← Quay lại trang sách

PHẦN II IX

Các thực vật ký sinh phô bày những cảnh tượng giảo quyệt, dị thường, như trường hợp chi Cuscuta kỳ lạ, còn có tên gọi phổ biến là dây tơ hồng. Tơ hồng không có lá, và ngay khi cuống dài được vài inch nó bèn tự bứt khỏi rễ để xoắn bện vào «con mồi» đã chọn, và cắm ngay rễ mút của nó lên. Từ đó, nó sống độc trọi trên thân xác nạn nhân. Tâm cơ không chấp nhận thất vọng; nó sẽ từ chối mọi sự giúp đỡ nếu không vừa lòng và sẽ đi xa hơn nếu cần, để tìm thân cây gai dầu, cây bia, cây cỏ linh lăng hay cây lanh, hợp với thể trạng, khí chất và khẩu vị của nó.

Dây tơ hồng tự nhiên khiến ta quan tâm tới các loài dây leo, những loài có tập tính rất đáng chú ý và đáng được chỉ mặt đặt tên. Những ai từng sống ở nông thôn hẳn thường có dịp ngỡ ngàng trước bản năng, một dạng năng lực thị giác, dẫn đường cho tua của cây trường xuân Virginia (trường xuân năm ngón, ngũ diệp địa cẩm) hoặc cây bìm bìm đến bám vào cán cào, cán mai dựng bên tường. Bỏ cái cào ra, ngày hôm sau, dây tua ấy sẽ quay đi và thế nào cũng lại tìm ra nó. Schopenhauer, trong tiểu luận Về ý chí trong tự nhiên (Ueber den Willen in der Natur) của mình, chương mô tả sinh lý thực vật đã tóm lược điểm này từ các quan sát và thực nghiệm trên cây chủ, vốn sẽ mất rất nhiều thời gian nếu kể hết ra đây. Bởi vậy tôi khuyên độc giả hãy đọc chương này, để có thể tìm được nhiều nguồn tham khảo. Nên chăng tôi cần bổ sung rằng khoảng sáu bảy chục năm nay, những nguồn này đã nhiều hơn gấp bội và bên cạnh đó, đối tượng nghiên cứu thì lại hầu như là vô tận.

Giữa những phát minh, tạo tác và phương thức khác nhau, cần nhắc tới tầm nhìn của loài Hyoseris radiata, hay rau diếp xoăn, loài thực vật có hoa vàng nhỏ, không giống hoa bồ công anh và thường thấy trên tường nhà vùng Riviera. Để đảm bảo cả hai việc phát tán và duy trì nòi giống, diếp xoăn cùng lúc mang hai loại hạt: loại thứ nhất dễ tách rời, có cánh để có thể buông theo gió; loại kia không có cánh bị giữ lại trong hoa tự (cụm hoa) và chỉ được «thả tự do» khi loại hạt thứ nhất đã bị tách ra.

Trường hợp cây ké đầu ngựa gai (Xanthium spinosum) cho ta thấy hệ thống phát tán vững chắc có thể được thai nghén kỹ lưỡng và hiệu quả đến mức nào. Ké đầu ngựa loại này là loại thân thảo gớm guốc, có gai thô cứng. Mới đây thôi nó còn không được biết đến ở Tây Âu và cố nhiên là chẳng ai dám mơ tới việc nhân giống loại cỏ này. Ké đầu ngựa gai phát tán bằng cách móc bám các nang quả vào lông động vật. Xuất phát từ Nga, nó đến với chúng ta trên những kiện len nhập khẩu từ những thảo nguyên xa xôi; và ta có thể lần theo bản đồ từng bước của cuộc di cư vĩ đại mở ra cả một thế giới mới này.

Cây bắt ruồi Italy (Silene Italien) - một loài hoa trắng nhỏ đơn giản dị mọc nhiều dưới cây olive lại để tư duy hoạt động theo một chiều hướng khác. Vẻ ngoài rất nhút nhát, yếu đuối, cuống hoa bắt ruồi Italy có tuyến lông để tránh lũ côn trùng thô lỗ phiền toái. Từ tuyến lông đó tiết ra một dịch nhầy có thể tóm gọn những vật ký sinh, hiệu quả đến mức nông dân miền Nam sử dụng loại cây này để bắt ruồi trong nhà. Hơn nữa, các giống cây bắt ruồi cụ thể còn giản lược hệ thống một cách đầy sáng tạo. Đặc biệt khi dọa lũ kiến không cho chúng đi qua, cây bắt ruồi phát hiện ra rằng chỉ cần đặt một vòng nhầy rộng dưới mấu cuống hoa, là đủ. Đây cũng chính xác giống hệt như cách mà người thợ làm vườn thực hiện khi họ vẽ một vòng hắc ín hay nhựa đường quanh thân cây táo để không cho sâu bướm trèo lên.

Điều này dẫn tới nghiên cứu những phương thức phòng vệ mà các loài thực vật sử dụng. Trong tác phẩm nổi tiếng Les Plantesoriginales (Những loài cây độc đáo) mà tôi khuyên độc giả tham khảo để có thêm đầy đủ chi tiết, M. Henri Coupin kiểm nghiệm một số vũ khí kỳ cục và đầy kinh ngạc đó. Trước hết cần xem những cái gai, về việc này M. Lothelier - sinh viên trường Sorbonne đã tiến hành một số thí nghiệm thú vị đưa đến kết luận rằng môi trường tối ẩm có xu hướng kìm hãm các bộ phận phủ gai của cây. Mặt khác, khi vị trí sinh trưởng khô ráo và được ánh nắng chiếu rọi, cây sẽ mọc ra nhiều gai nhọn cứng. Có lẽ nó cảm thấy mình gần như là kẻ sống sót đơn độc giữa đám đá sỏi hay cát nóng, phải vươn lên nỗ lực nhân đôi khả năng tự vệ hòng chống lại kẻ thù vốn không hề do dự coi nó là con mồi. Một hiện tượng đáng chú ý hơn nữa là khi được trồng bởi con người, hầu hết các loài thực vật có gai sẽ dần dần «giã từ vũ khí», phó mặc sự an toàn cho đấng bảo hộ siêu nhiên - người đã chọn chúng làm vườn rào2.

Tuy nhiên cũng đúng khi cho rằng thứ nhựa trắng ở cây xà lách hiếm khi thiếu ở nơi, trừ ở những cây non, mà ngược lại còn tràn trề khi cây xà lách lớn thành «bắp» và khi ra hạt. Đặc biệt là lúc đầu đời, khi lần đầu tiên đâm chồi nảy nụ, khi cái cây cần phải tự bảo vệ mình. Hẳn sẽ có người quả quyết rằng cây xà lách nhà thật xuẩn ngốc, nhưng nói thế, tức là kẻ đó không biết chính xác thì trí khôn của nó nằm ở đâu.

Những giống cây nào đó thuộc họ Boragineae (họ mồ hôi/họ vòi voi) thay gai bằng lông rất cứng. Số khác, như cây tầm ma lại thêm chất độc. Số khác nữa, như bạc hà, cửu lý hương thì tự bao phủ bằng mùi hương đậm đặc để ngăn các loài động vật. Nhưng kỳ lạ nhất là những loài tự vệ một cách máy móc. Tôi sẽ chỉ nhắc tới cỏ tháp bút (mộc tặc, tiết đầu thảo), loại cỏ tự choàng lên mình tấm áo giáp đích thực bằng tinh thể silicate nhỏ xíu. Ngoài ra, hầu hết thực vật họ lúa, để làm nhụt chí các loài sên, ốc háu ăn, đều có thêm tinh dầu vào vỏ áo.

