← Quay lại trang sách

Năm 2000

Nhớ hồi còn nhỏ, ta hay hát bài này:

Năm hai ngàn năm, tôi còn gì, em còn lại gì

Ta còn gì, anh còn lại gì

Còn chăng đó, là bóng hư không

Còn chăng đó tuổi đã mênh mông

Còn chăng đó tóc xanh phai màu

Qua hết rồi, vạn ngày thật dài

Của chúng ta của những phôi pha.

Lúc đó, năm hai ngàn còn rất xa, mịt mù sương khói trong tâm tưởng. Đọc một tạp chí nổi tiếng thời đó, tạp chí Thời Nay, một dạng Reader Digest đủ thứ chuyện hầm bà lằng Đông Tây mà giới có học ở Sài Gòn hay đọc để giải trí, có một bài tưởng tượng về năm 2000. Bài báo viết, lúc đó, nhiều thành phố trên thế giới sẽ được một khung kính hình vòm trong suốt bảo vệ.

nhiều để cung cấp oxy cho con người bên cạnh hệ thống lọc và cung cấp oxy nhân tạo. Con người sẽ di chuyển trên đường bằng cách đứng vào con đường di động để đến nơi mình muốn. Con đường sẽ có nhiều làn, với nhiều tốc độ khác nhau, người đi phải chuyển làn từ chậm sang nhanh, hay nhanh sang chậm tùy theo muốn đi tiếp hay lên vỉa hè đến nơi mình muốn. Thức ăn sẽ được chế từ dầu hỏa, bỏ trong tuýp để thích thì mút ra ăn đủ chất dinh dưỡng, hoặc chỉ cần uống viên thuốc cũng đủ chất cho cả ngày.

Lúc đó, không có bài viết nào đề cập đến việc nói chuyện điện thoại với người khác từ bất cứ nơi nào, bất cứ khi nào mình muốn (cho dù truyện chưởng Kim Dung đã có chiêu thuật truyền âm nhập mật giúp hai người cách xa nhau có thể đàm đạo). Hoặc cách liên lạc qua Internet, biến xã hội con người thành cái làng toàn cầu, chuyện bên kia quả đất vừa xảy ra bên này đã kịp thấy hình ảnh.

Ôi, những dự báo! Hơn bốn mươi năm sau, quá chục năm sau năm 2000, thức ăn trong tuýp chỉ dành cho phi hành gia trên vũ trụ.

Làn đường tự di chuyển chỉ có ở các sân bay hiện đại. Vòm kính nhân tạo chỉ có một ít ở các nơi trồng trọt trong mùa đông. Giấc mơ con người đã có từ lâu nay tan vỡ cũng nhiều. Từ lúc đó đến nay, chưa xảy ra cuộc chiến thế giới nào nữa nhưng người chết từ chiến tranh khu vực càng nhiều. Những đô thị xanh không cần vòm kính như Singapore không phải không mang hy vọng đến cho loài người, nhưng chưa xuất hiện nhiều lắm. Đó là những gì còn lại của một giấc mơ.

Nhiều khi giấc mơ của ta chỉ là có thể đi bộ một lèo xuyên qua thành phố đang sống lâu nay, vừa đi vừa nghỉ chân cho đến khi tới đích. Điều đó có giản dị không? Có, với nhiều người trên trái đất vì đã có nhiều người đi bộ xuyên qua một đất nước, nhưng ở Sài Gòn này sao khó vậy? Không có vỉa hè thông thoáng ở rất nhiều con đường, không thể băng qua một con đường nếu như đèn đỏ có nghĩa là người lái xe vẫn có thể quẹo phải và tông vào người đang băng qua đường. Không có mấy cây xanh phủ trên đầu khách bộ hành. Không có mấy ghế đá dọc đường để nghỉ chân. Đi bộ bằng đôi chân còn không hữu dụng thì mơ gì đến một làn đường tự di chuyển từ nơi này sang nơi khác?

Hai con trai ta, mười năm nữa chúng có thể đi bộ từ bên này sang bên kia thành phố được không? Ta vẫn tin là không? Nếu chúng muốn vậy, xin hãy cầu nguyện cho chúng vì có khác nào chúng sắp đi vào rừng Amazon.

Gác xép

Nhớ hồi còn nhỏ, ta sống trong căn nhà có một cái gác xép nhỏ xíu. Gác chỉ đủ để trải ba cái chiếu. Cuối căn gác là góc kho chứa đồ. Đường lên gác là cái cầu thang dốc đứng dẫn đến cái lỗ để leo lên sàn.

Tuổi thơ ta nếu mong có chốn riêng tư để chìm đắm trong những trang sách chính là căn gác nhỏ này. Gác có cửa sổ ngó ra cái hẻm nhỏ nên ánh sáng không bao giờ thiếu. Trừ buổi trưa căn gác bị nắng nung hầm hập, buổi sáng hay chiều tối ở đó luôn mát mẻ. Trên đó có cái rương cũ của ông anh đi dạy học xa mà ta tha hồ lục lọi. Có những cái thùng cũ đựng đồ linh tinh của người cha nghiêm khắc của ta, nên càng thúc đẩy tìm hiểu ông qua sách và giấy tờ trong đó. Căn gác mà ta có thể tìm hiểu về thế giới người lớn một cách âm thầm.

Ta luôn nhớ căn gác này, nhớ những năm tháng tuổi thơ cùng anh chị leo rầm rập lên gác chơi bắn bì giấy xuống cái hẻm phía dưới, với một lũ con nít mai phục phía dưới bắn lên. Nhớ nhịp tim thình thịch trong ngực khi trốn ba với cây roi đang hờm sẵn. Trên bức tường, ông anh thứ năm vẽ đầy những bức tranh Xì trum và Mickey, neo giữ những hồn nhiên trong ta. Năm ta hơn ba mươi tuổi, trước khi cho đập toàn bộ căn nhà để xây lại, ta leo lên gác lần chót và nhìn lại những bức tranh tường yêu dấu đó, nhìn lại Tí cô nương và bó hoa giấu sau lưng một anh chàng xì trum màu xanh. Tuổi thơ lại được giã từ lần nữa.

Những năm khốn khó sau 1975, gia đình ta dẫu quanh năm tiết chế chi tiêu, vẫn luôn ăn một cái Tết huy hoàng. Có lẽ vậy, không có cái Tết nào mà không có dưới trăm khách đến chơi trong ba ngày Tết.

Có một ngày mùng ba Tết, khách viếng thăm đến bảy nhóm, ngồi la liệt từ ngoài sân, phòng khách, buồng ngủ, bếp. Bạn gái trong lớp cũ đến chơi và má đẩy lên gác ngồi với ly nước và hộp mứt. Ta ngượng nghịu run rẩy trước mặt cô bạn xinh xắn, giữa căn gác mát mẻ trong gió mùa xuân lùa vào từ cửa sổ, vẫn còn phảng phất hương thơm pháo sáng hôm đó.

Logic của cuộc sống là sẽ mất dần những thứ mà ta yêu quý. Trước tiên là mất cái tã lót, mất cái bàn học sinh, và mất mối tình đầu. Ta nhớ câu này hình như trong cuốn sách có tênKhông chốn nương thân ta từng đọc trên căn gác này. Bàn học trò lem vết mực và mối tình đầu mất từ lâu rồi, cũng như căn gác ngày xưa. Nhưng đúng là càng mất lại càng nhớ vì nó in sâu trong tâm khảm, những thứ như vậy.