← Quay lại trang sách

PHẦN I I

Tôi có ý dẫn ra đây một số sự việc mà bất cứ một nhà thực vật học nào cũng biết. Tôi không thực hiện bất kỳ một phát minh nào, và sự đóng góp khiêm tốn của tôi chung quy lại là vài ba những quan sát, hơn nữa là những quan sát có tính sơ đẳng thôi. Đương nhiên, tôi không có ý định liệt kê tất cả các biểu hiện trí tuệ mà chúng ta tìm thấy ở thực vật. Những biểu hiện này nhiều vô kể và liên tục không ngừng, đặc biệt giữa những loài hoa mà ở chúng tích tụ sự khát khao của đời sống thực vật vươn tới ánh dương quang và trí tuệ.

Nếu có những loài cây và hoa vụng về và không may mắn, thì cũng không có một loài nào hoàn toàn bị mất đi sự khôn khéo và tài ứng biến. Tất cả đều ráng sức đạt cho được thiên chức của mình. Tất cả đều thực hiện cho được cái khát vọng kiêu hãnh chiếm lĩnh và khuất phục mặt đất, bằng cách phát triển đến vô cùng cái dạng thức tồn tại mà chúng là đai diện. Để đạt được mục đích này cay cối, do định luật sức hút chôn chân chúng vào đất, buộc phải chiến thắng muôn vàn gian khó, hơn cả những khó khăn ngăn cản sự sinh sôi nảy nở của các loài động vật. Bởi vậy phần lớn các loài thực vật đều dùng đến sự tinh khôn, những phương kế, nhờ vào cấu trúc viên đạn và bẫy dò mà xét về cơ khí học, đạn đạo học, hàng không học và những nghiên cứu về các loài côn trùng, thì chúng thường vượt trội hơn những sáng chế và hiểu biết của con người.

II

Việc vẽ lên bức tranh về những phương cách chung nhất của sự thụ phấn ở các loài thực vật sẽ là thừa: hoạt động của các nhị và noãn, sức hấp dẫn nhờ mùi hương, sự mời gọi nhờ giúp đỡ của những bông hoa hòa sắc rực rỡ, sự tạo ra mật hoa hoàn toàn vô ích với bông hoa chỉ với một mục đích duy nhất là lôi cuốn, níu kéo một “cô nàng giải phóng” lả lướt, một “nữ thông tín viên” tình yêu, một chàng ong, một cậu ruồi, một nàng bướm đêm hay ngày phải trao gửi cho bông hoa nụ hôn của người tình phương xa, vô hình, chôn chân ở một chỗ…

Trong thế giới thực vật, mà mới thoạt nhìn chúng ta có cảm tưởng như yên bình và hiền lành biết bao, tràn ngập một tinh thần tuân phục và tĩnh mịch, thực ra có sự quật khởi chống lại số phận bộc lộ rõ với độ căng thẳng ráo riết và sự kiên trì tột độ. Cơ quan nuôi dưỡng quan trọng nhất của cây - bộ rễ - trói chặt nó vào đất.

Nếu trong số các quy luật lớn đè nén chúng ta khó có thể chỉ ra được quy luật nào trong số chúng đè nặng lên đôi vai của chúng ta hơn cả, thì đối với các loài thực vật không còn nghi ngờ gì nữa: nặng nề nhất là quy luật bắt cây cỏ phải chịu số phận bất động từ khi nảy mầm sống cho đến lúc chết.

