KỸ THUẬT ĐỘC ĐÁO CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG -TRONG
Kể từ khi tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Bình Phương có nhan đề Vào cõi (Nxb Thanh niên, 1991) ra mắt độc giả, tiếp đến Những Đứa trẻ chết già (Nxb Văn học, 1994), Người đi vắng (Nxb Văn học 1999), rồi Trí nhớ suy tàn (Nxb Thanh niên, 2000), Thoạt kỳ thủy (Nxb Hội Nhà văn, 2004), Ngồi (Nxb Đà Năng, 2006)..., mỗi tác phẩm đều ghi dấu tìm tòi đổi mới của tác già; nhưng tôi chợt nghĩ đến cuốn Trí Nhớ Suy Tàn, cách đây đà trên mười năm, sau khi đọc bài thơ cùa ông vừa xuất hiện trên tuần báo Văn nghệ: Đề từ cho một tấm ảnh đen trắng [1].
Ở Việt Nam cùng như trên thế giới, khát khao đổi mới tiểu thuyết có thể diễn ra trên bình diện mối quan hệ giữa tác phẩm với các hiện tượng xã hội - chính trị; việc lựa chọn đề tài cũng như cách nhìn nhận đánh giá những hiện tượng ấy, nhất là đối với những gì có liên quan đến thời sự, luôn gây được sự chú ý tức thời của bạn đọc; tuy nhiên sức sống của loại đổi mới này không phải bao giờ cũng lâu bền mà sẽ phai nhạt dần đi cùng với thời gian và thế sự. Một hướng đổi mới khác sâu sắc hơn, diễn ra trên bình diện tư duy nghệ thuật; nhận thức và sự đánh giá của nhà văn đối với hiện thực cuộc sống không đơn điệu, không dễ thấy; độc giả mỗi người đón nhận thông điệp của tác phẩm theo cách riêng, và chủ yếu thông qua những mối liên tưởng. Một hướng nữa tập trung vào tìm tòi đổi mới kỹ thuật tiểu thuyết, tiểu thuyết trở thành đề tài của tiểu thuyết như có người đã nhận định; vai trò của "nội dung" xã hội, hiện thực cuộc sống trong tác phẩm bị lu mờ đi, bị đẩy xuống hàng thứ yếu; thậm chí có thể nói cái "nội dung" theo nghĩa truyền thống ấy chỉ là "hình thức" để làm nổi bật nội dung thực sự là nghệ thuật viết lách kia. Tất nhiên các hướng đổi mới ấy có thể hòa quyện với nhau trong cùng một tác phẩm.
Vấn đề người kể chuyện là một khâu kỹ thuật được nhiều nhà văn Đông tây tìm mọi cách đổi mới, mỗi người một vẻ, làm cho phong phú thêm. Đấy cũng là điểm lâu nay lôi cuốn sự chú ý của tôi khi đọc tác phẩm của các nhà văn trong nước và ngoài nước như Trang Thế Hy, Dạ Ngân, Báo Ninh, Luis Borges, André Gide, Louis Aragon, Claude Simon, Alain Robbe-Grillet, Michel Butor, Birago Diop, Jean Philippe Toussaint, Jean-Marie Gustave Le Clézio, François Weyergans, François Lelord, Florian Zeller, Mạc Ngôn, Nathalie Kuperman [2]...
Khi đọc Trí nhớ suy tàn, tôi chợt thấy Nguyễn Bình Phương đóng góp thêm một nét mới mẻ tôi chưa từng bắt gặp ở các nhà văn khác.
