LÁ THƯ ĐẾN MUỘN
“Li-đa thân mến, bắt tay Li-đa nhé!
Đến hàng thế kỷ nay, mình không viết cho Li-đa nữa, có lẽ Li-đa đã quên hẳn cái kiểu chữ “kỳ quặc” của mình như Li-đa vẫn thường gọi trước kia. Thú thực là nhận được thư trước của Li-đa mình không trả lời; nhưng như thế không phải mình đã quên Li-đa đáng yêu, Li-đa thông minh và biết điều của chúng mình đâu. Trái lại mình nghĩ đến Li-đa luôn. Gặp những hoàn cảnh khó khăn mình còn thầm hỏi ý kiến Li-đa nữa. Lần nào mình cũng đoán ra những câu Li-đa định trả lời mình - con bạn thân An-na rất nhộn của Li-đa - và bao giờ mình cũng triệt để nghe lời Li-đa chỉ bảo.
Li-đa ơi, mấy năm học ở trường mình đã tập được thói quen mỗi khi bối rối, chịu khó đào óc tìm lấy cách giải quyết. Nhưng, ở đây, Li-đa ạ, từ khi mình nhận công tác công trường, rất nhiều lần bối rối mà bằng tốt nghiệp của mình chẳng phải là cái chìa khóa mầu nhiệm có thể giải quyết được bất cứ vấn đề sản xuất nào, nên phải nói rằng mình cần đến Li-đa lắm, cần đến cái tính “lạnh” của Li-đa, bao giờ cũng đến là bình tĩnh, vững vàng.
Có lẽ Li-đa đã dùng lý luận để phân tích rằng mình không viết thư cho Li-đa là tại chúng ta đã chia tay nhau một cách thiếu thân yêu. Nếu thật như vậy thì lý luận đã đánh lừa Li-đa đấy. Thực ra thì hồi ấy thấy Li-đa quyết định ở lại Mát-scơ-va mình ngao ngán cả người, nỗi ngao ngán thật sự đầu tiên trong đời mình. Thân nhau thì phải nói thẳng, hôm ấy thật mình có cảm tưởng như trước kia đã xét đoán nhầm hết về Li-đa. Bởi vì đối với mình, Li-đa không phải chỉ là một người bạn: Li-đa hầu như đã thay thế cha mình, mất ở Sta-lin-gơ-rát, người cha yêu dấu, tin cậy mà mình dám thổ lộ cả những chuyện mình giấu mẹ. Trong đám bạn học, Li-đa là người bạn mình quý nhất. Cố nhiên không phải tại Li-đa học giỏi hơn hay nhiều thiên tư hơn các anh chị em khác, nhưng vì mình thấy dầu Li-đa yêu đời sôi nổi, Li-đa đã biết bình tĩnh đặt quyền lợi tập thể lên trên quyền lợi cá nhân. Cái ấy, nhiều lúc thật gay, thật là gay…
Chúng mình đều tin rằng sau này thế nào Li-đa cũng sẽ thành một ngôi sao sáng trong ngành thủy điện của chúng ta. Mỗi khi nghĩ đến ngày mai bao giờ mình cũng hình dung thấy Li-đa rất đẹp, rất tốt, rất dũng cảm của mình điều khiển những công trình vĩ đại trong một khuôn khổ to lớn vô song.
Thế mà đột nhiên - hừ đột nhiên… Bây giờ nhớ lại mình còn thấy đau xót. Li-đa có nhớ nỗi vui mừng của chúng ta khi được tin những người tốt nghiệp có bằng “ưu” được quyền chọn nơi mình sẽ đến nhận công tác hay không? Mình không ngần ngừ xin đi ngay Von-ga-Đông. Làm sao có thể đi chỗ khác được? Đó là công trình cộng sản đầu tiên, nơi chúng ta ai cũng ước mong được đến! Va-lê-ri và Fê-đô, sẽ cùng lên đường với mình, vui sướng đến nỗi ôm lấy cô gác cổng Pa-cha mà hôn. Thế rồi Fê-đô nói: “Chị Li-đa đáng kính của chị ở lại một viện nghiên cứu khoa học ở Mát-scơ-va”. Mới đầu mình cho là cái tin ấy vô lý, sau thấy kinh hãi, thật đấy!
