← Quay lại trang sách

ĐOẠN KẾT

GIA đình Ban Phánh rời khỏi làng Bình Hòa Phước được hơn hai tháng thì có tin đưa về làng khiến Dung và Thọ đều bàng hoàng ngơ ngẩn: Hà Anh tự tử chết! Tin đó do Năm Súng đi đò lên Vĩnh Long trở về cho biết và ai ai cũng đều bán tín bán nghi. Dung quá xúc động nên hỏi Năm Súng dồn dập:

— Sao chú Năm? Ai nói cho chú biết? Gia đình Ban Phánh hiện giờ ở đâu?

Năm Súng nhìn Thọ rồi trả lời Dung:

— Ở cầu Thiền Đức chớ đâu cô.

Thọ hỏi nhanh:

— Tại sao Hà Anh tự tử?

Năm Súng kể lể:

— Tôi không rõ rồi cậu. Hồi sáng nầy lên chợ gặp thím Sương, thím cho tôi hay tin đó.

Dung hỏi:

— Chú có qua thăm không?

— Dạ không! Tôi còn phải chèo đò về, đâu bỏ hành khách được...

Dung đứng lên bảo anh:

— Anh Ba! Em đi Vĩnh Long liền bây giờ mới được. Có lẽ nào chị Hà Anh lại tự tử?

Thọ cũng nói:

— Anh đi với em...

Dung nghĩ tới Mai. Còn đúng một tuần nữa là đám cưới của anh nàng. Để Thọ đi như thế cũng chẳng ích lợi gì mà nhiều khi còn làm cho sứt mẻ tình cảm giữa vợ chồng về sau.

Dung bảo anh:

— Thôi để em đi một mình!

— Tại sao vậy? Anh đi với em không được ư?

Dung không muốn nói rõ ý mình trước mặt Năm Súng nên bảo anh:

— Chiều nay, chị Mai qua đây để bàn tính chuyện gì đó, anh nên ở nhà gặp chị, chớ hai anh em mình đi hết rồi làm sao?

Thọ nghe Dung nói, đã hiểu rõ ý em! Chàng thở dài nhè nhẹ. Bây giờ, dù muốn dù không chàng cũng phải có trách nhiệm với cuộc đời của Mai. Chàng không thể tự mình làm điều gì gây nên sự đau khổ cho nàng. Tuy nhiên, đối với Hà Anh, lúc nào chàng cũng giữ tấm lòng quí mến như thuở ban đầu. Sự tế nhị trong cách đối xử của nàng càng khiến Thọ không quên được! Khi Hà Anh sắp rời bỏ làng nầy, có gởi tặng chàng con bướm vàng nhận kim cương, vật lưu niệm của mẹ nàng. Việc đó đủ chứng tỏ tình yêu của nàng đối với mình vẫn trọn vẹn! Thọ đoán lờ mờ như thế thôi, chớ chàng không dám tìm hiểu tại sao Hà Anh đã yêu mình mà lại lấy Năm Quýnh? Vả lại chàng đã bị ràng buộc với Mai vì ơn nghĩa. Dung cũng đã nói: ‘‘ Anh biết rõ thêm chỉ khổ lòng thôi! Nhiều khi lại gây khổ cho chị Mai!’’ Do đó mà chàng đành làm ra kẻ vô tình.

Ngày gia đình Hà Anh dọn xuống đò lên tỉnh, chàng đứng trước sân nhà nhìn đám em của Hà Anh tíu tít cười đùa khi khuân vác đồ đạc. Chàng cố ý muốn gặp Hà Anh lần cuối cùng nhưng không thấy nàng đâu cả. Đến khi đò tách bến, Dung mới bảo chàng:

— ‘‘Chị Hà Anh đã đi chuyến đò hồi khuya, lên trên dọn nhà trước...’’

Chàng những tưởng Hà Anh đi xa rồi là chôn giấu được dĩ vãng buồn thảm của mình, nào ngờ...

Thọ vụt bảo em:

— Hà Anh là bạn của mình. Nghe tin nàng mất, anh không thể ở nhà được đâu Dung. Cái chết của nàng đột ngột quá.

Dung vẫn cương quyết:

— Tin chú Năm về cho mình hay chắc đã trễ mấy hôm. Nếu chị Hà Anh có chết thì cũng đã chôn cất rồi. Anh lên đó chẳng ích gì?

Thọ nghẹn ngào nói:

— Hà Anh xử với anh tốt quá! Chẳng lẽ anh không đến viếng mộ nàng sao? Dù gì anh cũng không thể làm ra kẻ vô tình mãi được.

Dung biết mình khó thể ngăn anh nên lặng thinh. Năm Súng chợt nói:

— Hồi sáng tôi có gặp Năm Quýnh ở trên chợ nữa. Coi bộ khổ lắm. Thằng Thình nói mấy lúc sau nầy Năm Quýnh uống rượu dữ lắm, say li bì tối ngày. Mấy lần xếp bót tức giận la hét om sòm.

Thọ nhớ tới Thình, người bạn thời tuổi nhỏ của mình, đã vì mình mà bị giam giữ mấy hôm. Từ ngày thoát nạn tới giờ, chàng không được gặp mặt Thình. Hôm đám hỏi của chàng và Mai, Thọ có nhờ Năm Súng mời Thình, nhưng gặp lúc Xếp bót không cho lính ra ngoài, Thình không tới được!

Dung bảo Năm Súng:

— Bây giờ chú Năm đi với anh em cháu nghen...

Năm Súng ngó ra ngoài trời rồi bảo Dung:

— Xế bóng rồi cô! Đi lên chợ sợ về không kịp tối. Hay là để sáng mai mình đi, đã tiện cho tôi mà cô khỏi phải ở chợ đêm nay...

Thọ ngó em như dò ý. Dung rất nóng lòng muốn biết rõ tin Hà Anh nên bảo Năm Súng:

— Thôi được chú Năm, không sao đâu? Tụi cháu lên chợ thiếu gì nhà quen. Nếu không có gì thì trưa mai về đò của chú.

Năm Súng ngơ ngác:

— Cô định đi bây giờ sao? Đi bằng gì?

Dung đáp:

— Tụi cháu ra cầu Bắc, mướn xuồng qua sông! Ở bển có xe lôi lên xuống cầu Thiền Đức mà.

Năm Súng gật đầu:

— Cô tính đi vậy cũng được! Thôi nên đi liền, chớ để tối. Tại sáng sớm phải chở hàng cho người ta không thể hẹn lần lữa được, chớ không thì tôi đi với cô và cậu Thọ. Tội nghiệp con nhỏ, chết yểu quá...

Rồi không chào ai ông bước thẳng ra đường cái, chân đi xiêu vẹo, có lẽ ngồi lâu bị vọp bẻ. Dung vào phòng riêng thay áo rồi nói vọng ra:

— Anh thay đồ đi chớ!

Thọ hỏi:

— Không xin phép má hả Dung?

Dung trở ra lắc đầu:

— Má đi ngoài vàm chưa về. Đợi má để tối à? Nói với chị Năm nhờ thưa lại cũng được. Cùng quá là bả chửi một trận.

Thấy Thọ có vẻ lưỡng lự, Dung cầm nón lá lên bảo anh:

— Vậy thì anh ở nhà, em đi một mình!

Thọ kêu lên:

— Dung... Sao không chờ anh? Cô nầy thiệt...

Thọ thay đồ trở ra thì Dung nói:

— Tự dưng em cảm thấy anh em mình có trách nhiệm trong cái chết của Hà Anh. Nếu em cố cầm chị ấy ở lại Binh Hòa Phước nầy, chắc không bao giờ chị ấy tự tử.

Thọ đi luôn ra sân rồi hỏi:

— Sao em dám chắc như thế?

Dung ngó qua bên kia đường. Ngôi nhà của Hà Anh vẫn còn đó, nhưng đã đổi chủ. Người ta ngăn ra làm ba căn mỗi căn một chủ. Họ mở tiệm hớt tóc, tiệm may và chỗ bán nước đá.

Người mua lại ngôi nhà đó vẫn tiếp tục nghề bán nước đá mà Hà Anh đã làm suốt mấy năm, lấy lời để nuôi em... Nhưng xem chừng họ không có khách! Thọ thấy em lặng thinh liền hỏi tiếp:

— Dung! Sao em dám chắc, nếu còn ở làng mình, Hà Anh không tự tử?