Và năng lượng của tư tưởng kiên định xuất hiện từ cảnh tăm tối của những chiếc rễ cây để cây thêm chắc khỏe và hoa mãn khai khoe sắc là một cảnh tượng tuyệt trần không gì sánh nổi. Toàn bộ nghị lực thể hiện trong một nỗi niềm khát khao thường trực, trong khát vọng vươn cao chiến thắng cái định mệnh trầm trệ thâm u, đánh lừa, phá bỏ, vượt lên cái quy luật u ám nặng nề, vượt thoát cảnh tù túng, phá vỡ môi trường chật hẹp, sáng chế hoặc nhử đến cho mình một đôi cánh, chạy trốn cảnh cầm tù xa hết mức có thể, chiến thắng cái không gian mà định mệnh đã đã giam hãm nó ở trong đó. Và việc cây cỏ đạt được điều này thật hết sức kỳ lạ, cứ như thể việc chúng ta thực hiện được việc sống bên ngoài thời gian mà chúng tạ bị định mệnh của mình trói buộc vào, hay thâm nhập được vào một vũ trụ thoát khỏi những quy luật nặng nề nhất của vật chất. Chúng ta còn thấy rằng hoa đã cho con người một tấm gương phi thường về tinh thần bất khuất, lòng dũng cảm, tính kiên trì bền bỉ và tài ứng phó. Nếu như trong cuộc đấu tranh với những nhu cầu chế ngự chúng ta, ví dụ như, trong cuộc đấu tranh với những nỗi khổ đau, với tuổi già hay với cái chết chúng ta sử dụng một nửa nguồn nghị lực, mà bất cứ một cây hoa nhỏ bé nào trong khu vườn nhà chúng ta đã phát huy, thì có thể cho rằng, số phận của chúng ta đã khác biệt rất nhiều với số phận hiện giờ.

III

Cái nhu cầu được chuyển động này, cơn đói không gian khoáng đạt này của phần lớn các loài cây cỏ bộc lộ đồng thời ở hoa và trái. Điều này dễ dàng giải thích được đối với trái cây, mà ở nó bất luận thế nào, chúng ta cũng phát hiện thấy ít tính kinh nghiệm giả tạo hơn và ảnh hưởng nhỏ nhất của sự tiên đoán. Trái với những gì được nhận thấy trong thế giới động vật, và do quy luật có tính định mệnh về sự bất động tuyệt đối, kẻ thù đầu tiên và độc hại nhất của hạt cây hóa ra lại là thân cây ruột thịt. Trước chúng ta là một thế giới lạ thường, nơi cha mẹ không có khả năng di chuyển biết rằng, mình phải chịu tình cảnh chết đói hay buộc phải bóp chết lứa hậu sinh của mình.

Bất kể một hạt giống nào rơi xuống gốc cây hay cỏ sẽ chết hoặc phải chịu cuộc sống lay lắt đáng thương. Vì thế mà có sự nỗ lực to lớn gạt bỏ khỏi bản thân mình cái gánh nặng và chiếm lĩnh lấy không gian. Vì thế mà có những trái đạn lạ thường để phát tán, reo rắc hạt giống, để có chuyến bay lượn trong không trung cho những hạt giống mà chúng ta thấy được ở khắp mọi nơi, trong khu rừng hay ngoài đồng cỏ. Nhân đây chúng ta thử điểm qua một vài trường hợp thú vị nhất trong số chúng: chiếc cánh quạt bay hay đôi cánh nhỏ ở cây phong, cái lá á bao ở cây gia, cái máy bay ở cây cúc gai, bồ công anh, những dây xoắn nổ bung của cỏ tai tượng, cái máy gieo hạt kỳ lạ của cây mướp đắng (Momordica), một loài cây thuôc họ nhà bí, những chiếc móc bám nhỏ xíu của loài cây hoa ưa khô, cùng với cả ngàn cơ chế bất ngờ và đáng kinh ngạc khác, vì thế, có thể nói, chẳng có một loại hạt giống nào lại không tự mình nghĩ ra một cách thức hoạt động nào đó để thoát khỏi sự tăm tối trong lòng mẹ để ra với ánh dương quang.