Li-đa thân mến ơi, đừng giận mình nói thẳng. Nhưng, mình cảm thấy như trái hẳn với bọn mình, ai cũng muốn đi ra tiền tuyến. Còn Li-đa, Li-đa đã lợi dụng cái quyền được lựa chọn của mình để đào ngũ về hậu phương. Lúc đó mình nghĩ như thế và mình càng khổ hơn vì Li-đa là người bạn tốt nhất của mình.
Đừng chấp những lời tàn nhẫn ấy. Sở dĩ mình kể lại cho Li-đa biết rõ hết những điều mình nghĩ về Li-đa lúc ấy là tại bây giờ mình đã đổi ý rồi. Mình không còn là con “ngựa non bồng bột” như Li-đa thường gọi mình trước kia nữa. Công trường của chủ nghĩa cộng sản là một trường học lớn. Nếu trường Đại học đã võ trang cho chúng mình nhiều hiểu biết thì công trường dạy chúng mình sử dụng những vũ khí ấy. Nó đã rèn luyện cho mình biết suy nghĩ thấu đáo, biết cân nhắc hơn thiệt trước khi quyết định và hành động, cái nghệ thuật giản đơn thôi nhưng không thể lĩnh hội được ngay một lúc.
Mình không còn tự coi mình là một người anh hùng “xông lên tiền tuyến” và Li-đa là một tên đào ngũ “rạt về hậu phương” nữa. Trái lại mình tin chắc rằng đầu óc minh mẫn và sáng suốt của Li-đa đã dẫn Li-đa tới nơi Li-đa có thể sử dụng tốt nhất cái thực nghiệm của Li-đa và phục vụ nhân dân được nhiều hơn. Mình cũng hiểu cái tính Li-đa yêu Mát-scơ-va. Mình nhớ lại, hồi thực tập trong những dãy núi ở Tát-gi-kít-stăng, thế nào thì thế Li-đa cũng không chịu lấy lại đồng hồ theo giờ địa phương và khăng khăng sống theo giờ Mát-scơ-va. Kể ra thì Mát-scơ-va xứng đáng để người ta lưu luyến như vậy nhất là Li-đa lại sinh ra, lớn lên và qua thời thơ ấu ở đó. Làm gì mà không gay khi đánh đùng một cái phải rời bỏ ánh sáng của thủ đô để ra đi đến đâu thì đến vào một cái thảo nguyên buồn rũ, chỉ có tiếng rít của lũ di-den gậm nhấm và những con rắn độc ghê tởm ngắn chùn chũn như củ cà-rốt mà độc vô cùng là độc.
Thời gian đầu, chúng mình gặp không biết bao nhiêu là rắn, đủ các màu. Chúng mình ngủ trong lều, làm việc trong màn và chiến đấu với lũ ruồi chết tiệt. Hình như Va-lê-ri không được chúng nó thích lắm. Trái lại chúng nó rất ưa chuộng anh chàng Fê-đô bé nhỏ thân yêu của chúng ta: đeo một cái màn thôi chưa đủ, kỹ sư Fê-đô còn phải bôi đất sét hòa với dầu hỏa lên khắp mặt và tay, một thứ thuốc trừ ruồi tự sáng chế ra và làm cho anh chàng giống như một cái xác ướp.
Nhưng Li-đa thân yêu ạ, những cái khó chịu vặt ấy có nghĩa lý gì so với những điều phát hiện được ở công trường?