Dung không nhìn anh mà đáp:

— Vì ở đây Hà Anh có bạn! Có nghĩ suy gì chị ấy cũng nói cho em biết.

Thọ không chắc được điều đó, nhưng không cãi với em. Chàng lẳng lặng ra sau hè gọi chị Năm ở gần:

— Chị Năm ơi!

Thiếu phụ nách con chạy sang hơ hãi:

— Gì vậy cậu? Bộ cô cậu đi đâu đó hả?

— Tôi với Dung đi Vĩnh Long, sáng mới về. Lát nữa chị nói giùm với má tôi...

— Đi đâu vậy? Bộ có chuyện gì hả?

Dung không muốn chị ta hỏi lôi thôi nên nói:

— Ờ! Tụi tui đi đám ma một người bạn. Nói với má tôi giùm nghen chị Năm.

Dung bước ra khỏi cổng rào, Thọ theo sau. Hai anh em đi trở qua Cầu Mương để thẳng lộ ra bến Bắc, chẳng ai nói với ai một lời nào nữa. Dung đi trước, Thọ theo sau, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng tư.

Ánh nắng xuyên qua kẽ lá lung linh trải trên mặt đường như những hạt kim cương lóng lánh. Bầy sáo sành đậu ở cành cây trước mặt vọt bay cao, một con chìa vôi đang hót gió, nghe cô độc lẻ loi. Tự nhiên Thọ cảm thấy chán nản vô cùng. Mới hồi sáng, đọc thư anh, chàng hay tin mấy người bạn của mình đã dự trong đám táng Trần văn Ơn đều bị bắt. Những bạn đó có lẽ đang bị tra tấn như chàng đã bị Năm Quýnh hành hạ đêm nào? Họ đau đớn về thể xác, nhưng tinh thần được thoải mái vì dù sao cũng nói lên được tiếng nói bất khuất của học sinh trước sự đàn áp của thực dân.

Họ hãnh diện đã làm tròn trách nhiệm chớ không như chàng cũng bị khảo tra đánh đập, nhưng vì một lý do không mấy tốt đẹp!

Thọ thở dài buồn bã.

Ban Phánh thấy Thọ và Dung bước vào nhà thì đứng thẳng dậy, hai tay run run chỉ bàn thờ của Hà Anh khói hương bay nghi ngút. Đám em của Hà Anh, từ nhà sau cũng chạy ra, nắm tay nhau đứng ngó hai người khách quen thuộc.

Dung đến bên Ban Phánh ngập ngừng hỏi:

— Thưa bác... Sao mà chị ra đến nỗi?

Ban Phánh không nói tiếng Việt được nhiều và cũng không chắc đã thấu hết câu hỏi của Dung, nhưng đoán chừng là khách đề cập đến cái chết của con gái mình. Ông ràn rụa nước mắt nói:

— Chết! Nó chết rồi...

Rồi ông khóc ào lên như một đứa trẻ. Đám em của Hà Anh cũng khóc theo. Thọ không nói một lời bước đến bên bàn thờ đốt mấy nén hương. Trong tấm ảnh lưu lại, Hà Anh vẫn giữ nụ cười hồn nhiên như tự thuở nào! Dung biết mình không thể hỏi Ban Phánh được gì hơn, nên quay sang đứa em lớn nhứt của Hà Anh. Nó bậm trợn và gan lì nhứt bọn. Nàng thấy nó không khóc, đôi mắt cứ lườm lườm nhìn cha nó.

Dung ngồi sát xuống bên nó hỏi:

— A Xây... Chị hai làm sao vậy?

A Xây ngó nàng đáp gọn:

— Uống thuốc ngủ!

— Tại sao?

A Xây quay mặt đi vào buồng trong, như có ý bảo nàng theo mình. Dung liếc nhìn anh thấy Thọ đang đứng tưởng niệm người khuất mặt trước bàn thờ thì lẳng lặng theo sau A Xây. Mấy đứa em của nó cũng theo vào. A Xây quay lại nói với chúng một hơi dài, tự nhiên đám trẻ tản mát hết. Dung biết là A Xây muốn nói với mình chuyện gì đó, nên đến sát bên nó chờ đợi. Cậu bé ngồi xuống bộ ván ngựa, nói như người lớn:

— Trước khi chết, chị ấy khóc nhiều lắm! Chị dặn em coi chừng mấy đứa nó...

Dung hỏi nhanh:

— Vậy là em biết Hà Anh sắp tự tử?

A Xây lắc đầu:

— Không biết đâu! Chị ấy bảo là đi làm ăn xa. Ai dè lại đi chết?

A Xây nghẹn ngào ngó xuống. Dung hỏi:

— Em biết tại sao Hà Anh tự tử không?

A Xây ngó vào đôi mắt của Dung nói:

— Chị ấy chửa hoang với thằng Năm Quýnh.

— Sao em biết?

— Nó tới đây khóc chị ấy rồi nói với em như thế. Nó đưa tiền chôn cất chị Hai.

Dung cũng ngầm đoán ra điều đó, nhưng không muốn nó là sự thật. Nàng vẫn mong mỏi Hà Anh chết vì một lý do nào khác thôi!

A Xây nói tiếp:

— Bỏ làng Bình Hòa Phước, chị ấy muốn về đây để lánh mọi người, nhưng không hiểu sao, rồi chị ấy cũng vẫn buồn?

Dung hỏi nhỏ:

— Chôn chị ấy ở đâu?

— Bên kia nghĩa địa! Chị có qua đó không? Em dẫn đi...

Dung gật đầu:

— Đi chớ... Chị muốn hỏi em điều nầy: Hà Anh có nhắc đến chị không?

A Xây gật đầu:

— Nhắc thường lắm! Chị ấy bảo trên đời nầy, chỉ có mình chị là thương chị ấy thôi...

Dung xúc động bồi hồi trước những lời chân thành của người khuất mặt. Một lúc nàng hỏi A Xây:

— Chị Hai mất rồi... Ở nhà làm sao sống?

A Xây đáp:

— Ba vừa bán đất. Chắc ăn được ít lâu. Còn sau nầy, chẳng biết làm sao nữa...

Rồi nó hạ thấp giọng nói:

— Ba hút trở lại rồi. Bàn đèn để trong buồng. Ba nói chị Hà Anh chết ba buồn lắm. Phải cho ba hút, không thì ba cũng chết theo chị ấy!

Dung thở dài nghĩ đến tương lai đen tối của đám em Hà Anh mà phát rùn mình. Hà Anh còn tất cả năm đứa em trai. Đứa nhỏ hết chỉ mới có sáu tuổi. Ban Phánh ôm lấy bàn đèn rồi thì cuộc đời của chúng sẽ đi lần đến chỗ đau thương...

Nàng hỏi A Xây:

— Em có tính cách gì nuôi các em không?

A Xây gật đầu:

— Có chớ... Em đi làm ‘‘phổ ky’’ lấy tiền cho tụi nó ăn bánh.

Dung lắc đầu:

— Em đừng tính vậy không nên. Em còn đi học mà...

— Chị chết rồi tiền đâu mà học. Ba biểu tháng tới ở nhà luôn.

Dung lắc đầu nói:

— Bây giờ em còn nhỏ quá đâu có thể nuôi các em được. Phải ráng học để sau nầy có vốn văn hóa, làm những nghề khá hơn mới có tiền.

A Xây đáp:

— Chị Hà Anh cũng thường bảo em như thế, nhưng mà lấy tiền đâu đi học hả chị?

Dung ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

— Để chị liệu cho em!

Có tiếng Thọ gọi bên ngoài, Dung ngưng ngang câu chuyện, toan bước trở ra. A Xây vụt nắm lấy tay nàng:

— Khoan chị.

Dung quay lại trong lúc A Xây leo lên bộ ván, mở chiếc rương, lục soạn đồ đạc. Một lúc nó cầm một phong thư dán kín đưa cho Dung:

— Trước khi chết chị Hai có nhờ em giữ bức thư nầy đưa lại cho anh gì đó? À... Anh Thọ.

Dung ngơ ngác cầm lấy phong thư. A Xây tiếp:

— Chị ấy nói quan trọng lắm. Chị bảo em chỉ có quyền đưa cho hai người thôi; không đưa anh Thọ được thì đưa cho chị.

Dung gật gật đầu, rồi cầm phong thư trở ra nhà ngoài.

Thọ đang đứng đợi, thấy em trở ra liền hỏi:

— Em không thắp nhang trên bàn Hà Anh à? Có biết rõ vì sao nàng tự tử chưa?