*
Trí nhớ suy tàn [3] chỉ khoáng hơn một trăm trang nhỏ. Mở đầu tiểu thuyết là câu lấp lửng chiếm gọn một đoạn: "Chẳng mấy tháng nữa sẽ tròn hai mươi sáu tuổi". Mấy đoạn tiếp theo dài hơn nhưng cũng chỉ giúp ta lờ mờ đoán được có thể đó là một người sống nơi phố phường, về sau ta biết đó là Hà Thành, đôi lúc có "những giờ phút mơ mộng hão huyền từ thời sinh viên để lại"... Bóng dáng của một cô gái hiện rõ hơn qua giọng nói "trong veo", "ngân nga", đôi mắt "cong với làn da mỏng", để rồi "vào thời điểm bất chợt nào đó, đem những thứ của trời ấy dâng cho người mình yêu"... Người con gái ấy mãi đến giữa trang sau mới hiện lên rõ ràng ở từ "em" xuất hiện lần đầu, cùng với tên hai người đàn ông Tuấn và Vũ. "Tuấn đã ở chân trời khác với tiếng nói khác, màu da khác" tận Châu Âu xa xôi. "Giờ em là một con chim bị nhốt trong lồng quá lâu, bâng khuâng vì tự do, yên bình". Nhiều lúc vào các buổi trưa, đứng trên ban công cơ quan nhìn xuống đường "cho đầu óc đỡ căng thẳng chuẩn bị cho giác ngủ ngắn ngủi chớp nhoáng để quên Tuấn đi và mang máng về Vũ" (tr.10). Cứ thế suốt chiều dài tác phẩm là những dòng tâm trạng miên man của "em" chẳng biết tên là gì, về đủ thứ chuyện linh tinh, cơ quan, bạn bè, hàng xóm với hai điểm nhấn "Vũ bên trái, Tuấn bên phải, trận ốm sau lưng" (tr.14). Tuấn gắn với nụ hôn đầu tiên "em" đón nhận vào lúc mười một giờ mười phút bên gốc cây điệp hoa vàng ở phố Bà Triệu, sau đó là chiếc nhẫn với lời hứa mãi mãi thuộc về nhau ở Thảo cầm viên, đi câu cá ở hồ câu bên kia cầu Chương Dương, hoặc yêu nhau một chiều muộn trong phòng riêng... Cuối cùng "em" quyết định đi vào miền Nam, đúng ngày sinh nhật, không cho Vũ biết. Trước khi lên xích lô ra ga, "em" nói với Quẩy là cô bé giúp việc: "Tao mà không về, mọi thứ cho mày dùng hết" Quẩy sững lại: "Cô nói gì gở thế" - "Gở gì, thật đấy." (tr.128).
Chủ đề "Trí nhớ suy tàn" có vẻ được lặp lại hơn mười năm sau trong bài Đề từ cho một bức ảnh đen trắng. Bài thơ gồm 3 khổ thơ với số câu giảm dần: 8-5-3. Từ "ký ức" mở đầu khổ thứ nhất: Ký ức tết tóc đuôi sam/ Đi hài cỏ nhẹ nhàng qua mùa hạ và lần nữa mở đầu khổ thứ hai: Ký ức thẩn thờ trên chiếc dây phơi/ Lởn vởn khói thơm lưng áo gấm. Đến khổ thứ ba, từ "ký ức" không còn xuất hiện; lại có những câu: Hoàng hôn lãng quên/Giấc ngủ nhiều thực tại (câu 5 và 6), đúng là trí nhớ (ký ức) suy tàn. Các câu 11 và 12 Ngày sinh nhật một mình lạ lắm/ Hai mươi sáu mặt trăng cùng ngời sáng trong hồ cũng khiến ta liên tưởng đến câu mở đầu Trí nhớ suy tàn: "Chẳng mấy tháng nữa sẽ tròn hai mươi sáu tuổi" và một số hình ảnh đậm nét của tiểu thuyết ấy!
Trí nhớ suy tàn rõ ràng là dòng tâm trạng miên man của "em". Nhưng ai là chủ thể "phát ngôn", tạm gọi như thế, của dòng tâm trạng ấy. Người đó chính là "em" chăng?