Chắc Li-đa đã đọc những bài báo nói tới những máy móc xô-viết khổng lồ đang làm việc ở chỗ chúng mình. Chẳng bài văn nào nêu được một ý niệm thật đúng. Chủ nghĩa cộng sản, cái chủ nghĩa cộng sản thực sự mà những khối óc sáng suốt nhất hằng mơ tưởng hết thế kỷ này qua thế kỷ khác, đang chuyển từ tương lai vào hiện tại. Như thế thì lấy gì so sánh được với cái kiêu hãnh, phải, cái kiêu hãnh của một thiếu nữ Liên-xô tầm thường, con gái một người lính ngã trên trường danh dự mà được xây dựng những công trình lớn lao ấy, những công trình chưa từng có trong lịch sử và sẽ tô điểm trái đất hàng hai ngàn, ba ngàn năm nữa và vĩnh viễn…
“Cố nhiên Li-đa ạ, mình không đến nỗi ngây thơ gì mà cho rằng chỉ có chúng mình làm việc ở đây thôi, chỉ có chúng mình sáng tạo ra những cái ấy. Có đến năm trăm công xưởng ở khắp Liên-xô đã gửi sản phẩm của họ đến cho khu mình công tác. Nhưng Li-đa thử tưởng tượng, được nhìn tận mắt những công trình kiến trúc đồ sộ nổi lên trên đồng cỏ, mà chính tay mình đã được đặt những viên gạch lên trên đó.
Li-đa thân mến, Li-đa không sao biết hết những chân trời bao la đã mở ra cho tư tưởng kỹ thuật. Công trường phát triển trông thấy, con người cũng phát triển nhanh không kém. Bọn mình đến đây thì những máy xúc đất cũng vừa chuyển đến. Không phải những máy năng suất một trăm thước khối một giờ như chúng mình đã học ở trường đâu, mà là những máy khổng lồ, vừa mới sáng chế, công suất khỏe gấp năm. Một cái máy ấy chưa có người điều khiển. Trong lúc chờ đào tạo một người chuyên môn, Fê-đô nhà ta, ra cái điều là kỹ sư, nghiêng mình xuống thử làm “một cái” xem sao. Nào ngờ thất bại nên thân. Kỹ thuật bỏ rơi xa tất cả những điều chúng mình đã học. Anh kỹ sư tự cao tự đại Fê-đô đành phải sang khu bên cạnh học kinh nghiệm của người trưởng khu bên ấy, một đồng chí bộ đội chuyên ngành hiện nay là một chuyên viên rất giỏi về thủy điện.
Ngoài ra tất cả mọi người ở đây ai cũng học tập không ngừng, cả mình cũng vậy. Không thể nào không học được vì chúng mình phải sáng tạo ra những cái chưa bao giờ có. Chúng mình phải tìm dần ra những phương pháp làm việc mới thích hợp với trình độ kỹ thuật mới, do đó bắt buộc phải học tập và trở nên tinh xảo hơn trước. Một hôm, mình định đi đến khu phố trung tâm. Mình trèo vào ngồi trong một chiếc cam nhông trọng tải 25 tấn (chúng mình đã có hạng xe to ấy rồi đấy). Qua một cái rãnh chiếc xe nẩy lên, hai cuốn sách nằm sau cái bảng ghi sức điện rơi ngay lên đầu gối mình: “Cơ khí học” và “Sức bền của vật liệu”. Thấy mình ngơ ngẩn, đồng chí lái xe cười: “Cô ngạc nhiên lắm à? Tôi học hết trường phổ thông từ trước chiến tranh bây giờ thấy học lực không đủ dùng nữa. Cô tính, cái xe trên giao cho tôi điều khiển nó như thế kia kìa!… Vì thế tôi phải theo học một lớp hàm thụ của Viện Giao thông - Trình độ trung học không đủ dùng cho một đồng chí lái xe, đấy Li-đa xem!
Rồi đến những con người ở đây nữa!