Hà Anh gật đầu rồi đến bên bàn, thắp ba nén hương, lâm râm khấn nguyện. Nàng muốn bạn hiểu thấu lòng thành của mình khi tới đây.

Xong xuôi, Dung mới bảo Thọ:

— Chúng mình đi qua viếng mộ Hà Anh nghen.

Thọ gật đầu, đôi mắt chăm chú nhìn vào tay em. Dung trao cho anh phong thư rồi nói:

— Của Hà Anh để lại đó.

Thọ run tay cầm lấy di vật của người đã khuất.

Dung đến bên Ban Phánh từ giã:

— Thưa bác... cháu về...

Ban Phánh chấp tay xá lại nàng, ngập ngừng một vài tiếng Việt:

— Không dám, không dám. Cám ơn cô!

Thọ vẫn nắm chặt bức thư của Hà Anh trong tay, cúi đầu chào Ban Phánh. Tự nhiên, chàng nhớ lại hình ảnh của ông ta, đêm nào ngồi khảy đàn ở trước sân nhà, lúc chàng từ Sài gòn mới trở về. Bóng tối mờ mờ, con đường đất khô trắng chạy dài qua xóm chợ tiêu điều. Các hàng quán hé cửa bán vớt vát trong buổi hoàng hôn, tranh tối tranh sáng. Tiếng đàn đãn của Ban Phánh càng gây thêm nỗi quạnh hiu của bến chợ thời binh biến. Không đầy một năm mà bao nhiêu chuyện dồn dập xảy ra... Hà Anh đã đi vào thiên cổ một cách vội vàng và gần như vô nghĩa lý. Tại sao nàng lại chết? Dung chưa nói rõ ràng, nhưng cũng như lúc ở nhà hai anh em đã dự đoán về cái chết của Hà Anh: Nàng không muốn sống với cái hoang thai của kẻ tàn bạo... A Xây đội nón lên, nói với Ban Phánh một tràng tiếng Tàu mà Dung độ chừng nó cho biết sẽ đưa hai anh em nàng sang viếng mộ Hà Anh.

Ban Phánh không nhìn nó mà chỉ gật đầu. A Xây ra cửa, Thọ và Dung theo sau. Cả ba mướn một chiếc xe lôi đi đến nghĩa trang. Thọ lên xe ngồi yên bất động, bàn tay vẫn nắm chặt bức thư. Chàng cũng muốn biết Hà Anh viết cho mình những gì, nhưng rồi lại không muốn xem nữa? Đọc làm chi những lời chua xót của nàng. Dù gì đi nữa, Hà Anh cũng đã chết thật rồi! Có yêu nàng, có thương tiếc nàng cũng không thể vượt qua bức ‘‘vạn lý thành, tự ngàn xưa chia hai cõi tử sinh’’!

Dung thấy anh vẫn ngồi yên trên xe không động đậy mà cũng không nói một lời thì khẽ gọi:

— Anh Ba...

Thọ ngước lên nhìn em:

— Gì Dung?

Dung nắm tay anh, ngập ngừng:

— Sao anh không đọc thư chị ấy?

Thọ đưa bức thư cho em rồi cất tiếng:

— Đọc làm gì?

— Sao vậy?

— Hà Anh đã chết rồi!

Mấy tiếng đó cũng đủ làm cho Dung hiểu rõ tâm trạng của anh. Bây giờ, anh em nàng có hối tiếc gì cũng vô ích thôi vì Hà Anh đã về với lòng đất. Bao nỗi đắng cay tủi nhục của nàng cũng đã xóa bỏ từ khi hơi thở ngừng lại ở buồng hơi. Nàng chết đi là dứt khoát tất cả. Tuy nhiên, Dung cũng mở lấy phong thư. Xe lôi chạy đều đều trên lộ đá, gió lất phất thổi vào mặt nàng làm mái tóc tung bay. Dung chăm chú nhìn vào bức thư cố gắng đọc từng hàng chữ một. Nước mắt rưng rưng tự lúc nào làm tan nhòe đi những nét chữ. Thọ im lặng ngó em không động đậy. A Xây ngồi bên cạnh chàng, nhìn hai bên đường, vẻ mặt lạnh lùng buồn thảm.

Dung khẽ bảo ảnh:

— Anh nên đọc bức thư nầy!

Thọ thở ra:

— Phải chăng là những lời vĩnh biệt của Hà Anh?

Dung xếp thư lại bỏ vào bao rồi dúi vào tay anh:

— Những lời chân thành của một người đã hết dạ yêu anh! Yêu cho đến lúc chết …

Xe lôi đã vào cửa nghĩa trang rồi ngừng lại. A Xây nhảy xuống đất đứng chờ. Thọ nhét bức thư vào túi quần thẫn thờ xuống xe. Chưa bao giờ chàng thấy buồn nản hơn. Cuộc sống trở nên vô vị quá chừng. Hình ảnh của Mai cũng xa vắng nốt. Thọ chợt thấy rõ hơn bao giờ hết: Mình chưa hề yêu Mai! Chàng chỉ mến nàng: mến sự trẻ trung và gần gũi, mến hình ảnh của tuổi thơ, của những khung trời dĩ vãng, trong đó có mình và có Mai. Nhưng chàng không yêu Mai! Tại sao, chàng cũng không hiểu nữa? Có lẽ tại vì chàng đã nhìn thấy đôi mắt của Hà Anh e ấp nhìn mình qua khung cửa sổ sơn màu xanh tối, trong một buổi sáng nào đó sau cơn mưa. Đôi mắt đã khiến chàng không thể nào quên được Hà Anh, dù nàng đã thất thân với Năm Quýnh và ngay bây giờ đang nằm sâu dưới lòng đất!

Đến trước mộ Hà Anh, Thọ ngồi thụp xuống, nhìn đống đất vừa mới đắp, hơi nhang như còn luyến lưu hoa cỏ...

Dung cũng ngồi xuống bên anh. Nàng hối tiếc đã không mua nhang và giấy vàng bạc tới đây để đốt cho bạn. Thọ không nói một lời vì đối với chàng chuyện đó càng thêm vô nghĩa. Chàng đến đây với Hà Anh là đủ lắm rồi. Bên kia đời có lẽ nàng cũng đã vừa lòng. A Xây lẩn quẩn bên mộ của Hà Anh lấy đất lấp kín những lỗ thủng mà mấy người cuốc đất đắp mộ đã không chú ý. Thọ biết nó yêu thương chị nhiều lắm! Tự nhiên, chàng thấy mình có bổn phận với những đứa em khờ dại của Hà Anh.

Chàng ngó Dung rồi nói:

— Chắc anh không thể bỏ rơi gia đình Hà Anh.

Dung ngơ ngác:

— Nghĩa là thể nào?

Thọ ngó về phía A Xây hình dung, đến những cậu học sinh Trung Hoa mặc đồng phục, thường qua lại trên các vỉa hè Chợ Lớn. Chàng nói:

— Anh muốn giúp A Xây đi học.

Dung ngó về phía thằng bé, gật đầu:

— Em cũng thoáng có ý nghĩ đó, nhưng còn ngại một điều...

Thọ cau mày hỏi:

— Điều gì hả em?

Dung lặng thinh một lúc mới đáp:

— Chị Mai...

Mặt trời đã xuống thấp, những hàng cây trong nghĩa trang ngã bóng dài lên đám mộ. Gió chiều thổi đìu hiu. Thọ nằm xuống bãi cỏ...

Dung quay lại nhìn anh. Thọ nhắm nghiền đôi mắt, gương mặt hằn lên nét khổ đau. Nàng nghĩ tới cuộc hôn nhơn giữa anh và Mai. Có thể vì cái chết đau đớn của Hà Anh mà chậm trễ đi chăng?

Thọ vụt mở mắt ra hỏi:

— Em sợ Mai sẽ không bằng lòng cho anh nuôi A Xây ăn học ư?

Dung lắc đầu nói:

— Bình thường người con gái vẫn hay ích kỷ trên phương diện đó! Riêng chị Mai không biết sao?

Thọ lặng thinh thở dài. Một lúc, chàng mới nói:

— Tại sao anh nhận lời cưới Mai dễ dàng quá? Anh biết Hà Anh yêu mình cũng như mình rất mến Hà Anh, nhưng không hiểu sao chẳng thốt được nên lời?

Dung trố mắt nhìn anh nói:

— Trong bức thư kia, Hà Anh cũng có viết một đoạn tương tợ như thế!