Người nào không nghiên cứu thực vật học, người đó sẽ khó mà tin được rằng, có biết bao nhiêu sự sáng tạo được loan truyền nhờ toàn bộ thế giới cỏ cây làm vui mắt chúng ta này. Bạn hãy thử nhìn, thí dụ như, cái nồi hạt giống nhỏ, năm cái nắp van xả của cây bóng nước, năm cái kim hỏa của thiên trúc quỳ v.v. Bạn đừng quên khi có dịp xem xét gần hơn cấu trúc của một quả cây anh túc bình thường mà ta có thể thấy ở bất cứ một cửa hàng thuốc nào. Cái quả mập tròn hiền lành ấy được cấu tạo với một sự tính toán xứng đáng với những lời khen cao nhất. Nó, như chúng ta đã biết, chứa trong mình hàng nghìn cái hạt đen nhỏ li ti. Vấn đề là làm thế nào để vãi những cái hạt ấy khéo léo hết mức có thể và xa hết mức có thể. Nếu như khoang chứa chúng chưa vỡ bung ra hay bị bục ra ở phía dưới, thì những hạt bột đen quí giá sẽ tạo nên một đốm đen ở gốc cây. Nhưng những hạt giống chỉ có thể rơi ra từ những kẽ hở ở phía trên của lớp vỏ.

Khi đã chín, lớp vỏ bọc này treo trên cái cuống nhỏ của mình và khi có một làn gió nhẹ nhất thoảng qua thôi, nó sẽ vung hạt giống ra một khoảng rộng, giống hệt động tác của một người gieo hạt giống.

Liệu có cần nói đến hay không về những hạt giống đã thấy trước được khả năng phát tán chúng nhờ vào các loài chim và để dụ chim đến, chúng ẩn mình ở tận cùng của lớp vỏ bọc ngon ngọt, như cây tầm gửi, đỗ tùng, thanh lương trà v.v. đã làm.

Trong cấu trúc như thế ẩn chứa bao nhiêu là trí tuệ, bao nhiêu là sự hiểu biết cái cứu cánh, đến độ ta sợ khăng khăng một mực về mọi sự việc này, vì sợ lặp lại những sai lầm ngây thơ của Bernarden de Saint Pierre. Tuy nhiên những bằng chứng này không thể giải thích theo một cách khác được. Lớp vỏ ngọt này cũng cần cho hạt giống như hoa cần mật để quyến rũ đàn ong. Chim ăn quả vì nó ngọt, và đồng thời nuốt những cái hạt mà diều mề của nó không tiêu hóa được. Chim bay đi và dần dần trả những hạt giống đã được giải phóng khỏi vỏ bao và đã săn sàng vươn ra những cái rễ thoát khỏi những mối nguy hiểm của nơi chốn thân thương.

IV

Song hãy quay lại những cơ chế đơn giản hơn. Ngắt một cọng cỏ bên đường, ngay bụi gần đầu tiên và ta sẽ lĩnh hội được một trí tuệ nhỏ bé độc lập, hoạt động không ngừng. Chẳng hạn ở đây ta có hai loại cỏ thân mềm tội nghiệp mà bạn có thể đã nhìn thấy hàng ngàn lần trên đường, ở khắp chốn, dưới những góc u buồn chỉ có một nhúm đât vương vãi. Chúng là hai giống Medicago - cỏ linh lăng dại (Lucerne hoặc Medick - cỏ linh lăng đen), hai thứ “cỏ dại ốm yếu” với cái ý nghĩa hèn kém nhất của ngôn từ. Một loài có hoa phớt đỏ, một loài có chùm hoa vàng cỡ hạt đậu. Nhìn chúng trườn bò và ẩn mình giữa những loài cỏ kiêu hãnh khác, hẳn có ngừời sẽ chẳng nghi ngờ gì mà cho rằng chúng đã phát kiến ra trục vít Archimedes từ lâu, trước cả nhà vật lý, nhà hình học lừng lẫy người Hy Lạp này; và cố gắng ứng dụng nó không phải vào việc bơm chuyển chất lỏng, mà vào nghệ thuật bay lượn. Chúng chứa hạt trong những ống xoăn nhẹ có ba hay bốn vòng, được thiết kế một cách đáng ngưỡng mộ để không bị rớt xuống, và do đó, nhờ sức gió chúng kéo dài được cuộc hành trình trong không khí. Loài linh lăng đen thậm chí còn tiến xa hơn loài linh lăng hoa đỏ bằng cách thêm vào cạnh rìa những dây xoắn một hàng hạt đúp, với mục đích hiển nhiên là để trên lối đi lại, nó sẽ bám vào quần áo khách bộ hành hoặc lông động vật bước qua. Rõ ràng là ngoài phương pháp anemophily (khuyếch tán, rắc phấn theo gió) nó còn hy vọng có thêm được ưu điểm nhờ phương pháp - ta cứ gọi là eriophily đi - khuyếch tán hạt giống nhờ dê, cừu, thỏ v.v..