X

Trước khi bắt đầu nghiên cứu các hình thái phức tạp của cơ chế thể hiện tính thiết yếu của sự thụ tinh chéo, giữa hàng ngàn «lễ cưới» xảy ra khắp nơi trong vườn, ta hãy nhắc lại những trí khôn tinh xảo của một vài loài hoa đơn giản, có tràng hoa cũng chính là nơi cả «cô dâu» lẫn «chú rể» được sinh ra, yêu nhau và chết đi. Ta biết rõ cơ chế tiêu biểu là: nhụy - cơ quan sinh dục cái, thường đông đảo nhưng ẻo lả, được tập hợp quanh cái nhụy cường tráng và bền bỉ. Nhưng bố trí, hình thức và tập tính của các bộ phận này ở mỗi loài hoa khác nhau thì khác nhau, như thể thiên nhiên có một ý nghĩ bất định hoặc một sự tưởng tượng cho rằng không cái nào trùng lặp cái nào mới là oách. Thường khi hạt phấn chín sẽ tự rơi từ đầu nhị xuống bề mặt nhụy; nhưng cũng không hiếm cảnh nhị và nhụy có chiều cao bằng nhau, hay nhị cách xa quá, hoặc nhụy cao gấp đôi nhị. Bởi thế mà chúng phải cố sống cố chết gặp nhau cho bằng được. Thảng hoặc, như ở cây tầm ma, nhị nằm rúm ró ở đáy tràng hoa: lúc thụ tinh, cuống hoa bật thẳng ra như lò xo và bao phấn trên đầu nhị bắn ra một đám mây bụi phấn trùm lên đầu nhụy. Có khi, như ở loài hoàng liên gai, việc kết đôi chỉ được hoàn tất vào những lúc trời sáng sủa, quang đãng, nhị hoa bị tách xa khỏi nhụy và được giữ bên cạnh hoa bằng sức nặng của miếng đệm ướt của chúng cho đến khi mặt trời mọc làm bay hơi chất lỏng và những cái nhị hoa lung lay phóng lên nhụy. Ở chỗ khác mọi thứ lại khác: cây anh thảo có hoa đực và cái xếp theo tuần tự dài ngắn xen kẽ nhau. Hoa ly, hoa tulip và các loài hoa khác, thì «cô dâu» lại cao lêu nghêu và có thể tự ý lấy phấn. Nhưng cơ chế độc nhất vô nhị và kỳ diệu nhất phải là của hoa vân hương (Ruta graveolens), một loại thảo dược có mùi khó chịu dùng làm thuốc điều kinh. Những nhị hoa hiền lành ngoan ngoãn xếp quanh cái nhụy béo lùn khao khát chờ đợi trong tràng hoa màu vàng. Đến giờ hôn phối, theo lệnh của «cô nàng» hoa cái, mà rõ ràng như một sự điểm danh, một trong các «anh chàng» hoa đực tiến đến chạm vào đầu nhụy. Rồi anh số ba, anh số năm, anh số bảy, anh số chín cho đến hết lượt «số lẻ». Kế đó là lượt số chẵn, các anh số hai, số bốn, số sáu v.v… Đây quả là tình yêu có trật tự! Loài hoa biết đếm này xuất hiện một cách quá đỗi phi thường đến mức thoạt đầu tôi phải nghi ngờ các nhà thực vật học; và tôi quyết định kiểm nghiệm cái giác quan số học của nó trước khi chấp nhận sự thực. Kết quả là dù đã tìm hiểu kỹ lưỡng nhưng (tôi thấy) nó hiếm khi đếm sai.

Sẽ là thừa thãi nếu kể mãi ra những thí dụ kiểu này. Đi dạo trong rừng, ra ngoài đồng nội, ai cũng sẽ quan sát được trăm nghìn thứ như thế, thứ nào cũng kỳ thú như được các nhà thực vật học mô tả. Nhưng trước khi khép lại chương này, tôi muốn nhắc tới một loài hoa nữa: không hẳn vì vẻ lộng lẫy dị thường mà bởi chuyển động yêu đương cuồng nhiệt, kiều diễm dễ nhận thấy của nó. Hoa kim cương (Nigella Damascena), còn được gọi bang nhiều tên dân dã đầy khiêu gợi như «tình yêu trong sương mù», «yêu tinh bụi rậm», «cô nàng tóc rối»; thơ ca dành không ít ngôn từ vui sướng, say mê hòng miêu tả loài hoa nhỏ bé này. Chúng được tìm thấy ở một vùng hoang dã phía nam, bên đường dưới gốc cây olive, và thường được trồng trong các khu vườn kiểu cổ ở miền bắc. Hoa nở màu xanh nhạt, giản dị như bông hoa nhỏ trong một bức họa chân phương, và «búi tóc Vệ Nữ» hay «mớ tóc xù» - thứ mang lại cho chúng cái tên «cô nàng tóc rối» phổ biến ở Pháp - là đám lá rối nhỏ, sáng màu bao quanh tràng hoa như một «bụi xanh tươi mù sương». Cuống hoa có năm thân nhụy rất dài mọc túm tụm lại với nhau ở giữa cái vương miện màu xanh lam, như năm bà hoàng khoác áo choàng xanh đầy vẻ kiêu kỳ quý phái. Chung quanh là đám đông những kẻ si tình tuyệt vọng - nhị hoa - mon men dưới gối. Đến những ngày hè khoái lạc, giữa chốn cung vàng điện ngọc, bắt đầu vở kịch, không lời mở đầu không màn kết thúc, vở kịch của sự mong chờ vô vọng, vô cảm. Nhưng nhiều giờ trôi qua, mà với đời hoa - là như nhiều năm trôi qua, vẻ rực rỡ héo tàn, cánh hoa rụng xuống và dường như cuối cùng vẻ đài các nơi các bà hoàng kiêu sa cũng phai mờ theo trĩu nặng của cuộc đời. Lúc đó, như thể tuân theo mệnh lệnh bí ẩn và không thể cưỡng lại được của tình yêu - vốn đã được minh chứng đủ lâu dài, và với một chuyển động đối xứng, hài hòa có thể ví như năm tia nước hình parabol cân đối, cả năm cuống nhụy - năm bà hoàng uốn cong mình, cúi xuống và thật yêu kiều - chạm vào đám bụi vàng của nụ hôn phối ngẫu trên bờ môi những tình nhân hèn kém bên dưới.

XI

Như ta thấy, ở đây nhan nhản những sự bất ngờ. Có thể viết ra cả một cuốn sách lớn về trí tuệ thực vật, như Romanes (George Romanes) từng viết về trí thông minh của động vật. Nhưng bản phác thảo này không kỳ vọng trở thành một cuốn sách ghi chép kiểu to tát như thế; và tôi chỉ mong gợi được sự chú ý đến một vài hiện tượng thú vị xảy ra ngay bên cạnh chúng ta trong thế giới này, nơi mà chúng ta vẫn phần nào hơi quá tự đắc và tự lợi. Những hiện tượng này không được chọn ra mà chỉ là được lấy làm ví dụ, như là kết quả của quan sát ngẫu nhiên và tỉ mỉ. Tuy nhiên, trong những ghi chép ngắn này, tôi định gắn mình với mọi thứ liên quan đến hoa cỏ, bởi từ trong đóa hoa hiển lộ ra những điều kỳ diệu tuyệt vời nhất. Để toàn tâm toàn ý với những loài hoa thuần thục, hoa đích thực - những loài vốn bị coi là bất động, thụ động, vô tri vô giác, tôi tạm thời đặt sang một bên những loài hoa ăn thịt như chi gọng vó, họ nắp ấm v.v.. là những loài tiến gần đến giới động vật và cần có một nghiên cứu mở rộng, đặc biệt khác.