Thọ ngồi lên, ngó ngôi mộ của Hà Anh, đau lòng quá! Bây giờ nằm dưới đó, còn biết gì là buồn giận, yêu thương. Liệu chàng đang ngồi đây, Hà Anh có cảm thông được nỗi lòng chăng? Thọ nghĩ đến bức thư của nàng, thò tay vào túi cầm lên. Lần nầy là lần thứ hai, Hà Anh viết thư cho chàng mà cũng là lần cuối cùng. Lần trước, lúc chàng vừa bị bắt thả ra, chính A Xây kia đã mang thơ tới. Hà Anh vui mừng vì chàng trở về bình yên và chúc chàng mau bình phục. Còn lần nầy... Những ý nghĩ của nàng đang hiện lên trong đầu Thọ mà nàng đã trở thành người thiên cổ:

Vĩnh Long, ngày.... tháng.... năm....

Anh Thọ,

Ngồi một mình trong đêm khuya, trước bàn viết, chẳng còn sợ bất cứ một sự ràng buộc, một thứ dư luận nào, tôi mới có đủ can đảm viết cho anh mấy chữ này: Tôi yêu anh!

Tôi không còn biết sợ ai cười chê tôi hết, kể cả anh nữa vì mai kia tôi còn đâu nữa để anh cười,

Tôi không phải là đứa con gái ủy mị anh Thọ à, nhưng sao đêm nay tôi lại muốn khóc quá? Ừ, mà tôi khóc đây! Nước mắt thường vẫn làm cho người ta nhẹ bớt đau khổ! Người Tàu cũng hay nói thế... Nhưng, đối với tôi thật chẳng ăn thua gì? Có lẽ tại cái chuyện buồn của mình nó lớn quá chăng ? Mà thôi. Không cần thiết phải nhắc lại làm gì phải không anh vì tôi có linh cảm từ lúc mới gặp nhau lần đâu, anh cũng đã yêu tôi. Thế tại làm sao mình không nói với nhau được hả anh? Tại hoàn cảnh chăng? Tôi nghĩ có thể như thế. Trước ngày anh bị bắt, tôi tin tưởng thế nào hai đứa cũng nói chuyện tình yêu với nhau, nhưng không hiểu sao cứ lần lữa mãi...

Anh còn nhớ không? Buổi chiều tà trên bến sông, tôi ngồi câu cá rồi anh đến hỏi chuyện tôi. Có cả thằng cha gì nữa gọi tôi là ‘‘ con xẩm nầy’’ ‘‘ con xẩm nọ”. Thấy anh tức giận trước lời nói đó, tôi càng yêu thương kính trọng anh hơn. Thế rồi anh bị bắt và được thả ra! Tôi mừng nhưng tôi buồn hết sức vì anh ơi, tôi biết mình đã ra khỏi tầm mắt của anh rồi...

Tại sao anh đồng ý cưới chị Mai quá vội vàng? Tại sao anh không còn nhìn tôi với đôi mắt yêu thương buổi trước?

Từ chỗ buồn lòng, tội đi đến chỗ vụng dại... Rồi... rồi...

Thôi không nhắc nữa. Có lẽ tại mình không có số yêu nhau! Bây giờ thì thật hết. Mai kia, tôi sẽ yên nghĩ dưới nấm mồ lạnh lẽo. Tôi bỏ tất cả lại trên đời và không tròn trách nhiệm bất cứ với ai. Nhứt là các em tôi. Tụi nó còn nhỏ dại nào đã hiểu biết gì ? Tôi đã cố chịu đựng để mà nuôi dưỡng chúng nên người- Tôi rời bỏ làng Bình Hòa Phước cũng vì lý do đó!

Tưởng về đây, tôi sẽ yên thân được, nhưng mà oan gia cứ đeo đẳng mãi. Rồi thì chắc chắn là tôi không thể sống được! Thôi thà chết đi bây giờ có lẽ yên hơn... Việc đó, không đáng cho anh phải nghe tới vì nó chỉ làm đen tối sự trong sạch trong tâm hồn chúng ta. Tôi yêu anh tôi biết và anh yêu tôi, tôi cũng biết nữa. Tôi không muốn chết đi mà chẳng thốt ra được lời nói đó, mới có bức thư nầy!

Và anh nên biết đến bây giờ tôi vẫn một lòng yêu anh. Tôi hãnh diện mà thốt ra những lời đó.

Vĩnh biệt anh

HÀ ANH

Thọ gục xuống, nỗi đau thương đè nặng trong tâm hồn. Dung đọc thoáng qua bức thư của Hà Anh nên không thấu hiểu lý do nàng phải rời bỏ cõi đời. Nàng đã viết: ‘‘ oan gia cứ đeo đẳng mãi’‘. Thọ biết ngay là Năm Quýnh đã không chịu buông tha cho nàng! Và Hà Anh chết đi chỉ vì nguyên do đó. Dung đã rời khỏi chỗ anh ngồi từ nãy giờ. Nàng đi lần về phía A Xây. Nó ngồi bó gối trên thảm cỏ, nhìn khói nhang từ một ngôi mộ kế cận, bay tỏa lên không!

Dung ngồi xuống bên đứa bé. Nàng hỏi nhỏ:

— A Xây có thích đi học nữa không?

Thằng bé ngước nhìn nàng với nỗi buồn sầu thảm. Nó hỏi lại nàng:

— Làm sao đi học được hả chị? Đâu có tiền?

— Nếu có, em có bằng lòng học không?

A Xây ngẫm nghĩ rồi lắc đầu:

— Không!

Dung hoang mang hỏi:

— Sao vậy?

A Xây bức cọng cỏ trước mặt mình, đưa lên môi, khẽ đáp:

— Đi học mà tụi nó ở nhà đói, làm sao học được? Em thương tụi nó...

Dung rưng rưng nước mắt khóc! Tình thương của thằng bé đối với các em khiến nàng thêm mủi lòng. Tự nhiên, nàng thấy Hà Anh chết vô lý quá! Dù khổ nhục thế mấy cũng không nên bỏ đám em côi cút bơ vơ... Rồi Dung lại thở dài... Trong phút giây, nàng phê phán bạn một cách khắt khe chớ nàng cũng hiểu Hà Anh đã phải khổ tâm nhiều lắm, trước khi chọn lấy cái chết.

A Xây bỗng hỏi:

— Chị à l Tại sao chị hỏi em điều đó?

Dung nói nhanh:

— Vì chị và anh Thọ muốn em đi học nữa... Phải học nhiều nhiều mới có thể làm ra tiền chớ. Chừng đó em đâu còn lo các em phải đói nữa!

A Xây đáp:

— Em cũng biết vậy. Nhưng bây giờ lấy gì cho tụi nó ăn? Ba thì hút tối ngày...

Dung lại hỏi nó:

— Lúc nãy em nói bác bán đất. Với tiền đó, bác không định làm ăn gì sao?

A Xây lắc đầu:

— Không thấy nói gi hết! Mà em cũng ít nói chuyện với ba...

Dung càng thấy tương lai của các em Hà Anh thật là mù mịt.

Thọ đã đứng lên, đến bên Dung cất tiếng:

— Mình về đi em! Tối rồi...

Dung có cảm giác như anh mình vừa mới khóc. Nàng ngước nhìn lên, hoàng hôn đã phủ trùm cảnh vật, nghĩa trang thật đìu hiu. Những chấm nhang cháy đỏ, le lói xa xa, sắp rọi tàn trong bóng tối. Dung nắm tay A Xây đứng dậy. Cậu bé vẫn để yên bàn tay trong tay nàng, nhưng đôi mắt hướng về phía Thọ. Tuy còn trẻ dại, nhưng A Xây cũng hiểu được mối tình vô vọng giữa chị mình và chàng thanh niên kia. Thái độ của Thọ và Dung trước mộ phần của Hà Anh đủ làm cho cậu bé mến thương hai người nhiều hơn.

Thọ khẽ hỏi Dung:

— Em có nói chuyện với A Xây chưa?

Dung gật đầu ngó cậu bé:

— Dạ... có nói rồi, nhưng...

— Sao hả em?

Rồi Thọ hỏi thẳng A Xây:

— Em... có muốn đi học nữa không? Tiền bạc không phải lo, anh sẽ chu toàn hết cho em!