Có ý kiến nhận định: "Tác phẩm được kể từ điểm nhìn của nhân vật xưng "em", nhưng không rõ trong quan hệ với nhân vật nào, người yêu tên Tuấn đang ở nước ngoài hay một người con trai khác cô đang thầm yêu, tên Vũ...". Đọc tới đây, chúng tôi băn khoăn chờ đợi, Vì tác phẩm được kể từ điểm nhìn của "em", nhưng người kể không nhất thiết là "em". Nhưng vấn đề trở nên rõ ràng khi đọc tiếp: "Ngôi kể ấy khiến người đọc có cảm giác nhân vật đang tâm sự với mình hoặc được nghe những lời tự vấn của nhân vật". Tác giả bài viết đã đồng nhất người kể với điểm nhìn, đó là "em"'.[4]
Đấy cũng là suy nghĩ của một nhà phê bình khác: "Với tựa đề Trí nhớ suy tàn dường như Nguyễn Bình Phương muốn xướng lên hai yếu tố: Trí nhớ và sự suy tàn của trí nhớ, như hai thành tố cấu tạo nên cuốn tiểu thuyết mới nhất của anh. Đây là một cuốn tiểu thuyết ngắn. Đúng hơn là một tạp ghi của trí nhớ, viết vội kẻo sợ chóng tàn. Đây là một chuỗi hồi ức của một người con gái không biết tên gì, ghi lại những ấn tượng chao đảo giữa hai người tình...".
Sự đồng nhất "em" với người kể không còn nghi ngờ gì nữa khi nhà phê bình cho rằng "người con gái ấy tự họa (tôi nhấn mạnh - PVT) bằng bút pháp tự động" ở những dòng đầu tiên của tiểu thuyết: "Chẳng mấy tháng nữa sẽ tròn hai mươi sáu tuổi - Mang trong mình sự phức tạp của phố phường [...] - Nói nhanh, âm trong veo [...] mắt thông minh, cong với làn da mỏng"[5].
Ngôn từ kể chuyện trong tác phẩm chủ yếu diễn ra bằng con chữ vô thanh chứ không phải bằng lời nói hữu thanh, trừ ít nhiều trường hợp ta dường như có thể nghe vang lên tiếng nói khi "em" dẫn lại các cuộc đối thoại lẻ tẻ với người này người khác. Nếu "em" là người phát ngôn thì đối tượng hướng tới là ai? Phải chăng “tác phẩm được kể từ điểm nhìn của nhân vật xưng "em", nhưng không rõ trong quan hệ với nhân vật nào, người yêu tên Tuấn đang ở nước ngoài hay một người con trai khác cô đang thầm yêu, tên Vũ" [6]. Có lẽ ý kiến ấy xuất phát từ những trăn trở của nhân vật gắn với đại từ "em".
Dòng tâm trạng của "em" hướng về Tuấn đang ở chân trời xa lắc ư? Trong tiểu thuyết, Tuấn chỉ được nhắc đến đậm nét ở mấy trang đầu, sau đó loáng thoáng đây đó gắn với bóng dáng hoặc kỷ niệm về cây điệp hoa vàng ở phố Bà Triệu. Tên của Tuấn chỉ xuất hiện rất ít trong tác phẩm. Chỉ vài mẫu trò chuyện ngắn ngủi giữa "em" và Tuấn được trí nhớ ghi lại, nhưng thường không rõ "em" gọi Tuấn bằng đại từ gì: "Cho anh hôn em", không có câu trả lời của "em" (tr.14); Tuấn có ý định ra đi, "Nhưng bao giờ? - Chưa biết. Một hai năm gì đây:" (tr. 21); trừ một lần "em" gọi Tuấn bằng "anh" lúc hai người đi xem phim với nhau: "Đố anh biết làm cách nào để được vào địa ngục?" (tr.28). Tác phẩm là cuộc trò chuyện một chiều giữa "em" và Tuấn chăng? Phải chăng "em" xưng hô thân mật với Tuấn bằng cách gọi tên trống không thay cho đại từ nhân xưng ngôi thứ hai "anh"? Nhưng làm sao giải thích được cách xưng hô "Tuấn" và cả nội dung trò chuyện khi "Tuấn đã ở chân trời khác với tiếng nói khác, màu da khác" (tr.10), khi "em" buổi trưa ở cơ quan đứng trên ban công nhìn xuống cổng, "chẳng ngóng ai, chẳng nhớ thương tương tư ai, chỉ để đầu óc đỡ căng thẳng chuẩn bị cho giấc ngủ ngắn ngủi chớp nhoáng, để quên Tuấn và mang máng về Vũ" (tr.10), khi tâm sự "Vũ bên trái, Tuấn bên phải..." (tr.14), khi đang hoan lạc với Vũ, thấy "bầu trời vô hình tràn ngập hơi thở với những đôi cánh xanh nhạt rập rờn cố gắng nâng da thịt bay lên" (tr.118), lúc đó trong đầu chỉ còn mang máng một sắc vàng không rõ của hoa điệp hay hoa hồng" (tr.118), lúc đó "Tuấn ở xa hơn quá vãng, trong một góc khuất êm ái không phiền nhiễu" (tr.119).