Vậy nhưng cái nỗ lực lớn lao này lại dễ làm ta thương cảm, bởi nó phù phiếm và vô ích. Hai giống cỏ linh lăng hoa vàng và đỏ đã sai lầm. Những trục vít của chúng không dùng được vào việc gì: chúng chỉ có ích khi buông rơi từ một độ cao nhất định, từ một ngọn cây lớn hoặc cây thân lúa cao nào đó; nhưng bởi cấu tạo ở mức cỏ thì giỏi lắm chúng cũng chỉ xoắn được một phần tư vọng là đã chạm đất rồi.

Đó là một ví dụ rất lạ về những sai lầm, những bước dò tìm, những thử nghiệm, những thất bại nhỏ rất thường thấy trong tự nhiên, chỉ có ai chưa bao giờ nghiên cứu thiên nhiên mới khẳng định rằng, thiên nhiên không bao giờ sai lầm.

Hãy quan sát trên đường những loài cỏ linh lăng khác (không kể cỏ ba lá, một chi thuộc họ đậu, gần giống hệt với loài mà ta đang nói tới) đã không chấp nhận “dụng cụ bay lượn” này nhưng giữ lại những phương pháp nguyên thủy của vỏ hạt. Từ một trong số đó, linh lăng hoa vàng Mediacago aurantiaca, ta đã nhận biết rõ sự chuyển biến từ vỏ xoắn sang trục vít. Một loài khác, linh lăng khiên - Medicago scutellata, cuộn trục vít lại thành dạng cầu. Bởi thế nên dường như chúng ta đang dự vào một quang cảnh đầy kích thích của công việc phát minh, những thử nghiệm của một “gia tộc” (họ thực vật) chưa được định đoạt số phận và đang tìm con đường tốt nhất đảm bảo cho tương lai mình. Có lẽ nào, trong công cuộc kiếm tìm này, bị lừa mị trong đường xoáy trôn ốc, cỏ linh lăng vàng mọc thêm chấm và móc trên đó, tự nhủ một cách vô lý rằng một khi đã bám được vào lông con cừu thì con cừu sẽ phải khoác lấy trách nhiệm chăm lo cho nòi giống của nó? Và cuối cùng, chẳng phải nhờ công lao mới này cộng với cái ý nghĩ vui vẻ rằng chính loài linh lăng hoa vàng mới có cống hiến nhiều hơn, so với kẻ họ hàng khỏe mạnh có hoa màu đỏ của nó?

