PHẦN III XXII
Nhưng, không dông dài về hàng ngàn thứ tinh xảo ấy nữa, ta hãy kết thúc những chuyện thần tiên này bằng cách tìm hiểu các cách thức bẫy mồi của hoa lan gáo - Coryanthes macrantha. Quả tình, ta cũng chẳng biết đây là loại sinh vật gì nữa. Loài lan kỳ dị ấy đã chế tạo ra thứ này: môi dưới hay cánh hoa giữa tạo thành một vật như chiếc gáo, bên trong có hai chiếc sừng cao vượt lên tiết ra những giọt nước gần như là tinh khiết liên tục rớt xuống; khi chiếc gáo đầy một nửa, chỗ nước đó sẽ bị đổ ra ngoài theo một đường ống máng. Toàn bộ cơ chế chạy bằng sức nước này rất đáng chú ý; nhưng đây lại là nơi đáng sợ, tôi có thể nói rằng, đây chính là khởi nguồn cho một kết cấu hiểm ác. Chất lỏng được tiết ra từ hai chiếc sừng được tích trữ trong gáo có lòng láng bóng đó không phải là mật và cũng không nhằm để thu hút côn trùng: nó có một chức năng tinh vi hơn nhiều, nhằm phục vụ cho mưu đồ cực kỳ quỷ quyệt của cây hoa. Lũ côn trùng ngây ngô bị mùi hương ngọt ngào từ cái mào (khối u lồi) mà tôi đã nói ở trên, dẫn dụ bước vào bẫy. Những mào lồi này nằm ngay trên miệng gáo, tạo thành một khoang có lối vào ở hai bên. Rồi con ong lớn đến - bông hoa, vốn tàn độc, chỉ thích quyến rũ những con côn trùng cánh màng to lớn nhất, như thể những con nhỏ hơn sẽ phải thấy nhục nhã nếu bước chân vào chốn “sảnh đường” lộng lẫy tráng lệ như thế - con ong sẽ nhấm mút những cái mào thơm ngon ấy. Nếu nàng ong đến một mình, nàng ta sẽ lẳng lặng bỏ đi sau khi đã no xôi chán chè mà chẳng thèm lướt qua gáo nước, đầu nhụy và đám phấn hoa, và cũng chẳng có chuyện gì khác xảy ra nữa. Nhưng cây lan khôn ngoan biết xem xét cuộc sống chung quanh nó. Nó biết lũ ong là những kẻ tham lam, bận rộn và đông đúc, chúng túa ra thành ngàn vạn con đi kiếm ăn dưới ánh mặt trời, và rằng đóa hoa phải tỏa hương, phải run lên như môi hôn mời gọi, giục giã đám đông ấy nhanh chân đến “cái lều tiệc cưới” mà chè chén. Thế là có ngay hai ba kẻ kiếm chác chễm chệ trong “căn phòng ngọt ngào”; ngặt nỗi không gian chật hẹp, tường lại trơn nhầy trơn nhụa, mà khách thì thô lỗ, ăn tranh uống đạp. Chúng chen chúc, xô đẩy nhau rồi thể nào cũng có kẻ lộn cổ vào cái gáo chờ sẵn ngay bên dưới cái bàn tiệc xảo trá. Ở đó, hắn sẽ bị dìm cho ướt đẫm cả đôi cánh trắng mờ, và dù có vùng vẫy thế nào đi nữa cũng không thể bay lên nổi. Đây là chỗ mà bông hoa ranh mãnh chờ đợi. Vẫn có một lối ra để con côn trùng rời khỏi cái gáo ma mị: ống máng đóng vai trò như một ống xả chỗ nước thừa. Nó chỉ vừa đủ rộng để tạo thành lối ra cho con côn trùng, khiến lưng nó phải chạm vào bề mặt nhụy rồi đến tuyến nhầy của bọc phấn đang chờ sẵn dọc theo lòng ống. Sau đó, nó sẽ thoát ra cùng với bụi phấn bám dính trên mình và tiếp tục ghé thăm bông hoa bên cạnh, nơi tấn bi kịch tiệc tùng, xô đẩy, ngã nhào, trốn thoát lại tái diễn cùng với sự tất yếu là hạt phấn được cấy vào cái nhụy tham lam.
