KỸ THUẬT ĐỘC ĐÁO (2)
Nhiều nhân vật khác cũng xuất hiện trong tâm trạng của "em" dưới dạng tên gọi ít nhiều mang tính châm biếm như thế. Một nữ nhân viên văn phòng trong cơ quan chẳng biết tên là gì, nó là "Con bướm" bay lênh đênh nhởn nhơ, không hại ai... và chẳng ai hại được nó, "chỉ có điều đôi khi nhìn cũng ngứa mắt... (tr. 73); "nó ăn mặc khôn ngoan nhưng bị lộ tẩy chất nhà quê ở cái vẻ quá thướt tha và chất vải rẻ tiền" (tr. 74)... Gặp lại một cô bạn từ hồi học cấp hai, nay giàu, mở cửa hiệu cầm đồ ở giáp ngã tư phố Hàng Hòm, "khổ người vẫn đậm chắc, da hơi nâu nhưng tóc đã cắt ngắn và bộ quần áo bằng đũi rộng rãi làm nó ra dáng một chủ hiệu cầm đồ" (tr.26); thế là ta chỉ biết cô ta với biệt danh "Chủ hiệu cầm dồ" mà thôi. Ông "Hai mươi bảy vết thương" là người từng vào sinh ra tử trong chiến tranh; ngoài biệt danh đó, ta chỉ được biết thêm ông ấy họ Trịnh, rất mê chơi cờ tướng. Buổi trưa những lúc đi ăn cơm, "em" hay bị "Hai mươi bảy vết thương" gọi vào chứng kiến những ván cờ tàn; lúc thắng thì "Hai mươi bảy vết thương" đắc chí, "cười sung sướng, nước bọt bắn xuống bàn cờ", lúc thua thì "than lên não nề như chết vợ" (tr. 61). Lại còn có "Thằng trí thức" ba mươi hai tuổi, cận sáu di-ốp, dân Nghệ An ra Hà Nội, và "em" hình dung "Hà Thành như miếng bánh ga-tô bị đàn kiến đổ xô đến" (tr.55), rồi "Thằng trí thức" đón lấy đĩa bánh trôi "Chủ hiệu cầm đồ" mời và "ăn tự nhiên, làm như đến chỉ để ăn" (tr.57)... Vũ có lẽ cũng được xếp vào loại như thế, vì "Thằng trí thức" làm cho "em" nhớ đến Vũ (tr. 56).
Nhân vật vô danh thấp thoáng sau đại từ "em" có ý thức rất rõ về cái tầm của bản thân: "Dù gì mình vẫn phải là mình, vẫn phải là gái Hà Thành, hơi lạnh lùng, hơi mơ màng, sống trên tất cả những gì từ nơi khác đến" (tr.126). Người con gái ấy khi đưa Quẩy vào nhà vê sinh ở rạp chiếu bóng, một mình đứng đợi bên ngoài, tựa lưng vào tường nhìn ngược về phía khán giả đang ngồi xem phim: "Bao nhiêu khuôn mặt chập chờn sáng, lúc xanh bóng, lúc đỏ rợn. Những khuôn mặt như những lọ gốm xep đều đặn tron giá. Một người quan sát nhiều người, vừa kín đáo, vừa khinh bỉ." (tr.64). Dường như thiên hạ tất cả đều chẳng xứng với mình, kể cả Phong là người trước kia có cảm tình với "em", nay gặp lại, "một chi tiết làm em hứng thú đó là việc Phong đang ở rể" (tr.37); kể cả Tuấn "là một kỷ niệm, một ký ức khó phai tàn cho dù không được chăm sóc thường xuyên" (tr.93); kể cả Vũ, "Cuộc sống có vẻ cồng kềnh lằng nhằng, nếu có thể sẽ cắt bỏ bớt đi cho nhẹ để tiến lên nhanh hơn, thoải mái hơn. Chẳng biết nên cắt bỏ cái gì, Vân? Hoài? Hay Vũ? "Chủ hiệu cầm đồ" thì không, đó là người bạn thực sự tử tế" (tr.66, 67).
Người kể chuyện sứ dụng dại từ nhân xưng "em" ở ngôi thứ nhâ't không phù hợp với một cô gái cốt cách như thế.