V

Hạ mình một lát xuống công việc khiêm nhường của hoa cỏ ta sẽ nhận ra rất nhiều dấu hiệu của một trí tuệ linh lợi, khôn ngoan, không phải chỉ ở nơi hạt hay đóa hoa mà là ở toàn thể từ lá, cuống đến gốc rễ. Hãy suy ngẫm về cuộc đấu tranh vươn tới ánh sáng của những nhành mọc ngang hay cuộc vật lộn quả cảm và mưu trí của cây cối trong hiểm nguy. Như bản thân tôi, tôi sẽ không bao giờ quên được tấm gương anh hùng đáng kính của một cây nguyệt quế trăm tuổi to lớn tôi bắt gặp vào một ngày nọ ở Provence, nơi những hẻm núi hoang dã, mê đắm vùng sông Loup ngát hương hoa violet. Nhìn thân cây xù xì quằn quại, ta có thể dễ dàng mường tượng ra hết thảy tấn kịch cuộc đời gian khó, ngoan cường của nó. Số phận, trong lốt một con chim hay một cơn gió nào đấy, đã mang hạt giống tới bên sườn vách đá dựng đứng như một bức tường thép; và từ đó cái cây mọc lên, cách dòng nước xiết bên dưới chừng 180m, khó gần và cô độc, giữa những tảng đá cằn cỗi, bỏng rát. Thoạt tiên, nó phải vươn dài những cái rễ mù lòa, trong cuộc kiếm tìm mòn mỏi, đau đớn, để mà được chăng hay chớ, chút nước chút đất. Nhưng đó chỉ là bản năng di truyền của một loài đã biết đến sự khô cằn của phương Nam. Cái thân cây non trẻ phải giải quyết một vấn đề ngoài ý muốn nghiêm trọng hơn nhiều: nó bắt cội từ một mặt phẳng dựng đứng nên ngọn của nó, thay vì mọc hướng lên trời, lại uốn cong hướng xuống vực. Để khắc phục khuyết điểm này, bất chấp sức nặng ngày càng tăng của cành lạ, bắt buộc nó phải kiên cường uốn lại cái thân cây vặn vẹo thành hình khuỷu tay gần vách đá, như một người bơi đang vung tay ra sau đầu, và như vậy, bằng một ý chí không ngừng nghỉ, căng ra giữ được những chiếc lá nguyệt quế chĩa thẳng lên trời.

Từ đó, mọi mối bận tâm, tất cả năng lượng, mọi tài năng tự do và khôn ngoan của cái cây đều tập trung quanh vấn đề sống còn đó. Cái khuỷu tay phình to và kỳ quái hé lộ lần lượt những ham muốn kế tiếp của một thứ tư duy đã biết làm thế nào để lợi dụng được những cảnh báo từ mưa, bão. Năm này qua năm khác đến, vòm lá trở nên nặng nề hơn, chẳng để ý đến gì khác ngoài việc vươn mình ra đón ánh sáng và hơi ấm. Trong khi đó ẩn sau bên trong là một vết mục rữa đang ăn dần ăn mòn”cánh tay” đáng thương nâng đỡ vòm lá ấy. Tiếp đến, như tôi biết thì không phải do bản năng, hai nhánh rễ chắc khỏe neo vào vách đá - như hai sợi cáp, mọc ra từ thân cây - ở trên cái “khuỷu” khoảng chừng hơn nửa mét. Phải chăng chúng thực sự vươn lên từ mối lo âu của cái cây hay có lẽ ngay từ đầu chúng đã chờ sẵn đến đúng thời khắc hiểm nguy để mà gánh lấy trách nhiệm phò tá? Hay đó chỉ là sự tình cờ đáng mừng mà thôi? Con mắt phàm tục của loài người chỉ có thể thấy được những gì trong những vở kịch câm này, những vở kịch hẳn là quá dài đối với đời người ngắn ngủi của chúng ta?1