Nhằm tách thực tế ra khỏi lý thuyết, ta hãy nói về loài hoa cho dù mọi điều nó có thể nhận thức đều đã được con người lĩnh hội và tiên đoán trước. Rồi sau ta sẽ thấy ta lấy đi được bao nhiêu và phải để lại bao nhiêu. Hiện tại cứ tách riêng từng giai đoạn, như một nàng công chúa mỹ lệ có của hồi môn là lý trí và ý chí. Không có sự khước từ nào xuất hiện mà có cả hai thứ; và để tước đoạt nó, ta có lẽ cũng đã chẳng cần viện đến những giả thiết tối tăm. Rồi đó, nằm vô cảm trên cuống hoa, được che chở trong vòm sặc sỡ là những bộ phận sinh sản của thực vật. Hiển nhiên nó buộc phải cho phép cuộc gặp gỡ kỳ bí của nhị và nhụy được diễn ra dưới mái nhà tình yêu. Và nhiều loài hoa đều phối ngẫu như thế…

XII

Giờ ta xem những diễn giải như vậy có soi tỏ được điều gì không. Ta hãy dạo bước ra vườn, hay ra cánh đồng để nghiên cứu kỹ hơn hai hoặc ba phát minh gây tò mò của trí tuệ hoa. Và sẵn đó, chẳng cần phải đi xa khỏi nhà, ta có ngay nơi bầy ong thường lai vãng một bụi hoa thơm ngát sở hữu một cơ chế thành thục bậc nhất. Không một ai, thậm chí ở giữa nơi ít thôn dã nhất, lại không biết đến cây xô thơm. Đó là một giống lan Labiata khiêm nhường mang những đóa hoa thùy mị, nhưng lại há ra dữ tợn như cái miệng đói khát, để hớp lấy những tia nắng trời chiếu qua. Bởi thế nó đại diện một số đông các loài, không phải tất cả - đây là chi tiết đáng ngạc nhiên - đều thích nghi hay chứa đựng cơ chế thụ tinh hoàn hảo mà chúng ta sắp khảo cứu dưới đây. Nhưng tôi chỉ dẫn ra đây giống xô thơm phổ biến nhất, mà ngay lúc này, như thể chào đón mùa Xuân đang phủ kín thành những thảm hoa tím dưới chân những luống cây olive nhà tôi. Tôi dám chắc với các bạn rằng đến cả ban công những tòa cung điện xây bằng đá cẩm thạch để đón mừng các vị quân vương cũng không bao giờ được trang hoàng lộng lẫy, vui tươi và ngát hương hơn thế. Dường như lúc giữa trưa, ta có thể ngửi được cả mùi hương của ánh mặt trời trong vẻ đẹp nóng bỏng của nó.

Đi vào chi tiết, nhụy - cơ quan sinh dục cái nằm ở môi hoa trên có câu tạo như một miếng nắp đậy, trong đó cũng chứa hai nhị - cơ quan sinh dục đực. Sống chung một nhà nhưng không để cho hai cái nhụy này thụ tinh, cuống nhụy bèn cao vượt lên gấp đôi khiến chúng hết hy vọng bén mảng đến. Ngoài ra, để tránh mọi sự nhỡ nhàng, bông hoa để nhị chín trước nhụy, thế là khi cô nhụy đến tuổi lấy chồng thì anh nhị đã toan về già, nếu không muốn nói là đã ngoẻo từ bao giờ. Bởi vậy cần có một tác động ngoại lai can thiệp vào để hoàn tất quá trình giao phối bằng cách mang phấn hoa bên ngoài cho nàng nhụy cô đơn. Nhiều loài hoa thụ phấn nhờ gió đều giao phó hết việc này cho cơn gió. Nhưng cây xô thơm lại là loài thụ phấn nhờ côn trùng, thế mới nói nó phải lòng lũ côn trùng và trông cậy cả vào sự hợp tác của chúng. Song nhờ biết được nhiều thứ mà nó vẫn ý thức được rằng, trên cõi đời này, tốt nhất là đừng trông chờ lòng thương hại, sự giúp đỡ ở kẻ khác. Vì vậy, nó chẳng thèm mất công điệu đà quyến rũ lũ ong. Còn con ong, cũng như mọi vật trên thế giới này phải tranh đoạt mà sống, mà cũng chỉ sống vì bản thân mình, vì giống nòi mình, chẳng hề có tí ti trách nhiệm phải phục vụ bọn hoa hoét nào. Thế thì làm thế nào mà con ong - thay vì phục vụ bản thân nó, hoặc ít nhất là một cách vô thức - lại bị bắt buộc phải thực hiện công việc trong cái «phòng đăng ký kết hôn» này? Hãy quan sát cái bẫy tình yêu mà bông hoa xô thơm đặt: Ngay dưới miếng đậy màu lụa tím, nó tiết ra vài giọt mật, đó là mồi. Nhưng ngay trên lối vào dẫn đến chỗ chất lỏng có đường ấy, là hai cuống song song, hơi giống hai trụ cầu nâng Hà Lan. Ngay trên đỉnh mỗi cuống là một bọc phấn lớn, còn ở dưới là hai túi nhỏ làm đối trọng. Khi con ong tiến vào trong bông hoa, để chạm tới chỗ có mật, nó phải dùng đầu đẩy hai cái túi nhỏ đó. Lập tức hai cái cuống - ở đầu trên của trục xoay - đổ ào phấn hoa lên mình con ong. Con ong vừa bay đi là cái cơ chế trục xoay lại trở lại vị trí ban đầu; mọi thứ sẵn sàng lặp lại cho cuộc tiếp đón sau.

Nhưng đây chỉ là nửa đầu của vở kịch: diễn biến tiếp theo diễn ra ở một bối cảnh khác. Trong một bông hoa cạnh đó, khi nhị hoa vừa tàn, nhụy hoa bèn bước ra sân khấu chờ phấn. Cô nàng từ từ vươn ra khỏi vòm che, cong mình cúi xuống, tách ra như cái dĩa chặn ngay ở lối vào. Rồi trên đường đến với mật hoa, đầu con ong chạm vào cái dĩa treo lơ lửng bên trên. Chiếc dĩa này sẽ chà sát lưng mình con ong, sao cho chạm đúng vào đầu nhụy. Cái nhụy hoa chẻ đôi đó tham lam thu lấy thứ bụi trắng; và thế là sự thụ tinh được hoàn tất. Để làm như vậy, ta có thể dễ dàng dùng một đầu tăm hay đầu diêm kích hoạt cả bộ máy và quan sát được tất thảy mọi chuyển động và những sự kết hợp thần kỳ của chúng.