*
Tâm trạng trong Trí nhớ suy tàn đúng là tâm trạng của "em", nhưng "em" không phải là người kể chuyện. Trở lại với bài thơ Đề từ cho một bức ảnh đen trắng. Từ "em" chỉ xuất hiện một lần ở khổ thơ cuối cùng: Ngày mai gió ngày mai không ngã gục/ Nhưng em chẳng còn tết tóc đuôi sam/ Cười lanh lảnh". Trong bài thơ, "em" mang chức năng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba hay ngôi thứ hai? Theo tôi, đề từ ở dây là lời của chủ thể trữ tình tâm sự với người trong tấm ảnh cũ. "Em" là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai.
Trí nhớ suy tàn cũng là lời của người kể chuyện hướng về "em" ở vị trí ngôi thứ hai; tất nhiên không nên đồng nhất một cách máy móc chủ thể trữ tình và nhà thơ trong Đề từ cho một bức ảnh đen trắng, cũng như người kể chuyện và nhà tiểu thuyết trong Trí nhớ suy tàn.
Kể chuyện ở ngôi thứ hai trong văn xuôi là một biện pháp hiếm gặp chứ không phải là chưa từng có. Chẳng hạn, cùng xuất hiện một năm với Trí nhớ suy làn có chuyện Kalinta của nhà văn J.M.G. Le Clézio [9]. Kalima là một cô gái ở thành phố cảng Tanger cùa Marốc rời bỏ quê hương sang Pháp tìm kế sinh nhai, nhưng bị sa vào tay bọn bất lương, gặp bao truân chuyên, trở thành gái điếm và chết thảm hại. Truyện chỉ là lời trò chuyên một chiều của người kể chuyện với thi thể Kalima lúc này đang ở trong nhà xác: "Ôi Kakima, con đường nào em đã đi qua cho đến ngày hôm nay của tháng Giêng năm 1986, em nằm trần trụi trên đá hoa cương lạnh lẽo của nhà xác..." [...]. Ai là người nhớ đến em lúc em trên tàu đến cảng Marseille? [...]. Em đã nghe thấy tiếng của lửa hầm hập và của giá lạnh trong cơ thể em...[10]. Trên một trăm lần từ "em" xuất hiện với tư cách đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít (tiếng Pháp: tu, te), hoặc các đại từ sở hữu ngôi thứ hai số ít ("cúa em" tiếng Pháp ton, ta). Không một lần nào đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (tiếng Pháp: je) xuất hiện, nhưng bạn đọc dường như vẫn thấy hiển hiện có ai đó đang đối diện với thi thể Kalima. Tôi gọi đó là cái "tôi" ảo, để phân biệt với nhân vật người trần thuật truyền thống trong tiểu thuyết, có mặt khắp nơi, hiểu biết tất cả, nhưng độc giả chẳng ai cảm thấy sự có mặt của anh ta.
Kỹ thuật tự sự ở ngôi thứ hai này cũng được sử dụng trong Trí nhớ suy tàn. Tuy nhiên, ở đây nhân vật "tôi" ảo ấy không chỉ đối diện và trò chuyện với "em", mà đồng thời còn mang dáng dấp nhân vật người kể chuyện hướng tới độc giả. Vì vậy, đọc Kalima, chẳng ai là không thấy bóng dáng nhân vật vô hình kia, trong khi không mấy người để ý đến bóng dáng người kể chuyện trong Trí nhớ suy tàn. Mặt khác, nhân vật "tôi" ảo trong truyện của Le Clézio hoàn toàn cách biệt với Kalima, ngoài nỗi xót thương; ngược lại, người kể chuyện của Nguyễn Bình Phương vừa như đối diện với "em", giúp cho mọi diễn biến được kể từ bên ngoài "em", nhưng lại như do chính "em" tự kể chuyện mình. Giữa người kể chuyện và "em" trong Trí nhớ suytàn có cái gì đó gắn bó, sâu sắc, ràng buộc chẳng kém gì mối quan hệ chủ thể trữ tình với hình bóng cô gái trong tấm ảnh cũ.
Gần cuối tác phẩm: "Em phải nói thật nhanh vì trí nhớ đang suy tàn ghê gớm [...]. Ý nghĩ bị bỏ lửng [...] vì thời gian đã cạn, trí nhớ đã suy tàn" (tr.127). Tấm màn "quên" đang xóa mờ ký ức của "em" hay của người kể chuyện đang day dứt về "em", day dứt cùng với "em"?