A Xây cúi mặt nhìn xuống không đáp. Có gì như chận ngang cổ họng cậu bé! Dung bóp nhẹ bàn tay của nó, đáp thay lời:

— A Xây sợ mấy em ở nhà phải đói.

Thọ ngồi xuống nắm lấy hai vai cậu bé, nhìn thẳng vào mặt nó:

— Xây à... Anh hiểu những điều lo nghĩ của em, nhưng trong hoàn cảnh nầy em không nên chọn con đường nào khác. Tương lai còn dài. Em không đi học từ bây giờ thì mai sau có muốn nuôi em cho no ấm cũng không nuôi nổi.

A Xây nghẹn ngào nói:

— Nhưng... tụi nó sẽ không có cơm ăn.

Thọ thở dài nói:

— Em ở nhà cũng không giải quyết được gì? Anh sẽ trông chừng tụi nó thay em được không?

A Xây ngó Thọ mà Dung cũng sửng sốt nhìn chàng. Cuộc hôn nhơn giữa Thọ và Mai sắp thành tựu, bao nhiêu là khó khăn sẽ ngăn chận ý định của anh nàng. Thọ cũng hiểu là em chàng đang lo ngại về những chuyện đó, nhưng vẫn bình tĩnh bảo A Xây:

— Em đừng cãi lời anh! Bổn phận của em về sau nầy, sẽ nặng nề nhiều lắm. Em phải chuẩn bị từ bây giờ mới đủ sức bảo bọc cho các em mai sau. Anh hứa là sẽ tận lực giúp đỡ em trong mọi vấn đề...

A Xây thấu hiểu tấm lòng chân thành của Thọ, nên lặng lẽ gật đầu. Ba người lần bước ra cửa nghĩa trang.

A Xây chợt hỏi Thọ:

— Em tính cho tụi nó theo dì em bớt vài đứa, anh nghĩ có được không?

Giọng nói của nó nghe điềm đạm như người lớn. Dung hỏi ngay:

— Dì em ở đâu?

— Dạ... ở Chợ Lớn! Hôm đám táng chị Hà Anh dì có về nữa và nói với ba cho dì nuôi bớt vài đứa.

Dung hỏi ngay:

— Ba em có bằng lòng không?

A Xây gật đầu:

— Ba bằng lòng ngay, nhưng em không chịu. Em khóc quá nên dì cũng không nỡ đem chúng nó đi.

Thọ ngó cậu bé hỏi:

— Tại sao bây giờ, em lại hỏi anh chuyện đó? Em đã quyết định rồi mà!

A Xây lặng thinh. Một lúc nó mới tiếp:

— Hôm trước em định thôi học và không thấy sự cần thiết phải đi học nữa. Còn bây giờ, thì em nghe theo lời anh.

Thọ ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi:

— Tại sao em không để tụi nó ở nhà?

A Xây thở ra:

— Cực chẳng đã em mới để cho tụi nó ở với dì đó anh! Chớ ở nhà mà không có em, tụi nó sẽ khổ lắm.

— Anh đã hứa lo lắng cho tụi nó mà!

A Xây lắc đầu:

— Làm sao anh lo được? Em đâu dám làm bận rộn anh nhiều. Anh cho tiền ăn đã là quá lắm, làm sao ở gần gũi tụi nó. Tụi nó còn cần tình thương.

Thọ im lặng. A Xây nói phải. Đám em của Hà Anh đâu phải chỉ cần tiền bạc để ăn thôi! Chúng nó còn cần được dạy dỗ, săn sóc mà chỉ có bàn tay của đàn bà mới làm được chuyện đó.

Dung cũng thấy A Xây tính như thế là hợp lý vô cùng. Nàng nói:

— A Xây nghĩ phải lắm! Nhưng dì em có khá giả không?

AỊXây đáp nhỏ:

— Dì ấy cũng đủ ăn, vì vậy mà em không muốn cho tụi nó quấy rầy thêm dì. Cũng bất đắc dĩ thôi chị à...

Thọ nói ngay:

— Em khỏi lo. Mình sẽ gởi tiền tiếp với dì ấy.

Dung không nói gì, nhưng không rõ anh nàng sẽ làm thế nào để giúp đỡ gia đình Hà Anh. Chính Thọ cũng đang sống nhờ gia đình, chưa có nghề nghiệp gì nhứt định. Nàng biết anh quá thương tiếc Hà Anh nên việc gì cũng tính, chớ gặp thực tế là cả một vấn đề khác. Tuy nhiên, Dung cũng định bụng sẽ trích số tiền dành dụm bấy lâu cho anh dùng đỡ. Nhưng Dung không chỉ nghĩ có bấy nhiêu đó thôi đâu. Nàng còn lo cho cuộc hôn nhơn giữa anh và Mai! Không khéo lại gãy đổ vì cái chết của Hà Anh. Từ trưa tới giờ, nàng xem chừng anh không nghĩ gì đến Mai cả...

Lúc lên xe lôi để đưa A Xây về nhà, Thọ không nói gì thêm. Chàng lặng lẽ nhìn sang hai bên vệ đường, bóng tối đã phủ trùm lên cảnh vật. Những ngôi nhà ở hai bên bờ ruộng đã lên đèn. Chiếc xe trở vào thành phố. Tiếng xe cộ tiếng người đi nhộn nhịp khác thường. Riêng Thọ lại thấy tâm hồn mình cô độc hơn. Chưa bao giờ chàng thấy buồn nản và trống vắng như vậy. Chàng thấy hình như mình không còn sức lực để làm gì nữa hết! Cái chết của Hà Anh đã khiến chàng mất hết nhuệ khí trong lòng và chàng mới thấy rõ người con trai ở chàng chẳng có gì ‘‘oai hùng’’ hết.

Trước đây một năm chàng đâu có như vậy. Chàng yêu đời và thường vẫn cùng các bạn theo dõi, tham gia vào những phong trào đẩy mạnh lòng yêu nước của dân mình. Những ngày tháng đó, tâm hồn chàng đâu có bệ rạc như vầy?

Đến nhà Ban Phánh, A Xây bước xuống xe, Dung ngó anh rồi bảo cậu bé:

— Sáng mai chị sẽ trở lại và sẽ tính cho em.

A Xây gật đầu rồi bước vội vào nhà. Dung bảo anh lái xe lôi:

— Anh qua chợ đi...

Thọ vẫn lặng yên, nhìn vào nhà Hà Anh. Mấy đứa trẻ đang ngồi ở bực cửa, ngó thấy A Xây về chạy vội ra đón. Tiếng reo mừng của chúng vang lên trong buổi hoàng hôn, Thọ có cảm giác như xem chúng nó đang nắm lấy tay mình...

Bốn ngày liền, Thọ không bước ra khỏi nhà. Từ hôm lên Vĩnh Long viếng mộ Hà Anh và lo liệu giúp đỡ đám em nàng trở về cho tới nay, tâm hồn Thọ đổi khác nhiều lắm. Chàng thẫn thờ, buồn bã vì những nỗi tình không giải được! Dung hiểu được tâm trạng của anh nên càng tội nghiệp hơn. Nàng chỉ sợ có mỗi một điều thôi: sự gãy đổ hôn nhân giữa Mai và anh nàng vì cái chết của Hà Anh. Nếu dạo nọ, anh nàng đừng bị bắt rồi phải mang ơn sâu của ông Hội thì chắc là Thọ chưa nghĩ đến việc cưới Mai. Tuy Mai rất dễ thương, nhưng Dung biết chắc anh nàng không yêu Mai bằng Hà Anh! Tại lý do nào thì Dung hoàn toàn không rõ? Thấy anh cứ mãi ở nhà, Dung đã bắt đầu lo, nhưng nàng không dám nói với mẹ một lời nào cả.

Đến buổi cơm chiều nay, Thọ cũng không ra ăn, bà mẹ lấy làm lạ hỏi Dung:

— Sao thằng Thọ ở miết trong phòng vậy? Nó có bệnh hoạn gì chăng?

Dung đỡ lời cho anh:

— Dạ không có đâu mẹ! Chắc mới ăn gì, hồi xế trưa nên còn no.

Rồi bà mẹ cũng không hỏi nữa. Cơm xong, Dung vào phòng anh và thấy Thọ ngồi im lìm bên cửa sổ nhìn sang gian nhà cũ của Hà Anh. Nơi đó bây giờ không còn nhộn nhịp như xưa nữa vì thiếu vắng khuôn mặt xinh tươi của người thiếu nữ Trung Hoa đã từng làm xao xuyến tâm hồn những chàng trai trong xóm.