Những mẫu chuyện giữa "em" và Vũ được trí nhớ ghi lại khá nhiều và không ít lần người con gái xưng hô anh anh em em với Vũ. Vậy dòng tâm trạng trong tiếu thuyết này là của chủ thể xưng "em" hướng về Vũ, được nhớ lại, ghi lại khi "em" bỏ đi miền Nam đúng ngày sinh nhật lần thứ hai mươi sáu của mình, mãi mãi có lẽ chẳng bao giờ trở lại?
Nhưng nếu người kể là "em", dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất "em", trò chuyện một chiều với Vũ, ghi lại tâm trạng của mình, thì người kể và điểm nhìn trùng với nhau, và về nguyên tắc, "em" chỉ có thể kể những gì mình thấy, mình cảm. Khi bàn về tác phẩm Dịch hạch (La Peste, 1947) tôi cũng dựa trên nguyên tắc ấy để chứng minh ký sự chỉ là thứ son phấn nhà văn Pháp Albert Camus (1913 - 1960) hóa trang cho tiểu thuyết của ông mà thôi[7].
"Em" có thể thấy, có thể kể về đôi mắt của mình "thông minh, cong với làn da mỏng và chiếc mũi hếch ngộ nghĩnh, tinh quái", về giọng nói của mình "trong veo, không chịu rè đi ngay cả lúc đã mệt mỏi" (tr.9)... Nhưng ta thử đọc một đoạn khác lúc hai người ngồi bên nhau ở lều câu cá giữa hồ: "Vũ chuyển chỗ, xoay sang ngồi sau lưng em. Và ôm gọn em trong lòng mình. Một cái gáy trắng thon thả nổi bật trước nền xanh rêu của mặt hồ. Hai vành tai nhỏ mát, kháukhỉnh và lạ lùng như hai thai nhi..." (tr.103). Ai nhìn thấy cái gáy và hai vành tai ấy? Rồi tiếp sau đó, "Vũ tì cằm lên vai em, mắt nhìn xuống. Qua cổ áo căng rộng bởi các ngón tay, ngực hiện lên hai khối trắng như hai khuôn mặt sinh đôi đang ngủ, tinh khiết, gợi cảm" (tr.105). Dường như điểm nhìn và chủ thể ngôn từ không còn trùng với nhau ở nhân vật "em", trừ phi trong giây phút thần tiên đó, cái nhìn của "em" hòa vào với những gì Vũ thấy...
Vấn đề người kể chuyện trong Trí nhớ suy tàn có lẽ phải được xem xét thêm.
Tôi chợt nghĩ đến Khẩn, nhân vật chính trong tiếu thuyết Ngồi [8 ]của tác giả ra mắt bạn đọc sau Trí nhớ suy tàn mấy năm. Mở đầu tiểu thuyết Ngồi, suốt hai trang 9 và 10, tác giả chín lần thay từ Khẩn bằng ba dấu chấm "..." khiến cho độc giả chẳng biết là ai: "... cúi xuống nhặt một xác chim/ một con trâu thủng thắng đi tới, khi cách cây cột đồng chừng hơn chục bước chân thì dừng lại, giương đôi mắt lồi đen bóng nhìn.../ Con trâu ngúc ngoắc đầu phát ra những âm thanh ọ ẹ khó hiểu... dỏng tai cố gắng phán đoán" v.v... Mãi sau tên của Khẩn mới dần hiện ra, thoạt đầu là ba dấu chấm, rồi đến...n, tiếp theo là...ẩn, rồi... hắn, cuối cùng mới là Khẩn: "Bằng sự nhẩn nại ghê gớm,... hạ mình xuống, chân trái...n gập lại ngả ngang bằng với mặt đất, chân phải...ẩn co lên ép vào bụng, tai trái...hẩn bê vuông góc, bàn tay ngửa, các ngón mở ra như những cánh hoa đang tàn, bàn tay phải của Khẩn với các ngón gân guốc như bộ rễ già nua bọc kín lấy đầu gối chân phải" (tr.10). Đoạn này sẽ được lặp lại ở cuối cùng tác phẩm, chỉ khác là tân nhân vật không phải hiện dần ra như trên mà biến dần đi: Khẩn, Khâ..., Kh..., K...,... (tr.291).