Có rất nhiều loại cây xô thơm, có đến khoảng 500 loài, và tôi sẽ kể ra cho bạn phần lớn các danh xưng khoa học của chúng, những loài không phải lúc nào cũng đẹp đẽ: Salvia pratensis, officinalis (xô thơm vườn), Horminum, Horminoides, glutinosa, Sclarea, Romeri, azurea, Pitcheri, splendens (loại xô thơm đẹp dùng để cắm trong giỏ) v.v.. Hẳn là không chỉ có một loài trong số đó đã cải biến chi tiết như ta vừa mới kiểm nghiệm. Một số loài, tôi cho là thế, đã tăng gấp đôi hoặc gấp ba chiều dài nhụy, bởi vậy chúng không chỉ vươn ra khỏi vòm hoa mà còn tạo thành một đường cong ở trước lối vào hoa. Nhờ đó chúng tránh được nguy cơ bị thụ tinh từ phấn của nhị cùng hoa, mặt khác (có thể xảy ra), nếu đặc tính nhị chín trước không được chuẩn, thì khi con côn trùng rời khỏi bông hoa sẽ đặt phấn hoa của nhị cùng hoa lên nhụy. Các loài khác bằng chuyển động của cái đòn bẩy chia tách bao phấn nhằm va mạnh vào bên mình con vật với độ chính xác cao. Cuối cùng, những loài khác nữa thì không được thành công lắm trong việc sắp đặt và điều chỉnh mọi chi tiết của cả cơ chế. Tôi thấy dưới bụi cây trúc đào gần giếng, cách không xa cây xô thơm tím, một khóm hoa trắng xen lẫn tử đinh hương nhạt thì lại không hề có dấu tích gì của cái đòn bẩy. Cả nhị và nhụy mọc lộn xộn ở giữa tràng hoa. Có vẻ tất cả bị để tùy tiện và vô tổ chức.

Tôi không nghi ngờ gì cái điều rằng ai cũng có thể sưu tầm được rất nhiều loại hoa Labiata, để tái cấu trúc toàn bộ lịch sử, để dõi theo mọi giai đoạn của sự phát minh, từ sự lộn xộn của cây xô thơm trắng đơn sơ dưới mắt tôi đến những tiến bộ mới nhất của loài Salvia pratensis. Vậy ta có thể kết luận được gì? Cả hệ thống đó vẫn trong giai đoạn thử nghiệm sao? Chúng vẫn chưa thoát khỏi những kiểu mẫu, những «chuyến đi thử» như trong trường hợp trục xoay Archimedes của họ đậu? Sự tuyệt vời của cái đòn bẩy vẫn chưa được chấp nhận? Có lẽ nào muôn loài đều được định sẵn và không thể thay đổi? Hay chúng vẫn còn tranh luận và mò mẫm trong cái thế giới mà ta cho là hữu hạn này?3

XIII

Hoa của phần lớn các loài xô thơm trưng ra một giải pháp hấp dẫn cho vấn đề lớn của sự thụ tinh chéo. Nhưng, thậm chí như ở con người, mỗi phát kiến mới đều được sử dụng, được giản lược, được cải tiến bởi những kẻ tiên phong nhỏ bé, bởi thế trong cái thế giới cơ hữu của các loài hoa, sự sáng tạo của cây xô thơm được tạo tác và hoàn thiện nhiều chi tiết một cách kỳ lạ. Chi cỏ sắt, Scrophularinea (Pedicularis sylvatica) mà bạn chắc chắn phải chú ý dưới bóng râm của những cây gỗ và những cây thạch nam nhỏ, đã đưa ra một cải biến cực kỳ thông minh. Hình dạng của tràng hoa gần giống hoa xô thơm, nhụy và hai bao phấn đều được chứa trong vòm trên. Chỉ có đầu nhầy của nhụy vươn dài ra trong khi bao phấn bị bọc kín. Vì vậy trong cái «rạp» bóng láng này các bộ phận đực và cái ở rất gần nhau, thậm chí gần chạm vào nhau, nhưng nhờ «đạo luật» khá là khác thường nên sự tự thụ tinh hoàn toàn không thể xảy ra. Thực tế, các bao phấn tạo thành hai túi chứa đầy bột phấn, mỗi túi chỉ có một lỗ mở và chúng được đặt kề nhau sao cho hai lỗ mở đóng lại cùng một lúc. Chúng bị giữ trong mái vòm trên cuống cong đàn hồi dưới dạng những chiếc răng. Con ong hay con ong nghệ đậu vào bông hoa hút mật nhất thiết phải đẩy những chiếc răng đó sang một bên và ngay khi nó bay lên, hai túi phấn bị bắn lên lưng nó.

Nhưng tầm nhìn và trí khôn của bông hoa không chỉ có thế. Như Hermann Muller, người đầu tiên nghiên cứu trọn vẹn cơ chế diệu kỳ của loài chi cỏ sắt đã quan sát: «Nếu nhị hoa va chạm với con côn trùng mà vẫn giữ nguyên tư thế cũ, thì không hạt phấn nào được thoát ra, bởi hai lỗ mở sát nhau cũng khép kín nhau. Nhưng một sáng kiến đơn giản đã khắc phục được khó khăn. Môi dưới của tràng hoa, thay vì nằm ngang lại nằm chếch một cách dị thường, một bên cao hơn bên vai con ong nghệ nhất định sẽ phải đậu nghiêng trên đó. Kết quả là nhị hoa được thả ra thành công và lần lượt các lỗ mở cũng được tự do, va vào con côn trùng và phủ lên người nó phấn để thụ tinh. Khi con ong nghệ rời sang bông hoa khác, nó buộc phải thụ tinh cho bông hoa đó vì thoạt tiên, nó phải dùng đầu để chui vào tràng hoa và nhụy hoa đã chờ sẵn ở đúng chỗ y hệt như khi nó bị chạm phải ở bông hoa trước đó.»

XIV

Những thí dụ này có lẽ được nhân lên vô hạn; mỗi loài hoa đều có tư duy riêng, cơ chế riêng, kinh nghiệm cần thiết riêng đủ để tạo thành ưu điểm. Khi ta chứng thực kỹ những phát minh, phương cách nhỏ bé của chúng, ta nhớ đến những cuộc triển lãm dụng cụ cơ khí đầy mê hoặc, những thứ máy móc dùng để chế tạo ra máy móc, ở đó mọi khả năng cơ khí của con người đều được hé lộ nguồn gốc. Nhưng kỹ năng cơ khí của con người bắt đầu gần đây, trong khi hoa thảo đã có những cơ chế ấy từ hàng nghìn năm trước. Khi các loài hoa xuất hiện trên trái đất, chẳng có mẫu mực nào để chúng bắt chước, chúng phải kiến tạo mọi thứ từ bản thân chúng. Ở cái giai đoạn chúng ta còn loay hoay với gậy gộc, cung tên, đến những bánh răng, ròng rọc, dây neo, búa rồi mới đây, khi những kiệt tác của chúng ta chỉ là máy bắn đá, đồng hồ, khung cửi thì loài xô thơm đã chế ra những trụ cầu, đối trọng, đòn bẩy cực kỳ chính xác và cỏ sắt thì có túi đóng mở sử dụng cơ chế lò xo và kết cấu như cánh nghiêng dốc. Hàng trăm năm trước, có ai dám mơ đến những thứ trục vít mà cây phong và cây chanh từng dùng ngay từ thời xa xưa? Đến bao giờ ta mới chế tạo được những chiếc dù hay máy bay nhẹ, cứng, ổn định và an toàn như cánh bồ công anh? Đến khi nào ta mới hiểu được bí ẩn làm thế nào mà cây đậu chổi có thể cắt được những cánh mỏng, láng mượt như lụa để bắn mạnh phấn vàng ra không trung? Như ở cây mướp đắng mà tôi đã nhắc tên ở đầu cuốn sách nhỏ này, ai sẽ nói ta biết bí ẩn của sức mạnh diệu kỳ của nó? Bạn có biết cây mướp đắng không? Nó là cây thuộc họ bầu bí, khá phổ biến dọc theo bờ Địa Trung Hải. Quả gai gần bằng quả dưa chuột, treo xuống thấp với một năng lượng và sức sống không thể nào hiểu nổi. Bạn phải chạm vào khi qua đã chín, cuống sẽ teo lại và rụng xuống từ lỗ xoan bắn ra vô số hạt trong dòng chất nhầy một cách ky thú, đến khoảng bốn năm mét cách nơi cây sinh ra. Hành vi phi thường đó, nếu so sánh tương ứng ở con người, sẽ giống như một chuyển động co thắt phun sạch khỏi da và xương hết nội tạng, máu me xa tới gần một ki-lô-mét.