Mình đoán với Li-đa rằng nếu Li-đa ở cùng với lũ này, tính tình có “lạnh” như thế cũng cứ phải yêu, mà không yêu riêng một ai đâu, trái lại yêu chung tất cả mọi người cùng một lúc. Ở đây báo chí thường nhắc nhở luôn đến một cặp bạn thân là nữ công nhân ngành hàn, hai chiến sĩ thi đua đã vượt chương trình 1.000%. Tài lắm! Li-đa là kỹ sư, chẳng nói Li-đa cũng hiểu thành tích ấy giá trị như thế nào. Thành ra mình vẫn thường coi họ như những vị thần trong truyện cổ. Vậy mà một hôm mình đến câu lạc bộ dự một tối hòa nhạc do các nghệ sĩ của Đại kịch viện Mát-scơ-va đến công tác tại công trường biểu diễn. Mi-khai-lốp hát. Cửa kính rung lên. Ngồi bên cạnh mình có hai cô gái nhỏ nhắn, mảnh dẻ, rất xinh, mặc áo lụa Trung-quốc, chân đi giày nhỏ. Họ vừa nghe vừa khóc, buồn cho số phận người trong câu hát. Người ngả ra đằng trước, họ chăm chú nghe đến nỗi nước mắt trào ra, ràn rụa trên má rồi rỏ giọt xuống đầu gối mà vẫn không biết. Thấy hay hay, đến giờ nghỉ mình tìm đến hỏi một đồng chí kỹ sư. Anh ấy trả lời có vẻ chỉnh: “Chị không biết à? Chiến sĩ thi đua ngành hàn của chúng ta đấy. Cả xứ nói đến mà chị, chị thấy “hay hay”… Hừ!…” Như thế đấy Li-đa ạ!
Hôm nay mình ba hoa quá nhỉ. Mắt Li-đa tha hồ mà đầy những chữ của mình. Làm thế nào được Li-đa? Có lẽ chúng mình đã đâm hư vì nhân dân ở khắp nơi đã quá chăm chú theo dõi cái công trường của chúng mình, làm mình quên rằng đối với một nhà nghiên cứu mô phạm ở Mát-scơ-va thì những câu chuyện trên kia rất có thể là vô vị, phải không Li-đa? Vậy thì mình vào đề nhé!
Trước kia giá còn phải ngủ dưới lều hay trong lán gỗ, giá còn phải lội bì bõm trong lớp bùn nguyên sơ của thảo nguyên, giá còn phải trùm màn mà đi chơi, giá còn phải vật lộn với ruồi muỗi thì chẳng bao giờ mình có ý kiến bảo Li-đa đến đây công tác cùng với chúng mình. Nhưng bây giờ những cái ấy thành chuyện cổ tích rồi. Hơn một năm nay một thị trấn lộng lẫy đã xây dựng xong trên bờ cái biển tương lai, phố phường đường xá đã rải nhựa, đầm lầy đã tát cạn và như lời anh Fê-đô hóm hỉnh, ruồi muỗi đã thành đồ cổ có thể đem trưng bày ở viện bảo tàng rồi. Trong một căn nhà xinh xắn ấy mình ở một phòng có cả buồng tắm. Chỉ còn cần thêm cái vô tuyến truyền hình là hoàn toàn đầy đủ không kém gì nhà Li-đa ở Mát-scơ-va. Vì thế mình mới cố tình đến làm náo động trái tim “quá lạnh” của Li-đa đó.
Đến công trường với chúng mình nhé Li-đa ơi! Công việc tuy sắp xong nhưng chúng mình đã bước sang giai đoạn thú vị nhất. Với kiến thức của Li-đa với khả năng của Li-đa với trí óc đầy sáng kiến của Li-đa hay nói chung, với tất cả con người Li-đa, Li-đa đến đây sẽ rất có ích. Riêng đối với Li-đa, nếu thực tập ở đây thì tuyệt nhất, không cơ quan nào ở thủ đô có thể sánh được, kể cả công tác ở Viện Hàn lâm khoa học nữa. Mà đối với một kỹ sư hiện đại ai không thèm thuồng được ngó mắt vào nền kỹ thuật của tương lai cộng sản. Li-đa ơi, đến nhé! Li-đa sẽ ở trong cái nhà xinh xắn đáng yêu của mình, chúng ta cùng làm việc, vui thú biết ngần nào. Và mình sẽ hỏi ý kiến rất kín, không thể giãi bày lên mặt giấy vì rất là không tiện.