VI

Giữa các loài cây cỏ phô bày được những bằng chứng ấn tượng về trí tuệ, óc sáng tạo thì các loài thực vật được miêu tả là “có chuyển động” hoặc “có khả năng tri giác” đáng được nghiên cứu một cách chi tiết. Tôi sẽ không làm gì hơn là nhắc lại những e thẹn thú vị của loại cây nhạy cảm - cây trinh nữ vốn rất quen thuộc với chúng ta. Có những loại thảo mộc lạ được trời phú cho khả năng di chuyển linh hoạt, nổi bật là tông Hedysareae thuộc phân họ đậu, trong đó cây đậu lá quay (Hedysarum gyrans, vũ thảo, thóc lép động) hoạt động một cách kinh ngạc, không ngừng nghỉ. Loại cây nhỏ họ đậu này phát tích từ Bengal, nhưng thường được trồng trong các nhà kính của chúng ta, phô diễn một vũ điệu liên tục và rắc rối để tỏ lòng tôn kính ánh sáng. Đậu lá quay có lá chia làm ba lá chét, một lá rộng gắn ở cuối cuống, hai lá còn lại hẹp và mọc từ lá kia. Mỗi lá chét này đều có chuyển động riêng khác nhau. Chúng ở trong một trạng thái rung động không ngừng, hòa hợp và gần như theo nhịp điệu với nhau. Chúng quá nhạy cảm với ánh sáng đến mức vũ điệu của chúng cụp xòe theo những đám mây lúc che phủ hay lúc mở ra ánh sáng từ bầu trời phía trên. Như ta thấy, chúng chính là những chiếc quang kế đích thực, và xuất hiện từ lâu trước khi Crook tìm ra ống soi tự nhiên.

VII

Ta nên thêm vào đây chi gọng vó, trong đó có cây bắt ruồi Venus và nhiều cây khác - những thảo mộc có hệ thần kinh - đã ở mức sẵn sàng vượt qua đáng kể cái ranh giới kỳ bí và có lẽ là hư ảo giữa động vật và thực vật. Không cần phải tìm kiếm quá cao xa ta cũng có thể quan sát được nhiều sự thông tuệ cũng như hoạt động tự phát ở nơi tận cùng thế giới, như ta vẫn coi là thế, những nơi trũng thấp mà hoa cỏ lẩn khuất với đất đá. Ta có một lớp cây ẩn hoa thần kỳ chỉ có thể nghiên cứu được dưới kính hiển vi, bởi thế mà ta sẽ lặng lẽ bỏ qua nó, dù rằng hoạt động bào tử của các loài nấm, dương xì và cỏ tháp bút (cây mộc tặc, tiết cốt thảo) đều không thể sánh với sự tinh xảo, nhỏ bé của nó. Nhưng giữa các loài thủy sinh, những cư dân vùng bùn lầy, ta ít thấy lộ ra những điều kỳ diệu ít bí ẩn hơn. Vì sự thụ tinh cho hoa không thể thực hiện được dưới nước nên mỗi loài trong số chúng phải nghĩ ra một hệ thống phát tán phấn hoa sao cho được khô ráo. Vì thế, họ rong lá lớn, tức loại rong biển dạt bờ phổ biến mà ta vẫn dùng để nhồi hay lèn giường, phải khép hoa của chúng thật kín trong một chiếc “thùng lặn” cân đối; còn các giống hoa súng thì trồi lên nở hoa trên mặt ao hồ, hoa được nuôi dưỡng và đỡ bằng một cuống dài, bằng với mực nước khi lên cao nhất (thì hoa vẫn ở trên mặt nước). Cây rau hạnh (Villersia nymphoides) không có cuống dài, chỉ đơn giản là thả hoa ra, để chúng tự trồi lên mặt nước và vỡ ra như bong bóng. Củ ấu (Trapa natans) thì tích trữ trong một khối phình ra giữa cuống lá. Khi sự thụ tinh hoàn tất, không khí trong khối phình đó được thay thế bằng một thứ dịch nhầy, nặng hơn nước làm tất cả “bộ máy” chìm xuống nước, nơi quả ấu sẽ chín.