Bên cạnh đó một số lượng lớn hạt có phương thức phóng ra và sử dụng một nguồn năng lượng ít nhiều ta không biết tới. Hãy nhớ tới sự nổ tung nơi quả cây cải dầu và cây thạch nam. Nhưng bậc thầy về «pháo binh» thực vật phải là cây đại kích. Cây đại kích thuộc họ thầu dầu (Euphorbiacea) ở xứ ta, một giống cỏ dại cao, phù phiếm, thường cao quá đầu người. Tôi hiện tại đang có một nhánh đại kích cắm trong một cốc nước trên bàn đây. Nó có quả chẻ ba mọng xanh, chứa hạt. Dần dần những quả mọng này sẽ nổ thành tiếng lớn, và hạt, được phú cho mệt tốc lực phi thường, bắn ra mọi phía vào đồ đạc và lên tường. Nếu bị những hạt tí xíu như đầu ghim này bắn trúng mặt, bạn sẽ thấy đau buốt như bị côn trùng đốt. Thử thí nghiệm với quả mọng đó, xem những lò xo bắn chúng ra ngoài bạn sẽ tìm thấy bí mật của lực phóng, thứ vô hình chẳng khác gì trí não của chủng ta.

Cây đậu chổi thì chỉ có vỏ quả nhưng hoa lại được trang bị lò xo. Bạn có thể lưu ý loại thực vật tuyệt vời này. Nó là đại diện kiêu hãnh nhất của họ Đậu hùng mạnh. Tham sống, nghèo nàn, khiêm nhường, tráng kiện, không từ chối đất sỏi, gian nan, tạo thành những bụi tròn lớn khắp các con đường mòn, núi non phương nam, đôi khi cao đến ba mét, giữa tháng Năm và tháng Sáu thì rực rỡ hoa vàng tinh túy, tỏa hương lẫn với hương thơm của những cây kim ngân, lan tỏa khắp nơi dưới ánh mặt trời gay gắt những niềm vui sướng không thể tả, được gìn giữ bằng những giọt sương từ thiên đường, những con suối miền cực lạc, những dòng nước mát lành, trong vắt, lấp lánh như sao trời trong lòng những hang động xanh ngăn ngắt.

Hoa của cây đậu chổi này, cũng như mọi cây họ đậu khác, có hoa giống hoa đậu Hà Lan trong vườn của chúng ta, cánh hoa dưới của nó có dạng mỏ khay kín mít chứa nhị và nhụy. Khi chưa chín thì lũ ong sẽ không tài nào vào được bên trong. Nhưng vừa “đến tuổi cập kê”, cái mỏ sẽ uốn cong dưới sức nặng của con côn trùng đậu lên và căn “phòng hoa chúc” sẽ mở toang đầy khêu gợi, ban ra xa đây mạnh mẽ, qua cả vị khách - con côn trùng, qua cả những bông hoa xung quanh, một đám mây bụi rực rỡ, một cánh hoa rộng hình mái nhà quăng xuống đầu nhụy hoa để được thụ phấn.

XV

Xin giới thiệu một tác phẩm đáng để nghiên cứu về bí mật của các loài hoa, đặc biệt là hoa lan - Das entdeckte Geheimniss der Naturim Bau und in der Befruchtung der Blumen - Khám phá bí mật của hình thành và chăm sóc hoa của Tiến sỹ Hermann, Roberrt Brown. Ta có thể thấy được những biểu hiện hoàn hảo nhất, hài hòa nhất của trí tuệ thực vật đặc biệt ở loài hoa lan. Hệ thực vật hoang dã đó, có thể gọi những loài cỏ giản dị, gồm những loài phức tạp nhất nhưng lại ẩn chứa những câu chuyện tuyệt diệu và dũng cảm của linh hồn các loài hoa. Tuy vậy, khi đang bàn đến trí tuệ của các loài hoa, thì cũng cần thiết phải đưa ra những phương pháp nổi trội hơn tất thảy trong thuật quyến rũ bầy ong, bướm để quy phục chúng làm theo những gì chúng muốn.

Ở loại cây hoa này, tư duy thực vật chạm tới điểm cực hạn của chúng và bằng ngọn lửa phi thường. Ngoài ra, đừng để cái tên của các loài hoa lan dẫn lạc lối khiến ta tin rằng, đó là các loài hoa quý hiếm, những nữ hoàng trong nhà kính - những cô nàng dường như đòi hỏi sự chăm sóc đặc biệt của người thợ kim hoàn chứ không phải từ bác làm vườn lão luyện.

Hệ thực vật hoang dã - tính cả những loài “cỏ” giản dị - có đến hơn 25 loài lan, bao gồm cả những loài phức tạp nhất. Đó là các loài mà Charles Darwin đã nghiên cứu trong cuốn “On the Various Contrivances by which Orchids are fertilized by Insects” - (Về những xảo pháp côn trùng thụ tinh cho hoa lan).

XVI

Giải thích cái cơ chế phức tạp đến mức phi thương của hoa lan mà không có mấy cái biểu đồ thì khó làm. Nhưng tôi sẽ cố đưa ra một ý kiến đầy đủ với ít nhiều những cái so sánh, tránh hết sức có thể không động chạm đến những thuật ngữ “um iếc” kiểu: rostellum, retinaculum, labellum v.v…, những thứ vốn không gợi lên được hình ảnh gì hết đối với những người xa lạ môn thực vật học.

Thử lấy loài lan phổ biến nhất xứ ta, loài Orchismaculata (hoa lan tím nở sớm), làm thí dụ, hoặc giả, lấy loài Orchislatifolia - Lan đầm lầy (An lan) - thường được gọi là Rốc két đồng cỏ, bởi loài này to hơn một chút nên dễ quan sát hơn. Đây là loài cây lưu niên, có thể cao đến 30-60cm hoặc hơn. Chúng mọc khá phổ biến ở rừng rậm và đồng lầy, thân mang cụm hoa nhỏ màu hồng, nở vào tháng Năm và tháng Sáu. Các giống lan tiêu biểu của ta có hoa trông gần giống cái miệng đang há ra của con rồng Trung Hoa trong tưởng tượng. Môi dưới dài có miếng đậy lởm chởm răng nhọn, đóng vai trò “bãi đáp” cho côn trùng. Môi trên tròn lại như một miếng trùm đầu, che chắn các bộ phận cơ thể cần thiết; trong khi đó, mặt sau của hoa, phía dưới cuống lại đính một cái cựa hay là cái sừng dài, nhọn, chứa mật hoa. Ở hầu hết các loài hoa, đầu nhụy - cơ quan sinh dục cái, là một búi nhỏ nhầy dính, nằm ở cuối cái cuống mong manh ẻo lả, kiên nhẫn đợi chờ phấn hoa.