Hình như Nguyễn Bình Phương cũng cố tình tung hỏa mù chung quanh "em" trong Trí nhớ suy tàn như thế, cũng là nhân vật chính, nhưng ở đây liên quan đến phương thức tự sự. Tác giả không cho biết "em" tên là gì; tên của "em" chẳng xuất hiện lần nào trong các mẩu trò chuyện với Tuấn, Vũ hay với các bạn bè. Cũng không phải ngẫu nhiên trong tiểu thuyết này, xen lẫn với những câu có đại từ nhân xưng "em" khá mơ hồ, nhà văn sử dụng tràn lan từ đầu đến cuối những câu không có chủ ngữ, hay cũng có thể nói ông cố tình giấu chủ ngữ đi: "Chẳng mấy tháng nữa sẽ tròn hai mươi sáu tuổi", "Thích các gam màu mạnh, chói, nhưng tính tình kín đáo", "Điện thoại ra ga đặt vé", "Trả tiền xe, tìm quán phở, vừa ăn vừa nghĩ...", v..v.. các đại từ sở hữu cùng bị lược bỏ: "Giọng nói (của ai?) thì chẳng hề thay đối", "Vũ mải mê say đắm với làn da trắng (của ai?), một chút nũng nịu (của ai?), tia sáng lạ lùng trong mắt và cái bĩu môi nghịch ngợm (của ai?)", v.v...
Trí nhớ suy tàn không thể là lời tâm tình của "em" hướng về Tuấn hay Vũ, vậy có thể đây là những dòng tâm trạng của người kể chuyện xưng "em" giãi bày với độc giá chúng ta chăng?
Không giống nhiều tác phẩm khác của Nguyễn Bình Phương chủ yếu xây dựng nhân vật trên bối cảnh vùng quê Thái Nguyên quê hương ông, "em" trong tiểu thuyết này là người Hà Thành, mọi sự việc diễn ra ở chốn Hà Thành với những Hồ Tây, Hồ Gươm, chùa Trấn Quốc, thảo cầm viên, các khu phố cổ... Người con gái ấy thấm đẫm chất thành thị, chất trí thức, "mang trong mình sự phức tạp của phố phường, đôi lúc không tránh khỏi những giờ phút mơ mộng hão huyền từ thời sinh viên để lại" (tr.9). Người con gái ấy tự hào về bản thân mình, từ làn da, đôi mắt, giọng nói... chiếc mũi tuy hếch, nhưng "ngộ nghĩnh, tinh quái". Trang phục tưởng như giản dị, thường mặc "chiếc áo màu ghi xám lẫn giữa bao nhiêu áo trên đường phố" (tr.10), nhưng rất sang trọng, rất thanh lịch đấy; chẳng thế mà khi "em" bỏ đi miền Nam, nói với cô bé Quẩy giúp việc là nếu không về, mọi thứ cho Quẩy dùng hết, thì Quẩy trả lời là "chỉ xin bộ màu ghi xám của cô thôi" (tr.128). Đó là một cô gái tính cách mạnh mẽ, thể hiện ở chỗ "thích các gam màu mạnh, chói, nhưng tính tình kín đáo. Chống đối bằng thái độ khinh bỉ" (tr.9)... Có ông anh họ ở quê lên chữa bệnh, cô gái ấy xưng "em" khi trò chuyện, nhưng trong thâm tâm chỉ nhìn thấy vẻ quê mùa kệch cỡm của "Ô hay nhỉ", biệt danh cô gán cho ông anh chỉ vì anh ta thấy đồ đạc trong nhà cái gì cũng lạ và thốt lên "Ô hay nhỉ".