chỉ để hở một mẩu tai đỏ ửng.

- Thôi được, để tôi kể vậy. Nhà tôi có nuôi một đàn gà, mới đây con gà mái đẻ được một tá gà con.

- Một tá đâu nào, mười một con chứ. - Em bé đính chính ngay.

- Ừ thì mười một con, đồng ý. Cô ả nhận trông nom chúng nó. Thế là nó gần như thành cần vụ cho con gà mẹ. Đúng không con?

- Chả đúng tí nào. Con không phải là cần vụ. Con với má hai người phân công nhau, có thế thôi. Má thì trông gà mái với gà trống, còn con trông lũ gà con.

- Đúng lắm, lần này cũng đúng. Má con nó thì bao giờ cũng phải anh ạ, bao giờ cũng thế. Anh kỹ sư ở nửa nhà bên kia, anh ấy có một con chó to, một con chó săn. Mõm nó trông ghê tởm lắm, rất dữ tợn, dãi dớt đầm đìa, nanh vàng nhe ra…

- Tên nó là Phát-xít - Có bé nói len vào.

- Ừ, ừ. Một hôm con Phát-xít ấy y như một tên phát-xít thật, xâm phạm vào biên giới và nhảy sang sân nhà tôi. Chúng tôi đang ăn cơm chiều chợt nghe thấy ồn ào ghê gớm ở ngoài sân. Tôi và nhà tôi chưa kịp hiểu chuyện gì thì cô ả ở trên ghế chồm ngay xuống đất, chạy vụt ra ngoài. Chúng tôi đến bên cửa sổ. Anh thử hình dung xem: con chó săn tiến thẳng đến trước con gà mẹ. Con gà mẹ không sợ, xù hết lông che chở cho đàn gà con. Dáng nó đi oai vệ, với hết cái dũng khí của người mẹ, gan dạ đến nỗi con chó săn kẻ cướp chưng hửng ra, đứng dừng ngay lại. Con chó nhe nanh sủa càu nhàu song không dám xông vào. Chẳng may thế nào có một con gà con chưa kịp chạy về núp sau lưng mẹ. Con chó săn vội lợi dụng tình thế chồm đến vồ… Thế là đúng lúc ấy, cô ả mà anh thấy đây, nhảy tót khỏi bậc lên xuống, chạy một mạch ra phía con chó săn đã từng làm cho cả dân phố sợ hết hồn. Nó chạy đến và giơ tay đấm thùm thụp vào mõm con chó. Mẹ nó hoảng lên. Tôi cũng sợ, lao người chạy ra sân. Vừa được mấy bước, tôi không tin ở mắt tôi nữa - con chó săn tháo lui, thế có lạ không? Còn cô ả thì vừa khóc vừa cầm trong tay con gà con bị thương.

- Chả đúng, nó có bị thương đâu. Nó gẫy một chân nhưng sau má với con đã chữa khỏi. Bây giờ nó không còn là gà nhiếp nữa, thành gà dò rồi, chỉ phải cái hơi bị khập khiễng một tí - cô bé không giấu mặt nữa, ngồi chồm chỗm lên đầu gối bố nghe kể chuyện với một niềm vui thích rõ rệt và hồi hộp sống lại những xúc động cũ.

Chị vợ anh kỹ sư còn choàng khăn làm bếp, tay áo xắn lên, đứng ngoài ngưỡng cửa mỉm cười giễu cợt:

- Lại chuyện con gà con! Nhà tôi chẳng bao giờ bỏ lỡ dịp kể lại thiên anh hùng ca ấy!

- Câu chuyện đáng kể lại lắm chứ phải không anh?- Đồng chí kỹ sư làm ra vẻ thản nhiên nhưng vẫn thấy tự hào, hỏi tôi: Anh có nhìn thấy con chó săn to như con bê ấy anh mới biết. Thế mà con bé dám nắm tay đấm lên mõm nó, bằng đôi tay nhỏ xíu nhường kia!