Ở hoa lan, sự thụ phấn truyền thống này lại trở thành khó nhận biết. Ở mặt sau miệng, nơi có cái “lưỡi gà” trong họng, là hai đầu nhụy gắn lại gần nhau, trên đó lại mọc lên đầu nhụy thứ ba, cải biến thành một bộ phận phi thường. Phía trên nó mang một túi nhỏ, hay như cái chậu thì chính xác hơn, gọi là rostellum. - cái mỏ hoa. Cái chậu này chứa đầy chất lỏng nhầy sệt, bao bọc lấy hai “trái” (“hòn”) nhỏ xíu mà từ đó lại trồi ra hai cuống ngắn, đầu chót mang bọc phấn được bọc một cách kỹ lưỡng.

Giờ ta hãy xem chuyện gì sẽ xảy ra khi một cô nàng côn trùng đậu vào đó. “Nàng” đậu xuống nơi môi dưới đã rộng mở đón chào, và nàng bị quyến rũ bởi mùi mật, nàng sẽ tìm tới cái “cựa” chứa đầy mật đó, nằm ở ngay phía sau. Nhưng vì lối vào rất chật hẹp, một cách đầy hữu ý, làm đầu cô nàng côn trùng nhất định phải đụng vào cái “chậu”. Đầu nhụy, vốn cực kỳ nhạy cảm ngay cả với cú đụng chạm nhẹ nhất, ngay lập tức tách ra một đường và nhân thể nhúng luôn hai cái “trái”(“hòn”) xíu xiu trần trụi kia xuống dịch nhầy. Hai trái này ngay tức khắc chạm vào đầu nàng côn trùng nọ, dính chặt lấy, để rồi khi nàng rời bông hoa sẽ mang chúng theo, và, với đó là cả hai cuống nhụy mang theo hai bọc phấn. Thế nên ta mới có lúc trông thấy những con côn trùng có đính trên đầu hai cái sừng thuôn dài. Rồi đó, con côn trùng - trong vai người thợ thủ công (artisan) bất đắc dĩ đảm trách cái công việc khó khăn này lại ghé thăm một bông hoa bên cạnh. Nếu cặp “sừng” của nó còn thẳng chúng sẽ chỉ đơn giản là lại chọc vào những cái bọc phấn khác ở một bông hoa khác, mà phấn hoa trộn với phấn hoa thì chả tạo nên cái gì cả. Nhưng ở đây, trí thông minh, kinh nghiệm và cả sự sáng suốt nơi bông hoa lan xuất hiện. Loài lan đã tính toán đến từng phút thời gian cần thiết để một con côn trùng đến hút mật và ghé sang bông hoa tiếp theo và trung bình, thì nó cần khoảng ba mươi giây. Chúng ta đã thấy hai bọc phấn được mang trên hai cuống nhụy ngắn được nhúng vào dịch nhầy. Thì vào thời điểm đó, dưới mỗi cuống hoa, một màng đĩa có chức năng, ở ngay giây thứ ba mươi, là uốn cong cái cuống lại tạo thành một góc 90 độ. Đây là kết quả của một sự tính toán khôn khéo, không phải về thời gian hay xác suất mà là về không gian.

Thế chưa phải là hết và trí tuệ của loài lan không chỉ hiển lộ có vậy. Đầu nhụy nhận được bọc phấn cũng được bao phủ một lớp dịch nhầy. Nếu lớp dịch này còn đủ kết dính như lúc được chứa trong mỏ hoa, sau khi cuống nhụy gãy, nó sẽ dính chặt lấy hết phấn hoa; và kết thúc sứ mệnh của chúng ở đây. Chắc chắn rằng mọi cơ hội của đám phấn hoa sẽ không bị phí hoài trong có mỗi một lần mạo hiểm, mà chúng phải được phát tán hết mức, ra càng rộng càng tốt. Đóa hoa đã đếm từng giây, đo từng li, nay lại biến thành một nhà hóa học, chưng cất và tiết ra hai loại keo: một loại cực dính, và sẽ cứng lại ngay khi gặp không khí, để gắn cặp “sừng phấn hoa” lên đầu côn trùng; và một loại keo khác rất dịu, dành cho công việc của đầu nhụy. Chất keo thứ hai này vừa đủ dính kết để vẫn có thể giải phóng những sợi mềm, loãng có các hạt phấn dính chắc trên đó. Một số hạt bám chết vào đó, nhưng cả đám thì không và khi con côn trùng ghé thăm những bông hoa khác, nó sẽ tiếp tục công việc thụ tinh một cách gần như là vô hạn định.

Tôi đã phơi bày toàn bộ phép màu ra rồi ư? Chưa, tôi vẫn phải tập trung vào nhiều chi tiết: trong đó, chuyển động của cái mỏ hoa nhỏ, sau khi lớp màng bị tách ra để lộ hai trái nhầy, ngay lập tức nâng miệng/vành dưới lên để giữ trạng thái tốt cho chất dịch dính và túi phấn mà con côn trùng có thể sẽ không mang đi. Ta cũng chú ý tới hai cái cuống đã phối hợp một cách hết sức thú vị để chia tách trên đầu con côn trùng, cũng như các biện pháp phòng hóa vốn phổ biến ở tất cả các loài thực vật, như trong các thí nghiệm M. Gaston Bonnier tiến hành khá gần đây, dường như để chứng minh rằng tất cả các loài hoa, để bảo vệ sự nguyên vẹn cho giống loài mình, tiết ra những độc chất nhằm tiêu diệt hoặc tiệt giống bất cứ phấn hoa ngoại lai nào. Đấy là tất cả những gì mà ta thấy được, nhưng ở đây, cũng như ở mọi loài khác, cái phép màu đích thực và vĩ đại chỉ bắt đầu khi khả năng quan sát của chúng ta kết thúc khi ta không còn nhìn thấy.

XVII

Trong một vườn ô liu không được chăm bón, tôi bỗng thấy một nhánh chồi non rực rỡ của loài Lan Dê Đực (Loroglossum hircinum), một thứ (cấp dưới loài) mà tôi không biết vì lý do gì (có lẽ là bởi giống hoa này rất hiếm gặp ở Anh) mà Darwin lại quên không nghiên cứu. Đây hiển nhiên là loài hoa lan đáng chú ý, kỳ diệu bậc nhất. Nếu nó có được kích thước như lan châu Mỹ, hẳn sẽ có người cho rằng trên cõi đời này không một loài hoa nào kỳ dị như thế. Hãy tưởng tượng ra một chùm hoa, như dạ lan hương (phong tín tử chúc hoa/hoa tiên ông) chẳng hạn, nhưng cao gấp đôi lên.