Nhưng kỹ thuật sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ hai trong Trí nhớ suy tàn gần hơn với cách làm của Michel Butor (sinh năm 1926) trong tiểu thuyết Thay đổi (La modification, 1957) từng làm xôn xao dư luận trong giới văn chương cách đây nửa thế kỷ. Cùng với N.Sarraute, C. Simon, A.Robbe-Gríllet [11], ông là một trong bốn trụ cột của trào lưu Tiểu Thuyết Mới (Nouveau Roman)ởờ Pháp lúc đó.
Trí nhớ suy tàn là tâm trạng của "em" trong quảng thời gian mấy tháng kết thúc vào ngày sinh nhật lần thứ hai mươi sáu; Thay đổi là tâm trạng của Léon Delmont, giám đốc chi nhánh Paris của hãng sản xuất máy chữ Scabelli ở Italia, trên hành trình khoảng hai mươi mốt tiếng đồng hồ băng xe lửa xuất phát từ ga Lyon ở Paris và kết thúc ở ga Stazione Termini ở Roma.
"Em” trăn trở giữa Tuấn và Vũ thì Léon Delmont trăn trở giữa vợ là Henriette ở Paris và người yêu là Cécile đang ở Roma. Michel Butor không dùng ngôi thứ ba số ít để kể về Léon Delmont, cũng chẳng để cho nhân vật ấy xưng "tôi" tự kể về mình. Thay vào đó là ngôi thứ hai số nhiều "vous". Từ "vous" tiếng Pháp trong trường hợp này, cũng như từ “you" trong tiếng Anh, thông thường được được sử dụng khi chỉ nói với một ai đó.
Nhà tiểu thuyết trước đây thường lựa chọn một trong ba hình thức tự sự, kể chuyên ở ngôi thứ nhất, dùng độc thoại nội tâm, hoặc kể chuyện ở ngôi thứ ba. Theo M.Butor trong tiểu luận "Sử dụng các đại từ nhân xưng trong tiểu thuyết" [12], cả ba hình thức ấy đều không phù hợp với Thay đổi. Nếu nhân vật xưng "tôi" kể chuyện ở ngôi thứ nhất, thì người đó chỉ có thế kể những gì bản thân mình biết (như tôi bác bỏ trường hợp "em" nhìn thấy ngực mình khi cùng Vũ âu yếm trên kia); nếu dùng độc thoại nội tâm, phạm vi càng bị thu hẹp hơn nữa, vì người kể chuyện chỉ có thể kể những gì mình biết tức thời ngay lúc đó. Làm thế nào để có thể mở rộng phạm vi ấy ra? Michel Butor sử dụng ngôi thứ hai, đó là nhân vật được người kể cho nghe chuyện của chính nhân vật ấy.
Trào lưu Tiểu Thuyết Mới ở Pháp đặc biệt quan tâm đến đổi mới kỹ thuật tiểu thuyết; theo tôi, đó cũng là mối quan tâm của Nguyễn Bình Phương. Lại có sự tương đồng giữa hai tiểu thuyết Thay đổi và Trí nhớ suy tàn trong cách sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ hai. Vì thế mà có ý kiến cho rằng Nguyễn Bình Phương trở về với Tiểu Thuyết Mới.
*
Khi Thay đổi của Michel Butor ra mắt bạn đọc, giới phê bình tranh luận sôi nổi "vous" là ai và ai nói "vous". "Vous" là hành khách Léon Delmont đi trên toa tàu và cũng là chúng ta, độc giả tiểu thuyết Thay đổi. Người nói "vous" là tác giá - hay chính xác hơn là người kể chuyện - và cũng là ý thức phân thân của nhân vật.
Có lẽ lúc đầu cả Michel Butor và Nguyễn Bình Phương không chú tâm lôi kéo độc giá vào các ngôi thứ hai tương ứng "vous" và "em", nhưng khi đọc tiểu thuyết, hầu như ai cũng có cảm giác đồng nhất mình với nhân vật. Hình như chính mình (độc giả) là người bước lên tàu, ngồi trên ghế trong toa, chính mình đôi mắt lim dim nhìn hành khách kẻ lên người xuống, chính mình, chính mình nghĩ ngợi lan man đến Henriette và Cécile suốt cuộc hành trình... Cũng vậy, dường như người kể chuyện đang nói với mình (độc giả) qua từ "em" thân thương... Các nhà tiểu thuyết thường cố gắng tìm biện pháp thu hẹp, thậm chí xóa bỏ càng tốt, khoảng cách giữa nhân vật và bạn đọc. Michel Butor và Nguyễn Bình Phương đã làm được việc đó. Nhưng Nguyễn Bình Phương vẫn cứ có đóng góp khác Michel Butor.