Hệ thống của cây rong ly hoa vàng (Utricularia) thậm chí còn phức tạp hơn nữa. M. Henri Bocquillon mô tả trong cuốn Vie des Plantes (Đời sống cây cỏ) của ông:

«Loại thực vật này mọc nhiều nơi ao hồ, mương rãnh và các vũng lầy, mùa đông thì không thấy được vì chúng nằm dưới bùn. Cuống thon dài có lá teo nhỏ để đầm nhánh sợi. Ở nách lá được chuyển hóa, ta thấy một nang nhỏ hình quả lê có một lỗ mở ở cuối đầu nhọn hướng lên trên. Lỗ mở này có van chỉ có thể mở được ra từ ngoài vào trong; từ các cạnh đâm ra những sợi lông; bên trong nang được phủ lông hỗ trợ bài tiết mượt như nhung. Đến thời khắc nở hoa, các nang ở nách lá bơm đầy không khí, không khí càng thoát ra nhiều, cái van càng được đóng chặt lại. Kết quả là cây rong có được một sức nổi đặc dụng mạnh mẽ đưa nó lên mặt nước. Chỉ tới lúc đó, những đóa hoa nhỏ quyến rũ màu vàng mới bừng nở, môi hoa căng mọng, cong lên với những đường khía vàng đồng sậm. Suốt các tháng Sáu, Bảy, Tám chúng phô bày màu sắc tươi tắn trên mặt nước bùn, giữa vũng lầy hôi tanh. Việc sinh sản đã xong, quả mọc, mọi thứ lại chuyển sang việc khác: nước ở chung quanh nén vào van túi tiêu hóa ở nách lá, tràn vào trong và nhấn chìm cây rong trở lại xuống dưới bùn.»

Chẳng phải thú vị sao khi thấy những phát minh hiện đại và hữu ích nhất của con người: vai trò của những cái van hay phích cắm, áp lực chất lỏng và không khí, việc ứng dụng nguyên lý Archimedes được gom cả lại trong cái bộ máy nhỏ bé nguyên thủy này? Như tác giả chúng ta vừa trích dẫn quan sát, viết: «Người kỹ sư đầu tiên lắp phao nổi vào con tàu đắm khó lòng biết rằng cái cơ chế tương tự đã được sử dụng từ hàng nghìn năm trước.» Trong một thế giới mà ta cho là vô thức và thiếu vắng sự hiện diện của trí tuệ, ta bắt đầu mường tượng ra rằng trí khôn của mình hầu như là cô độc. Khi tới gần nhìn ngắm vạn vật, ta thấy dường như mình không có khả năng tạo tác ra được bất cứ thứ gì như thế. Chúng ta chỉ là những kẻ xuất hiện muộn mằn trên trái đất này, như những đứa trẻ ngơ ngác, chúng ta chỉ đơn giản phát hiện được vạn vật đã luôn luôn tồn tại như vốn dĩ phải thế, và ta lại bước trên con đường mòn mà sự sống đã trải qua từ trước. Nhưng ta sẽ quay lại vấn đề này sau.

VIII

Về thực vật thủy sinh, không thể không nói qua một chút về đời sống của loài lãng mạn bậc nhất trong số đó: loài cỏ huyền thoại Vallisneria (cỏ đắng, cỏ cọp hay hẹ nước), nằm trong một chi thuộc họ thủy thảo (hydrocharad/hydrocharis). Sự phối ngẫu của hẹ nước là hồi kịch bi thảm nhất trong «lịch sử yêu đương» của các loài hoa. Cỏ đắng là loài không mấy nổi bật, không được thừa hưởng chút thanh nhã nào của họ hoa súng mà cũng không được xanh tươi như các loài thực vật ngập nước. Nhưng bù lại dường như thiên nhiên ban cho nó một tư duy đẹp đẽ. Suốt cuộc đời mình cỏ đắng nằm nửa mơ nửa tỉnh dưới đáy nước, đến tận lúc «làm đám cưới», khi nó khao khát một cuộc sống mới. Cây cái từ từ duỗi dài dây cuống xoắn, trồi lên và nở hoa trên mặt ao hồ. Từ một cuống bên cạnh đó, đến lượt những bông hoa đực, trông thấy nó từ dưới mặt nước chan hòa ánh mặt trời, bèn vươn lên hướng tới những bông hoa cái đang đong đưa, mong chờ chúng, mời gọi chúng tới một thế giới tươi đẹp hơn. Nhưng mới đi được nửa đường, đám hoa đực cảm thấy dường như bị kìm lại: cuống hoa - nguồn sống của chúng, ngắn quá; chúng sẽ không bao giờ vươn tới nơi ánh sáng ngự trị, mà chỉ ở đó, nhị của hoa đực và nhụy của hoa cái mới gặp được nhau!…