Hoa mọc đối xứng ba góc một cách kỳ cục, mang màu trắng xanh và chấm bi tím nhạt. Môi dưới được điểm trang phần gốc bằng những mào màu đồng, chòm râu lớn, và cả những hạch màu tím trông dữ tợn, kéo dài miên man, một cách điên rồ, vô thực, dưới dạng một dải ruy băng xoắn mang một cái màu chỉ có ở những xác chết đuối đã ngâm cả tháng trời dưới sông. Trên hết thảy, thứ hoa gợi lên ý niệm về những dịch bệnh đáng sợ nhất, và bừng nở ở một vùng đất huyền ảo nào đó đầy những giấc mơ kỳ quặc (mỉa mai) ma quái, bốc lên một mùi kinh tởm đầy uy lực như xác dê trúng độc, tỏa ra xa và báo trước sự xuất hiện của con quái vật. Tôi chỉ ra và miêu tả giống lan buồn nôn này vì chúng khá phổ biến ở Pháp, dễ nhận biết và có tính tự thích nghi tốt, bởi chiểu cao và sự đặc biệt ở các bộ phận cơ thể của chúng; để ai muốn thì có thể làm thí nghiệm. Thực ra, chỉ cần lấy đầu que diêm chọc vào bông hoa, đẩy từ từ đến đáy túi mật, để, bằng mắt thường, quan sát tất cả những tiến hóa thành công của quá trình thụ tinh. Nhìn lướt qua ta thấy được khoang túi (hay mỏ hoa - rostellum) chìm xuống, để lộ đĩa nhầy nhỏ (chi Loroglossum chỉ có một đĩa) đỡ lấy hai cuống phấn. Ngay khi đĩa này bám chặt được lấy phần gốc, hai bọc chứa “hòn phấn” sẽ mở ra theo chiều dọc; và, khi rút que diêm ra, đầu diêm bị gắn cứng hai chiếc “sừng” riêng rẽ, đầu chót đính hòn (phấn) màu vàng. Không may là chúng ta lại không ở đó, như trong thí nghiệm với loài lan đầm lầy (Ẩn Lan), để mà thưởng thức cảnh tượng quyến rũ khi hai chiếc sừng ấy đổ xuống một cách chậm rãi, chính xác. Tại sao chúng lại không rụng xuống? Ta phải “giới thiệu” đầu que diêm đã được đính sừng kia với một túi mật khác bên cạnh để đoán chắc rằng cái chuyển động kể trên sẽ là thừa thãi, khi mà hoa của loài này lớn hơn nhiều so với lan đồng lầy hay lan tím nở sớm và sừng mật được sắp đặt theo phương cách để khi côn trùng đậu xuống cùng với phấn hoa, chúng sẽ chỉ vừa chạm tới ngưỡng để đầu nhụy được thụ tinh.

Điều quan trọng cần chú ý là ta phải chọn hoa đã nở “chín ngấu” (nguyên văn: chín, ngấu) một chút mới mong có được thí nghiệm thành công. Ta không biết được khi nào thì hoa nở “chín”; nhưng côn trùng và tự thân cây hoa thì biết, bởi cây hoa sẽ chẳng mời mọc những khách khứa cần thiết đến dùng một giọt mật làm gì, mà phải đợi cho đến đúng thời khắc mọi bộ phận của nó đã sẵn sàng.

XVIII

Đây là cơ bản về hệ thống thụ tinh được hoa lan ở các xứ ta chọn lọc. Nhưng mỗi loài, mỗi họ lại cải biến và phát triển các chi tiết cho phù hợp với kinh nghiệm, tâm lý và tiện ích riêng mình. Loài Anacamptis pyramidalis (lan chóp nón) là ví dụ cho một trong những loài thông minh nhất, đã thêm vào cánh giữa (hay môi hoa dưới) hai chóp nhỏ làm nhiệm vụ dẫn lối cho vòi của bọn côn trùng đến túi mật và ép buộc chúng phải hoàn thành chính xác những gì cây hoa đòi hỏi nơi chúng. Darwin vừa mới so sánh cái phụ kiện tinh xảo này với công cụ xâu chỉ qua lỗ kim. Còn đây, một sự cải tiến thú vị khác: hai hòn nhỏ chứa cuống phấn hoa và nhúng vào mỏ hoa được thay thế bằng một đĩa nhầy, có dạng yên ngựa. Nếu theo đường dẫn cho vòi côn trùng, ta chọc một mũi kim hay một que nhọn vào bông hoa, ta sẽ hiểu ra một cách đơn giản những lợi thế của sự sắp đặt giản dị và thực dụng này. Khi que nhọn chạm đến mỏ hoa, nó sẽ tách ra một đường đối xứng và mở cái đĩa hình yên ngựa ra, và đĩa này ngay lập tức bám lấy cái que nhọn. Rút que nhọn ra thật khéo, bạn sẽ có thì giờ bắt được hành động của chiếc yên ngựa” nằm trên đầu que (hay đầu kim) đang uốn hai vành mép vào trong để ôm ghì lấy nó. Mục đích của chuyển động này là để tăng cường sức bám của chiếc yên và hơn hết, với mức độ chính xác hơn ở loài lan đồng lầy, để đảm bảo hai cuống phấn không thể không bị phân tách ra. Cái “yên” vừa mới cuốn quanh thân que và hai cuống phấn đã cắm lên đó và bị tách nhau ra bằng cách teo lại, chúng (hai cuống) bắt đầu chuyển động thứ hai: uốn cong về phía đầu que nhọn, như ta đã thấy ở bên trong bông hoa. Hai chuyển động này kết hợp với nhau trong khoảng 30 đến 34 giây.

XIX

Chẳng phải cũng hệt như thế, qua những thứ nhỏ nhặt, bằng cách xem xét và sửa chữa liên tục, mà các phát minh của con người được cải tiến? Ở công nghiệp cơ khí, chúng ta đã theo đuổi từng cải tiến nhỏ bé, nhưng bền bỉ ở từng bộ phận đánh lửa, chế hòa khí, khớp ly hợp, hộp số đó sao? Có vẻ những tư duy ấy của chúng ta cũng giống hệt như của những bông hoa. Chúng cũng mò mẫm trong bóng tối, đấu tranh với những trở ngại, những ác tâm và những thứ bất tri như chúng ta. Chúng có cùng những quy luật, cùng những giấc mộng tan vỡ, và cùng những vinh quang đầy gian khó, dài lâu mới đạt được như chúng ta. Chúng hẳn có cả tính kiên nhẫn, tính tự ái, trí thông tuệ đa dạng và cả những hy vọng lẫn suy tưởng như của chúng ta. Cũng như chúng ta, chúng cũng đấu tranh để bắt những thế lực đối kháng phải quay sang phục vụ mình. Trí tưởng tượng sáng tạo của chúng không chỉ bám theo những phương pháp tinh xảo, khôn ngoan, và cả những lối mòn khúc khuỷu, nhỏ hẹp, chán ngán như của con người; mà còn có cả những đột phá táo bạo, hoàn thiện ngay một điểm nghi ngờ nào đó. Bởi thế mà trong số các “nhà phát minh” phong lan, có một họ lan châu Mỹ, kỳ lạ và phong phú, thuộc phân tông Catasetidae (Catasetinae), nhờ có một cảm hứng táo bạo đã dám đột ngột cải biến một loạt tập tính, những thứ chắc chắn là đã quá cổ xưa đối với chúng. Trước hết, (ở họ này) giới tính được tách biệt hoàn toàn: mỗi cây có hoa đực cái riêng biệt.