Thế nào cũng đến Li-đa nhé. Mình nóng lòng chờ Li-đa trả lời, và nhất là chờ Li-đa đến, Li-đa bé bỏng, Li-đa bằng xương bằng thịt của mình.
Trưởng khu, kỹ sư Kô-va-li-ô-va, tức An-na đáng yêu của Li-đa”.
Lá thư gửi đi nhưng không có trả lời.
Công việc bận rộn. Những khó khăn, lo lắng và vui mừng hàng ngày ở công trường đã làm An-na quên hẳn lá thư.
Một hôm đi kiểm tra xa về, chị trở lại nhà, người mệt mỏi. Chị tắm mát rồi khoác áo choàng lên vai, ra ngồi ngoài sân rộng. Mặt trời của thảo nguyên xuống dần sau những mái nhà đá đen.
Trời chiều mát mẻ. Hương những cây thuốc lá trổ hoa thoảng từ trong vườn ra đậm ngát hơn. Từ chiếc máy phóng thanh đặt ở xa, ngoài câu lạc bộ hay bến ô-tô, những tiếng động của một cuộc đấu bóng tròn vang ra rõ rệt một cách lạ thường; nghe thấy rõ giọng cảm động hơi khàn của người phát thanh, tiếng ồn ào náo nhiệt trong khán đài, người trọng tài rúc còi và những tiếng reo hò, hoan hô ầm ĩ.
An-na ngồi nghỉ thoải mái trên bậc gạch. Chuyến kiểm tra đã cho chị thấy rõ tất cả những chiếc tàu xúc đất chị phụ trách vẫn hoạt động đều. Anh công nhân phụ trách điều khiển một chiếc tàu lại vừa có một sáng kiến rất hay, mới mẻ, táo bạo đến nỗi đồng chí kỹ sư phải ngạc nhiên. Nếu tính toán đúng thì khối lượng đất đào lên có thể tăng từ 10 đến 20%. Không còn gì thú vị hơn nữa. Lại đến lúc ngồi chiếc ô-tô du lịch của chị quay trở về nhà, anh kỹ sư Fê-đô phóng mô-tô đuổi theo. Cái anh chàng ngớ ngẩn quên cả hãm xe cho chậm lại, nằn nì mời An-na tối hôm nay thế nào cũng đến câu lạc bộ nghe nói chuyện về những công trình nghiên cứu của nhà vi trùng học Bô-si-ăng. Anh ta tha thiết chèo kéo đến nỗi suýt nữa đưa cả người vào bánh ô-tô. An-na vui thích nghĩ thầm rằng Fê-đô năn nỉ mời như thế, động cơ không phải chỉ là ham mê những phát minh táo bạo về vi trùng học.
Nhưng chị từ chối. Bây giờ thì chị thấy hơi tiếc, ngồi nghe những tiếng vọng của trận đấu bóng tròn ở nơi xa và ngắm nghía những ánh đèn ngoài công trường đang bắt đầu cháy lên, hết chiếc nọ đến chiếc kia, trên không trung tối dần.
Ngoài phố chợt có tiếng chân bước gấp làm chị giật mình. Cổng ngoài rít lên. Một người lạ mặt, đứng tuổi, mặc y phục của Bộ giao thông, bước vào. Ông đưa cho An-na một quyển sổ, một cái bút chì và một bức điện tín. An-na lo lắng xé băng rồi mới ký. Chị đọc trên mảnh giấy xám còn thoảng mùi hồ và mực mới viết:
- Đi với anh em trong Viện đến địa chỉ mới. Thư đến muộn quá. Cám ơn đã nhớ mình. Hiện ngủ dưới lều, nhiều muỗi lắm. Rất nhiều công tác hay. Nối xong Von-ga-Đông đến đây: sông đào lớn Tuyếc-mê-ni. Không thiếu công tác. Mới bắt đầu nhưng vĩ đại hơn nhiều. Nhớ rủ Fê-đô, mang thuốc trừ muỗi. Có nhiều tác dụng. Li-đa”.