Nhân vật của Thay đổi tương đối rõ nét. Qua diễn biến tâm trạng của "vous", tên của "vous" dần dần hiện lên; hết chương 1, ta mới biết đó là L.D. căn cứ vào mấy chữ ghi trên vali của "vous"; sang đến các chương sau, ta biết đầy đủ cả họ và tên Léon Delmont, biết "vous" là một người đàn ông bốn mươi nhăm tuổi, biết rõ công ty, chức vụ trong công ty, có vợ và ba con ở Paris, có người yêu ở Roma; ta biết rõ ý định của "vous" định đưa Cécile về sống vời mình ở Paris, nhưng "thay đổi" ý kiến vào phút chót khi tàu đến ga cuối. Nhân vật của Trí nhớ suy tàn mơ hồ hơn rất nhiều sau từ "em", đó là chỗ mạnh của Nguyễn Bình Phương. Chẳng ai biết cô "em" sắp hai mươi sáu tuổi ấy tên là gì, làm việc ở cơ quan, nhưng cơ quan nào, công việc gì cũng chẳng rỏ... Mối quan hệ giữa "em" với Tuấn và Vũ cũng mờ nhạt hơn mối quan hệ của "vous" với Henriette và Cécile... Chính sắc thái mù mờ có dụng ý kỹ thuật ấy - không loại trừ do "trí nhớ suy tàn" - tạo nên sức cuốn hút đông đảo bạn đọc nhập thần vào với "em". Thiếu gì những độc giả tiểu thuyết là các cô gái trạc tuổi như "em", có công ăn việc làm ở một cơ quan nào đó, có đủ loại bạn học ngày xưa, bạn bè hiện nay, có những chuyện linh tinh đời thường như "em", có những mối tình vui buồn, với những băn khoăn day dứt như "em"...
Một nét độc đáo khác rất cơ bản của Nguyễn Bình Phương liên quan đến đặc thù của các đại từ nhân xưng tiếng Việt. Tôi đã có dịp bàn về các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba. Nay tôi thích thú với từ "em" trong Trí nhớ suy tàn, vừa là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, vừa dường như là đại tư nhân xưng ngôi thứ nhất. Tôi nói "dường như", bởi lẽ tôi vẫn cho rằng "em" ở đây không phải là chủ thế ngôn từ mà chú thể ngôn từ là người kể chuyện kể về "em" về diễn biến tâm trạng của "em" qua điểm nhìn của "em".
Nhìn vào một số ngôn ngữ nước ngoài quen thuộc, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai thông thường được sử dụng khi trò chuyện với người khác và "vous" (tiếng Pháp), "you" (tiếng Anh), "Bbl" (tiếng Nga), "" (tiếng Trung Quốc), "listed" (tiếng Tây Ban Nha); trường hợp xưng hô thân mật, tiếng Pháp có từ "tu", tiếng Nga có từ "Tbl", tiếng Trung Quốc có từ "fà", tiếng Anh tương ứng có từ "thou" nhưng ít dùng, thường chỉ gặp trong văn thơ cổ. Các đại từ ngôi thứ hai ấy không phân biệt nam hay nữ. Từ "vous" trong Thay đổi của -Michel Butor không dễ dịch ra tiếng Việt. Dịch là "anh" hay "ông" ư? Nhưng mấy từ ấy có thể khiến độc giả bản tiếng Việt tưởng lầm là truyện được trần thuật ở ngôi thứ ba số ít! Có cách giải quyết là chuyên "vous" bằng "bạn", vừa bảo đảm phương thức tự sự ở ngôi thứ hai, vừa giữ được sắc thái không phân biệt giới tính của từ "vous" trong nguyên bản. Từ "em" (ngôi thứ hai" trong Trí nhớ suy tàn vừa xác định rõ giới tính, vừa thể hiện tình cảm thân thương mà các đại từ "tu", "you", " không lột tả được.