Dung đến sát bên anh khiến Thọ giựt mình quay lại:

— Kìa em!

Dung ngó mong qua ngôi nhà cũ của Hà Anh rồi hỏi:

— Sao anh không ăn cơm?

— Anh không thấy đói.

Rồi chàng quay vào, ngồi xuống bên giường lấy thuốc ra hút. Dung đứng dựa lưng vào thành cửa sổ nhìn anh, một lúc mới hỏi:

— Anh nằm nhà mãi sao?

Thọ ngước lên:

— Chớ đi đâu hả em?

Dung nói thật mau:

— Chuyện đó đã qua rồi, anh còn nhớ tới làm gì? Sao em rầu quá hà?

Thọ ngập ngừng hỏi em:

— Em rầu... chuyện chi?

Dung lại nhìn ra ngoài cửa sổ, bóng chiều đã xuống, mặt trời khuất hẳn sau những khu vườn. Nàng nói chầm chậm:

— Anh quên chị Mai rồi sao?

Thọ xích vào trong, dựa lưng vào vách, thở dài:

— Có gì mà quên?

— Sao anh không sang bên chị ấy? Mấy hôm nay không thấy anh chắc chị cũng buồn!

Thọ ngó xuống không nói gì. Mấy hôm nay, chàng vẫn nghĩ đến Mai luôn, nhưng sao không thấy tha thiết đi thăm nàng... Cái chết của Hà Anh và những lời trăn trối của nàng trong bức thư vĩnh biệt vẫn ám ảnh Thọ. Nhiều lúc nhìn sang gian nhà kia, Thọ như còn thấy lảng vảng bóng hình Hà Anh bên khung cửa sổ sơn màu xanh tối. Chàng vẫn tha thiết nhớ tiếng cười trong trẻo của nàng và tiếng gọi ‘‘A chế’’ của đám em nàng trên bến sông, trong chiều nhạt nắng.

Dung lại bảo anh:

— Anh sang Phước Định chơi vài hôm có lẽ hết buồn...

— Khó lắm Dung à!

— Tại sao? Anh thương nhớ Hà Anh cho đến bao giờ?

— Làm sao anh rõ được? Nói đúng ra, anh thương tiếc ở ngần nào đó thôi, nhưng trong lòng anh cứ ray rức, băn khoăn. Tại sao anh và Hà Anh đều yêu nhau, nhưng để đi đến sự gãy đổ như vầy? Tại sao không ai nói được với ai một lời nào cả?

Dung cất tiếng:

— Tại vì trước đây anh chưa rõ tình yêu của Hà Anh mà chị ấy cũng vậy nữa. Nhưng khi anh định cưới chị Mai và Hà Anh lấy Năm Quýnh thì cả hai mới nhận thấy được lòng mình.

Thọ gật gật đầu:

— Có thể như thế lắm! Nhưng anh yêu Mai còn có lý do, chớ Hà Anh... Sao lại ưng Năm Quýnh để rồi chịu sự dằn vật đớn đau?

Dung thở ra:

— Chị ấy tuyệt vọng làm càng như trong thư đã viết.

Thọ chỉ nhờ câu nói đó của em:

— Vậy là lỗi hoàn toàn ở anh phải không Dung? Chính anh đã làm cho Hà Anh tuyệt vọng.

Dung lắc đầu ấp úng:

— Không... không hẳn thế?

— Còn gì nữa! Mấy hôm nay anh nhận định lại tất cả những chuyện đã xảy ra anh mới thấy mình ngu xuẩn, ngờ nghệch. Ngày Hà Anh tặng cho anh con bướm vàng vật lưu niệm của mẹ, đáng lý ra anh phải hiểu lòng nàng. Đó là tiếng gọi cuối cùng của người yêu tuyệt vọng! Thế mà anh không tới gặp nàng. Em đã đi thay anh... Nếu anh gặp Hà Anh vào lúc đó, có thể là nàng không chết đau đớn như vậy?

Dung cúi mặt buồn bã. Nàng không hiểu sự suy đoán của anh có đúng chăng, nhưng không muốn cãi lại anh.

Thọ chợt đứng lên nói:

— Em nói có phần đúng! Nằm mãi ở nhà cũng chẳng ích gì? Nghĩ ngợi riết có thể phát điên lên được!

Dung hỏi:

— Ănh sang bên chị Mai ư? Gần giờ thiết quân luật rồi. Làm sao về?

Thọ ngó về phía Xóm Chợ nói:

— Anh không qua đó đâu! Mai mốt sẽ hay.

— Chớ anh đi đâu?

— Anh ra ngoài mé sông...

— Anh không ăn cơm ư?

— Đừng lo cho anh, nếu đói anh ghé quán chú Hai ăn hủ tiếu cũng được...

Thọ vừa ra cửa, Dung lại nói vói theo:

— Cho em đi với.

Thọ quay lại lắc đầu:

— Trời sắp tối rồi, con gái ra ngoài làm chi?

Rồi không muốn nhìn vẻ bất mãn của Dung, chàng bước mau ra cổng rào... Đường chiều đã vắng người qua lại. Hoàng hôn phủ trùm lên cảnh vật một màu buồn bã, bến chợ đìu hiu, hàng cây trứng cá vẫn đứng im lìm như đợi chờ ngày đi, đêm đến.

Thọ bước qua ngang nhà cũ của Hà Anh, hàng quán đã lên đèn. Có tiếng nhừa nhựa cất lên đâu đó:

— Thầy... Thôi đi ‘‘dìa’’. Ông Xếp biểu gọi thầy..Uống hoài sao?

Thọ ngạc nhiên khi nghe tiếng Năm Quýnh cất lên:

— Mầy về đi… Tao ngủ ở đây luôn. Chả có xếp xiếc gì hết.

— Ý trời... Đâu có được ‘‘ cha nội’’. Ngủ ở đây để nạp mạng à?

Thọ liếc nhìn vào quán ‘‘anh Hai hủ tiếu’’, thấy Năm Quýnh đang ngồi gật gù trên ghế đẫu. Bên cạnh bàn một tên bạt-ti-dăn đang nài nỉ hắn trở về đồn. Bộ mặt thiểu não của Năm Quýnh khiến Thọ chú ý. Có lẽ hắn cũng đang khổ lòng vì cái chết của Hà Anh?

Năm Quýnh chợt ngó lên, vung tay gắt gỏng:

— Cái thằng nầy! Mầy đi về đi. Tao đâu cần mầy ở lại đây. Mạng tao ăn thua gì!

Anh Hai bán hủ tiếu nghe Năm Quýnh nói lên như vậy, cũng sợ anh ta nằm vạ trong quán mình, vội chạy ra:

— Thầy Năm à... Chú Bảy đây nói phải đó! Trời tối lắm rồi.

Năm Quýnh sừng sộ:

— Không được đuổi nghen! Tao đốt quán.

Đột nhiên anh ta im bặt, khi thấy bóng Thọ đứng trước cửa quán nhìn vào. Anh Hai hủ tiếu nhớ vụ Thọ và Năm Quýnh tranh nhau cô gái Tàu đối diện nhà mình độ nọ càng lo sợ hơn. Năm Quýnh đang say, hắn còn kể gì nữa! Anh Hai lui ra cửa bảo Thọ:

— Cậu Ba... Về đi. Trời đất ơi! Đi đâu lang bang giờ nầy. Nó say đó...

Thọ vẫn nhìn vào quán, Năm Quýnh đột ngột xô tên bạt-ti-dăn ra, đứng lên đi về phía Thọ:

— Cậu Thọ đó hả? Vô đây, vô đây...

Anh Hai hủ tiếu xanh mặt, nắm lấy tay hắn:

— Thầy Năm, thôi mà! Tối rồi, để cậu ấy về nhà dùng cơm.

Năm Quýnh hất tay anh ta, loạng choạng bước tới bên Thọ:

— Vô chơi. Tôi mời. Dám vô hông?

Thọ lạnh lùng bước vào quán. Anh Hai lo sợ thất thần đến sát bên tên bạt-ti-dăn nói nhỏ nhỏ:

— Làm sao cậu Bảy! Thầy Năm đang say, ổng dám làm ẩu lắm.

Tên bạt-ti-dăn rùn vai lắc đầu:

— Hổng biết rồi! Tui nói hết sức, thẩy không chịu ‘‘dìa’’. Làm sao?

— Về cho Xếp bót hay đi cậu Bảy?