Còn thử thách, còn vô tình nào trong tự nhiên cay nghiệt hơn thế? Hãy xem tấn bi kịch của sự mong chờ đó, gần ngay trước mắt mà xa cách nghìn trùng, một định mệnh quá rõ ràng! Cũng như bi kịch của chúng ta trên trái đất này, nếu không có yếu tố bất ngờ can dự vào, thì sẽ không có cách nào giải thoát khỏi bi kịch ấy. Những cây hoa đực có thấy trước được ảo mộng tan vỡ mà chính chúng sẽ phải hứng chịu không? Có điều chắc chắn là chúng đã khóa chặt trong tim một bong bóng khí, cũng như ta ôm ghì lấy trong tâm hồn mình một ý nghĩ giải thoát liều lĩnh. Dường như chúng đã có khoảnh khắc ngập ngừng và rồi bằng một nỗ lực phi thường, mạnh mẽ nhất, siêu việt nhất giữa mọi sự diệu kỳ nơi côn trùng hoa thảo mà tôi biết, để vươn tới hạnh phúc - chúng quyết bứt khỏi mối dây nối với sự sống. Chúng tự bứt mình khỏi cuống và bằng một chuyến bay độc đáo, giữa những bong bóng của niềm sung sướng, các cánh hoa bắn lên khỏi mặt nước. Thương tổn đến chết, nhưng tự do và hăm hở, chúng trôi dạt một lúc bên cạnh các «cô dâu» hững hờ và được ghép đôi. Để rồi ngay sau đó chúng trôi dạt đi vào cõi lụi tàn, trong khi «cô vợ» giờ đã là «mẹ» bèn khép lại tràng hoa, bên trong chứa hơi thở cuối cùng của chúng, cuộn lại dây xoắn xuống đáy sâu nơi kết thành quả chín của nụ hôn quả cảm.

Chúng ta có nên chăng làm u ám cái cảnh tượng đẹp đẽ, chính xác nghiêm nhặt, nhưng chỉ được nhìn ngắm từ nơi tươi sáng, bằng cách quan sát từ phía tôi tăm? Tại sao không? Đôi khi những sự thật trong bóng tối cũng thú vị như ngoài ánh sáng. Tấn bi kịch diễm lệ này chỉ hoàn hảo khi ta đánh giá đúng trí tuệ và cảm hứng của muôn loài. Song khi quan sát từng cá thể của loại thực vật có tư duy này, ta lại thường coi chúng hành động một cách kỳ cục và sai lầm. Có lúc hoa đực trồi lên mặt nước trong khi chung quanh chẳng có bông hoa cái nào. Hoặc giả có khi nước rút khiến chúng dễ dàng tìm bạn thì chúng lại bứt cuống một cách máy móc và vô ích. Ở đây ta lại một lần nữa công nhận rằng mọi trí thông minh đều thuộc về cả giống loài, trong đời sống hay trong tự nhiên, chứ mỗi cá thể thì gần như luôn luôn ngu ngốc. Chỉ ở loài người mới tồn tại một sự ganh đua thực sự giữa một giống loài và một cá thể, mong muốn mãnh liệt và chủ động hướng tới một dạng cân bằng - cái thứ bí mật lớn nhất của tương lai chúng ta.