Đã thế từ "em" (ngôi thứ hai) trong Trí nhớ suy tàn dường như còn nhòe với ngôi thứ nhất, khi người kể chuyện xưng "em". Trong mấy ngoại ngữ kể trên chỉ có một từ để chỉ ngôi thứ nhất: "Je" (tiếng Pháp), "I" (tiếng Anh), "Ít (tiêng Nga), "Yo" (tiếng Tây Ban Nha), "#" (tiếng Trung Quốc). Còn tiếng Việt, đứng ở vị trí đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, ngoài từ "tôi" chung chung, người ta có thể xưng "tớ, tao..." khi nói với bạn bè, xưng "ông, bà..." khi nói với hàng con cháu, xưng "con, cháu..." khi thưa gửi với bề trên... "Em" là một biến thể của "tôi" trong tiếng Việt khi người nói tỏ ra khiêm tốn; hoặc vợ nói với chồng, những cô gái nói với các chàng trai, trong trường hợp này từ "em" đượm sắc thái nữ tính yêu thương. Tôi để ý tìm tòi các bản dịch Trí nhớ suy tàn ra tiếng nước ngoài, nhưng chưa thấy. Giả dụ từ "em" được chuyển ngữ thành "Je", "I", "/I", "Yo", "#"thì đều không lột tả được sắc thái tình cảm.
Hơn nữa, từ "em" trong Trí nhớ suy tàn của Nguyễn Bình Phương vừa là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, vừa có thể cho chúng ta cảm giác đây là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, cả hai trường hợp đều mang sắc thái biểu cảm rõ rệt. Trái lại, ở mấy ngoại ngữ kia, có sự phân biệt rạch ròi không thể chồng lấn giữa hai ngôi đại từ nhân xưng ấy. Không có từ nước ngoài nào chuyển dịch được từ "em" mà đồng thời giành được cả hai chức năng ngữ pháp như trong Trí nhớ suy tàn, chưa nói chi đến sắc thái biểu cảm.
♦Đấy là đóng góp độc đáo của Nguyễn Bình Phương trong Trí nhớ suy tàn liên quan đến phương thức tự sự. Đúng là có sự bắt gặp của ông với trào lưu Tiểu Thuyết Mới ở phương Tây nửa thế kỷ trước, nhưng ông vẫn cứ làm mới trong tác phẩm của ông. Trí nhớ suy tàn là sự thách đố đối với những ai muốn dịch tiểu thuyết ấy ra tiếng nước ngoài.
Hà Nội, tháng Hai năm 2012
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu vãn học, số 7/2012
Chú thích:
[1] Nguyễn Bình Phương: Đề từ cho một tấm ảnh đen trắng. Văn nghệ số ra ngày 11/02/2012.
[2] Phùng Văn Tửu: Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Trí thức, Hà Nội 2010; các chương 3,5,6,11. Riêng bài về Nathalie Kuperman, đăng tập chí Văn học số tháng 11- 2011[3] Từ trang 9 đến trang 129 theo bản in tái bản lần thứ nhất của nhà xuất bản Văn Học năm 2006. Trí nhớ suy tàn và Những trang viết khác. Các dẫn văn đều trong sách này
[3] Từ trang 9 đến Trang 129 theo bản in tái bản lần thứ nhất của nhà xuất bản Văn Học 2006, Trí nhớ suy tàn và những trang viét khác. Cách dẫn văn đều trong sách này
[4) Xem “Nguyên Bình Phương. Lục đầu giang tiểu thuết 5/8/2011 - http://vienvanlKxr.org.vn.
[5] Thụy Khuê, Những yếu tố của tiểu thuyết mới trong tác phẩm Trí nhớ suy tàn (2002, Văn nghệ California) chimviet.free.fr/tacpham
[6] Xem "NGuyễn Bình Phương" Lục đầu giang tiểu thuyết 05/08/2011- http://vienvanhoc.org.vn
[7] Phùng Văn Tửu: Tiểu thuyết hiển đại - những tìm tòi đổi mới, KHXH 1990, 2002, trg 235 - 246
[8] Nguyễn Bình Phương: Ngồi NXB Đà Nẵng 2006
[9] Jean Marie Gustave Le Clézio (sinh năm 1940) Nhà văn Pháp đoạt giải Nobel năm 2008. Kalima in trong tập Trái tim cháy bỏng (Coeur brulé et autre romances, Gallimard, Paris 2000)
[10] Phùng Văn Tửu: Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật sdd trang 256.
[11] Nathalie Sarraute (1900 - 1999). Claude Simon (1913 - 2005). Alain Robbe-Gríllet (1922 - 2008) Các nhà văn Pháp.
[12] M. Butor Usage de Pronomns personnels dans le Roman" in trong Répertoire II (1964)