— Đừng giỡn ‘‘cha nội’’! Xếp bót khiển trách ổng, để ổng giết tôi sao?

Năm Quýnh vụt la lớn:

— Anh Hai... La-ve đâu? Lấy thêm ra đây.

Đôi mắt anh ta đỏ ngầu, trừng trừng ngó Thọ. Chàng cũng ngó anh ta như con ‘‘quái vật’’! Hắn muốn gì nữa đây, thật tình Thọ không biết, nhưng chàng đã đâm liều. Chính thằng khốn nầy đã làm hỏng đời chàng và gây ra cái chết của Hà Anh. Năm Quýnh đón lấy chai rượu trên tay anh Hai hủ tiếu rót vào ly nói:

— Cậu có đi Vĩnh Long nữa phải không? Cậu có viếng mộ... nó nữa...

Thọ ngó thẳng vào đôi mắt Năm Quýnh hỏi:

— Tôi không được quyền đi thăm mộ Hà Anh sao?

Năm Quýnh ngó xuống, nhắm nghiền đôi mắt, nói lầm thầm:

— Được chớ? Ai dám cấm! Có quyền gì cấm? Rồi đột ngột anh ta ôm lấy mặt nói như điên:

— Nó chết rồi... Con tôi cũng chết rồi! Sao lạ vậy? Lần chót, còn hứa với tôi sẽ trở về làng mình cậu biết không?

Thọ nhủ thầm: ‘‘ Thì ra hắn còn lên chợ bắt ép Hà Anh về làng nầy... Nàng sợ hắn làm hại cha và em nàng nên mới tự tử!’’

Nghĩ tới đó, Thọ giận run lên! Dù biết hắn có súng và nếu chàng chạm đến mình hắn thì cả nhà không yên được, nhưng chàng đã dộm đứng lên.

Năm Quýnh nắm chặt lấy tay chàng, lắc đầu:

— Không! Cậu khoan về đã. Tôi cần nói chuyện. Hà Anh chết rồi. Cậu có biết tại sao không?

Thọ nói lớn:

— Tại anh áp bức nàng! Anh ác quá.

Anh Hai hủ tiếu và tên bạt-ti-dăn đều nhìn hai người với vẻ sợ sệt. Chủ quán lo sợ nhìn quanh, nghĩ đến phút giây xô xát sắp xãy ra...

Đối với Năm Quýnh từ trước tới nay, chưa ai dám nói thẳng vào mặt hắn những lời tương tợ như thế! Hơn nữa Thọ vẫn còn ở trong tay hắn mà. Anh Hai hủ tiếu đã định chạy qua nhà gọi bà Chủ sang để hiệp nhau nài nỉ Năm Quýnh gỡ cho Thọ, nhưng sự thế xảy ra quá mau, anh biết mình có chạy đi cũng không kịp.

Năm Quýnh vụt ôm lấy đầu:

— Ờ... Có lẽ đúng. Tôi ác quá! Hà Anh không yêu tôi, chỉ vì tôi ác quá. Tôi áp bức nàng.

Lời nói bất ngờ đó chẳng những làm cho Thọ ngạc nhiên mà anh Hai hủ tiếu và tên bạt-ti-dăn cũng ngơ ngác. Năm Quýnh biết nhận mình là kẻ gian ác sao? Họ vẫn chưa tin được tên mưu mô, xảo quyệt đó! Nhiều khi hắn làm bộ như con cừu non dại rồi đột ngột bắn người ta chết không gớm tay. Nhưng lạ lùng chưa! Năm Quýnh chợt ôm mặt khóc rưng rức như một đứa trẻ:

— Tôi...Khốn nạn quá! Chỉ có cậu tôi mới dám nói. Tôi sẽ bỏ xứ nầy mà đi. Hà Anh đã nói với tôi nhiều lắm: nào là theo Tây giết người là hèn hạ, dân mình nguyền rủa đến suốt đời. Tôi chỉ ừ hử cho qua lúc, để được yêu thương. Nhưng từ hôm nó chết đi rồi. Tôi nghĩ đến những lời nó nói tôi ân hận quá. Tôi có khốn nạn thiệt không cậu?

Tên bạt-ti-dăn chăm chú nhìn Năm Quýnh rồi ngó Thọ, không hiểu hắn nghĩ gì, vụt bỏ ra cửa.

Thọ dù đang thù hận Năm Quýnh đến cực độ, nhưng nghe những lời như ăn năn hối hận của hắn chàng cũng thấy lòng mình dịu xuống.

Năm Quýnh chợt tiếp lời:

— Nhưng... xét kỹ lại. Tôi có đổi tánh tình đi nữa Hà Anh cũng vẫn không yêu tôi. Tôi thành thật nói thế vì nó đã trót yêu cậu mất rồi.

Thọ cúi mặt ngầm nhìn nhận lời Năm Quýnh. Hắn lại hỏi chàng:

— Có phải vậy không hả cậu? Mà cậu cũng yêu Hà Anh... Hừ, trước kia, tôi ngu xuẩn quá. Tưởng đâu chiếm được thể xác của Hà Anh, ôm ấp nó, có con với nó làm chủ nó trọn vẹn. Không! Bây giờ, tôi mới hiểu rõ là tôi thất bại. Chẳng có một phút giây nào Hà Anh yêu tôi cả. Cho đến lúc chết nó cũng chỉ yêu mỗi mình cậu thôi. Nằm với tôi mà tâm hồn của nó vẫn giữ trọn vẹn niềm yêu thương cậu.

Thọ có cảm tưởng là Năm Quýnh không say. Hắn còn đủ sáng suốt để nhận định rõ ràng mọi chuyện.

Hắn vụt hỏi Thọ:

— Còn một điều tôi không hiểu! Cậu có trả lời tôi được không?

Thọ đáp:

— Anh muốn hỏi gì?

— Tại sao cậu yêu Hà Anh mà bằng lòng cưới con ông Hội Đồng?

Thọ không dè anh ta lại thắc mắc điều đó! Chàng đáp:

— Tại vì... Hà Anh đã bằng lòng yêu anh.

Năm Quýnh lắc đầu:

— Chắc không phải vậy! Tôi đoán không lầm đâu. Cậu bằng lòng cưới cô Mai vì muốn trả ơn ông Hội Đồng mà?

— Cái đó... cũng có một phần. Riêng Mai tôi biết từ ngày còn nhỏ.

Năm Quýnh cúi mặt lắc đầu:

— Tôi biết lắm mà! Tôi biết cậu lầm là lão Hội Đồng đã cứu cậu. Cậu tưởng tôi sợ oai ông ấy lắm sao? Đâu phải. Tôi thả cậu ra vì Hà Anh bằng lòng lấy tôi với điều kiện đó...

Thọ không còn tự chủ được nữa. Chàng cất giọng run run:

— Anh... Anh nói thiệt?

Năm Quýnh như tỉnh hẳn cơn say, chậm rãi đáp:

— Tôi nói dối cậu làm gì? Nếu Hà Anh còn sống, có lẽ tôi sẽ giấu cậu luôn. Nhưng bây giờ thì không cần thiết nữa. Cậu tưởng Hà Anh dễ dàng lấy tôi sao? Tôi đã theo đuổi nó từ khi gia đình mới dọn về đây. Tôi xúi ông Ban hút trở lại, tôi chịu tiền... Tôi cho mượn tiền... Những lời ông Ban khuyên nó, chả ăn thua... Chỉ có thả cậu ra, dù cho có mang tội gì cũng mặc là Hà Anh bằng lòng.

Hắn nói xong vụt đứng lên bảo chủ quán:

— Nầy... Để đó, mai tôi trả tiền.

Rồi ngó Thọ, Năm Quýnh tiếp:

— Tôi về... Cậu cũng về đi, tới giờ thiết quân luật. Nói thiệt tôi cũng chẳng có cảm tình gì với cậu, nhưng bắt buộc phải nói ra hết cho nghe một lần. Có lẽ Hà Anh tha thứ bớt tội lỗi của tôi. Còn cậu, có nghĩ sao cũng không cần!

Thọ nhìn sửng vào đôi mắt của hắn. Năm Quýnh loạng choạng ra cửa quán. Bên ngoài trời tối đen như mực, gió từ ngoài lòng sông thổi vào lạnh lạnh.

Anh Hai hủ tiếu đến bên Thọ nói nhỏ:

— Cậu về đi. Hôm rày, nó như thằng khùng đụng ai đánh nấy. Mấy cha bạt-ti-dăn cũng bị nó đánh như thường. Họ oán nó lắm, nhưng chẳng ai dám làm gì? May cho cậu đó...