Tiếp đó, khối phấn, hay túi phấn không còn ngâm cuống trong chậu chứa đầy chất nhầy dính và ì ra đây một cách thụ động, chờ đợi một cơ may để gắn lên đầu côn trùng. Mà nó uốn cong lại trên một chiếc lò xo mạnh mẽ, có dạng như ngăn chứa. Chẳng có gì hấp dẫn côn trùng vào cái ngăn chứa này cả. Cây lan Catasetidae kiêu hãnh cũng chẳng phải tính toán, như những giống lan thường khác, chính xác lúc nào thì “khách” sẽ đến, đưa đường dẫn lối ra làm sao; mà mặc kệ, thích đến lúc nào thì đến. Con côn trùng sẽ không phải là bước vào bông hoa có một cơ chế đáng khâm phục, mà là một bông hoa sống động và thực sự nhạy cảm. Một khi đã đặt chân lên bậc thềm của cung điện lộng lẫy này, nó sẽ không thể không chạm vào những xúc tu thần kinh dài, và gây ra “báo động khắp cả công trình”. Tức thì túi ngăn bị tách ra, bên trong đó khối phấn được chia làm hai bọc được giữ trên cái cuống nhỏ uốn cong về phía sau đặt trên một đĩa nhầy lớn. Được giải phóng đột ngột, chiếc cuống nhỏ này bật thẳng lên như lò xo, kéo theo hai bọc phấn và đĩa nhầy, và bắn chúng ra ngoài một cách dứt khoát. Theo kết quả của sự tính toán đạn đạo học hết sức kinh ngạc này, đĩa nhầy luôn bị bắn ra trước, trúng con côn trùng và bám dính lấy nó. Con này choáng váng nhủ thầm phải nhanh nhanh chuồn khỏi cái hoa hung hăng này mà sang cây khác ngay thôi. Còn cây lan châu Mỹ của chúng ta thì cũng chỉ muốn có thế.

XX

Nên chăng tôi cũng miêu tả ra đây những điểm được giản lược một cách thực dụng và đáng ngạc nhiên trong cả hệ thống chung, do một họ lan kỳ khôi khác tiến hành, họ Cypripedeae (họ lan hài). Ta phải nhớ rằng các phát minh của con người đều được cải tiến theo chu trình xoáy trôn ốc: con người luôn tò mò muốn đảo ngược lại mọi thứ. Một anh thợ lắp máy trong phòng máy, một sinh viên trong phòng thí nghiệm, vào lúc nào đó, đều có thể bật ra ý nghĩ liệu có nên làm điều ngược lại không? Có nên đảo ngược chuyển động, có nên nghịch chuyển dung dịch đó không? Sau đó, thí nghiệm được tiến hành, và thế là đột nhiên những thứ không ngờ tới được phát sinh. Người ta dễ dàng tin rằng hẳn những cây lan hài cũng có thể chuyện trò với nhau. Ta đều biết chi Cypripedium hay lan Vệ hài - loại hoa đặc biệt nhất trong các nhà kính của chúng ta, và dường như là loại lan tiêu biểu đối với chúng ta, có cái cằm to lớn hình chiếc hài và phả ra hơi độc. Lan vệ hài đã dũng cảm triệt bỏ tất những bộ phận tinh xảo, phức tạp nơi bọc phấn, cuống bọc phấn, đĩa nhầy, chết keo quyến rũ… Cái cằm hình chiếc hài và một nhị lép hình khiên chắn ngang lối vào nhằm bắt con côn trùng phải đưa vòi qua hai đống phấn nhỏ. Nhưng chỉ thế thì chưa nên chuyện: toàn bộ cái bất thường và bất ngờ nằm ở chỗ, trái ngược với những gì ta quan sát được ở các loài khác, thì ở đây, đầu nhụy - cơ quan sinh dục cái vốn nhầy dính nhưng tất cả hạt phấn hoa, thay vì có dạng bụi, lại được phủ một lớp keo dính để có thể được kéo căng thành sợi. Sự sắp đặt này thì có ưu và nhược điểm gì? Phấn hoa được côn trùng mang đi có thể bị dính vào bất cứ thứ gì khác chứ không chỉ có đầu nhụy; mặt khác, đầu nhụy bị ngăn không tiết ra thứ dịch nhằm tiệt giống mọi loại phấn ngoại lai. Ở hoàn cảnh nào thì vấn đề này cũng cần được nghiên cứu đặc biệt. Cũng như vậy, còn có nhiều bộ phận mang những tính năng hữu dụng khác mà chúng ta chưa nhận biết được ngay.

XXI

Để kết thúc giống hoa lan kỳ khôi này, ta nên nói một chút về một bộ phận phụ trợ có nhiệm vụ làm toàn bộ cơ chế hoạt động: ý tôi là tuyến mật, với mục đích đó, là đối tượng và một phần của tinh thần nòi giống trong những kiếm tìm, trải nghiệm, nỗ lực để trở nên thông tuệ và phong phú, nhằm cải tiến không ngừng tổ chức các bộ phận cơ thể cần thiết. Theo nguyên tắc, túi mật mà ta đã thấy có hình cựa hay một chiếc sừng dài, nhọn mở ngay ở đáy, bên cạnh cuống hoa và ít nhiều đóng vai trò quả nặng để giữ thăng bằng cho tràng hoa. Nó chứa một chất lỏng có đường-mật - thứ dùng làm thức ăn cho bọ, bướm và các loài côn trùng khác; với bọn ong, mật hoa được dùng để tạo nên mật ong. Vì thế, công việc của nó là quyến rũ những vị khách không thể nào bỏ qua đó. Nó sẽ điều chỉnh kích cỡ, tập tính, mùi vị và luôn luôn sắp đặt sao cho khách ong bướm không thể ra vào mà không cắm vòi một cách cẩn thận.

Ta đã biết khá đủ về cá tính kỳ quái và sức tưởng tượng của các giống lan để mà có thể xác thực rằng ở đây, hay bất cứ nơi nào khác, càng để bộ phận mềm yếu này tự chủ thì tinh thần sáng tạo, thực dụng, thích lần mò của nó đã tự cho bản thân một phạm vi tự do. Một trong số đó, ví dụ như loài Sarcanthusteretifolius (lan mật khẩu môi nhọn) hẳn đã thất bại trong việc chế ra một dịch nhầy mà lẽ ra phải cô cứng lại đủ nhanh để dính bó phấn lên đầu côn trùng. Loài này đã vượt qua được khó khăn bằng cách chặn lại vòi con côn trùng đó ngay ở lối hẹp dẫn vào túi mật. Đường lối quá phức tạp đến nỗi Bauer, người vẽ phác thảo cho Darwin phải thừa phận mình bị đánh bại và từ bỏ nỗ lực tái tạo lại nó.

Một số loài, bắt đầu từ nguyên lý tối thượng rằng, mọi sự giản lược đều là một tiến bộ, đã mạnh dạn từ bỏ chiếc “sừng chứa mật.” Chúng thay thế bằng một cục lồi chắc, mọng nước, dễ thấy để côn trùng tới hút rỉa. Ta cũng phải nói thêm rằng, những cục lồi đó luôn được đặt ở vị trí khiến các thực khách côn trùng đến tiệc tùng chắc chắn sẽ phải vận hành cả bộ máy thụ phấn cho cây.