Thọ ngó anh Hai rồi thất thểu bước ra đường cái. Anh ta làm sao hiểu được tâm trạng của Năm Quýnh hiện giờ. Hắn là một kẻ đau đớn nhứt ở trên đời vì tâm hồn khát máu của hắn bắt đầu biết run động vì một tình thương. Tình thương đó đã làm Năm Quýnh bị dằn co, ray rức giữa những điều thiện, ác! Riêng Thọ lại còn đau đớn gấp trăm lần hơn. Chàng vừa biết được một sự thật hết sức thương tâm: Hà Anh đã hy sinh cả sự trong trắng của đời mình để cứu chàng mà không nói một lời... Bây giờ Thọ mới hiểu được tấm lòng cao quí của Hà Anh: Tại vì sao đang yêu chàng mà bằng lòng thất thân với Năm Quýnh?

Thọ đi ngang qua gian nhà cũ của Hà Anh lúc nào không hay và một sức mạnh vô hình đã buộc chàng phải đứng dừng lại. Nơi đây, lần đầu tiên khi trở về Thọ đã nghe tiếng đàn khô khan của Ban Phánh và đã nhìn thấy bóng người thiếu nữ Trung Hoa dạy em học trước đèn.

Bây giờ, những bóng hình kia đã lui vào dĩ vãng xa xôi.

Thọ gục đầu bước đi trong đêm, nước mắt ứa ra đổ dần xuống má. Chưa bao giờ chàng thấy rõ ràng hơn trách nhiệm của mình đối với cái chết của Hà Anh. Nếu không vì yêu chàng thì chẳng bao giờ Hà Anh thất thân với Năm Quýnh để rồi dẫn đến cái chết thảm thương!

Chàng chợt nghĩ đến Mai, đến những ngày sẽ tới. Mai không có tội tình gì cả, nhưng Thọ chắc chắn mình sẽ không bao giờ đem lại hạnh phúc cho nàng. Chàng không thể sống ở bên Mai mà tâm hồn vẫn luôn luôn nghĩ đến Hà Anh? Thọ không muốn làm khổ Mai, người con gái đáng thương đã đặt tất cả tin yêu nơi chàng...

Cả làng Bình Hòa Phước đều xôn xao về cái tin Năm Quýnh tử thương vì một quả lựu đạn nổ ở đầu xóm chợ! Người thì bảo dân quân kháng chiến đã hạ sát Năm Quýnh để trừ bớt một kẻ theo Tây nguy hiểm, nhưng có kẻ lại cho rằng chính mấy tên bạt-ti-dăn đã giết Năm Quýnh vì oán thù.

Sự thật như thế nào, mãi đến ngày nay vẫn chưa ai biết rõ! Gặp thời loạn lạc chết như Năm Quýnh cũng là sự thường, chẳng ai muốn tìm hiểu cho sâu xa thêm. Họ chỉ bàn bạc thầm lén với nhau là: — ‘‘ Thằng đó chết đáng đời!’’, ‘‘Trời cao có mắt!’’, ‘‘ Nó hại biết bao gia đình tán gia bại sản, bây giờ mới trả nợ oan khiên!’’, ‘‘ Thiệt là ác lai ác báo!’’. Nhưng rồi, họ cũng quên đi vì trong làng lại nổi thêm vài tên gian ác khác, cũng nịnh bợ Tây tà và hiếp đáp dân lành.

Duy có đám cưới giữa Thọ và Mai bị đình chỉ bất ngờ, khiến dân làng xôn xao và bàn tán lâu hơn cả. Gia đình bà Chủ và ông Hội Đồng gần như là hai ‘‘ vọng tộc thế gia’’ trong làng nầy! Họ làm suôi với nhau thì không có gì hợp lý hơn vì rằng tiền bạc ngang nhau, danh giá cũng chẳng kém sút chi nhau! Ấy thế mà gần đến ngày đám cưới, Thọ bỏ nhà ra đi biệt tích. Hôn lễ bãi bỏ bất ngờ khiến ông Hội Đồng mất mặt với xóm làng nên tuyệt giao luôn với bà Chủ. Bà mẹ của Thọ khổ tâm vô cùng, đã mấy lượt qua nhà xin lỗi nhưng ông bà Hội Đồng vẫn lánh mặt không tiếp.

Mai đau một trận, gầy ốm xanh xao, phải lên Sài gòn trị bịnh mới bình phục được. Nàng trở về nhà được ba hôm thì một buổi chiều Dung sang thăm. Ông Hội định không cho nàng tiếp, nhưng bà Hội đã ngăn chồng:

— Kệ nó mà... Giận là giận thằng Thọ chớ chị Chủ và cháu Dung có lỗi gì. Chắc bên gia đình bển cũng khổ tâm lắm!

Ông Hội không nói thêm mà bước ra vườn sau. Ông là người rất khe khắt nên hành động của Thọ đối với ông, không thể dễ dàng tha thứ. Dung vào nhà, chào bà Hội và xin phép thăm Mai. Bà mỉm cười với nàng rồi chỉ tay vào phòng:

— Em nó nằm nghỉ bên trong. Lâu quá sao cháu không qua chơi, tệ thiệt.

Dung chỉ cúi đầu, dạ dạ, chớ chẳng dám nói một lời. Nàng biết bà Hội cũng ngượng với mình, nên bước nhanh vào buồng trong. Mai đang ngồi trên giường, thêu một chiếc khăn tay, chợt nghe tiếng guốc, vụt ngẩng lên gọi:

— Dung!

Dung nhìn Mai thấy còn xanh xao, gầy ốm thì xúc động bồi hồi:

— Chị...

Rồi nàng nghẹn ngào không nói được nên lời. Mai đã đứng lên, bước xuống giường, ôm chầm lấy Dung ngập ngừng nói:

— Dung mạnh... Bác mạnh hả?

— Cám ơn chị. Má vẫn thường. Má và em qua mấy lần, nhưng nhà đều đi vắng. Có lẽ bác Hội không muốn tiếp.

Mai lắc đầu, gượng cười:

— Bỏ qua những chuyện đó đi Dung! Nhắc lại làm gì? Anh Thọ và mình đã không có duyên với nhau thì thôi. Vả lại, mới đây mình có được thơ của anh ấy.

Dung mừng rỡ kêu lên:

— Anh Ba em có gởi thư về cho chị?

— Vâng! Cả nhà không ai biết, mà mình cũng chẳng muốn nói với ai. Thọ đã giải bày tất cả mọi chuyện, từ cái chết của Hà Anh đến sự quyết định đi theo kháng chiến chống Tây. Bức thư đã an ủi mình nhiều lắm Dung à! Mình đã nghĩ kỹ nếu ở vào cảnh của anh ấy mình cũng làm thế thôi.

Dung thở ra nhẹ nhàng:

— Vậy thì em không còn gì phải nói với chị nữa. Thú thiệt em khổ tâm lắm chị à. Từ mấy tháng nay chẳng biết anh ấy đi đâu? Mới nhận được thư, chắc là một lượt với chị, em mới định sang đây giải bày. Nào ngờ, anh ấy cũng có gửi thư về cho chị.

Mai nắm lấy tay Dung, trong lòng tràn ngập yêu thương. Nàng chợt hỏi:

— Các em của Hà Anh bây giờ ra sao?

Dung đáp nhỏ:

— Em vẫn giúp đỡ A Xây học hành thay cho anh Thọ. Thỉnh thoảng em cũng có lên Vĩnh Long thăm tụi nó.

Mai cười thoải mái:

— Hôm nào Dung có đi cho mình theo thăm mộ Hà Anh với nghen?

Dung gật đâu ngó bạn. Mai lại tiếp:

— Mình nghĩ kỹ. Hà Anh rất xứng đáng với tấm lòng yêu thương của anh Thọ. Mình không còn ghen tức vu vơ. Có dịp nào mình sẽ gởi thơ cho anh ấy rõ...

Nghe giọng nói và nhìn vào đôi mắt của Mai, Dung chắc chắn không bao giờ nàng quên được Thọ. Dung lặng lẽ thở dài vì làm sao đoán trước được tương lai của hai người?

Có tiếng con chìa vôi hót gió ngoài vườn sau, nghe hoang vắng lạ lùng! Bên ngoài, trời đã hoàng hôn...

4-64