Thế đó, ở đây ta có một bông hoa có thể nhận biết và “chơi” lũ côn trùng bằng chính sở thích của chúng. Ta cũng không thể vờ như đó chỉ là những cách diễn giải ít nhiều lãng mạn; không, đó là những sự thực có thể tiên đoán, có thể quan sát được một cách khoa học và cũng không có một cách nào khác để trình bày việc sử dụng và sắp đặt các bộ khác nhau của bông hoa. Ta phải chấp nhận bằng chứng như chính sự hiển hiện của nó. Ngón nghề xảo quyệt siêu đẳng và hữu hiệu này còn đáng kinh ngạc hơn nữa vì nó không nhằm làm thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cấp thiết và tức thì để trau dồi trí khôn; mà chỉ có thể là vì một tư duy sâu xa: lưu truyền giống loài mình.
Nhưng tại sao, ta vẫn nên tự hỏi, chúng lại phải tạo ra những thứ phức tạp đến thế chỉ để dẫn tới việc gia tăng các nguy cơ mạo hiểm? Ta không nên hấp tấp mà phán xét và giải đáp. Ta không biết tí gì về nguồn cơn của cây hoa. Liệu ta biết có những cản trở gì mà cây hoa phải vượt qua theo chiều hướng logic và giản lược hóa ấy? Ta có biết thấu đáo được một trong số những quy luật sinh học của sự tồn tại và phát triển của nó? Hẳn là, đến lượt các sinh vật trên sao Thủy, sao Kim, khi quan sát loài người chúng ta vươn lên chinh phục vũ trụ, cũng lại thắc mắc: “Tại sao lại phải chế tạo những cỗ máy to lớn kỳ cục, những khí cầu, những con tàu không gian, những cái dù trong khi quá dễ để mà bắt chước lũ chim chóc hỗ trợ đôi tay bằng một cặp cánh?”
XXIIIĐối với những bằng chứng về trí tuệ này, lòng kiêu ngạo có chút gì trẻ con của loài người vẫn dè bỉu theo lối cũ rích: ờ thì chúng tạo ra những thứ phi thường, nhưng những thứ phi thường ấy thì muôn đời vẫn thế. Mỗi giống loài có hệ thống riêng mình, và từ thế hệ này sang thế hệ khác, đều có những tiến hóa thầm lặng. Thực sự, kể từ khi chúng ta quan sát chúng - suốt khoảng 50 năm nay (thời điểm của tác giả) - ta chưa bao giờ thấy được loài lan gáo hay lan catasetidae hoàn thiện chiếc bẫy của chúng; ta chỉ có thể biết được đến vậy, và thế là chưa thực sự đủ. Chúng ta đã thử những thí nghiệm sơ đẳng nhất chưa? Liệu các thế hệ kế tiếp của giống lan kỳ khôi ấy sẽ làm gì nếu ta đặt chúng vào một môi trường sống khác, trong thời gian hàng trăm năm, giữa những loại côn trùng xa lạ? Bên cạnh đó, những cái tên chúng ta gán cho các bộ, thứ, loài, lại lừa dối chính chúng ta; và thế là ta tưởng tượng ra những giống điển hình mà ta cho là đã được cải chính, nhưng ngược lại, có khi chúng chỉ là đại diện cho một loại cây có hoa giống nhau, và còn từ từ liên tục biên đổi các bộ phận cơ thể.
Các loài hoa có mặt trên trái đất trước côn trùng, thế nên sau khỉ bọn này xuất hiện, chúng phải thích nghi với một cơ chế hoàn toàn mới với tập tính của những “đối tác không mong muốn” ấy. Giữa tất cả mọi thứ ta không biết, thì riêng cái sự thật hiển nhiên-mang tính địa chất này đã đủ để tạo nên sự tiến hóa; và sau rốt, chẳng phải chính từ “tiến hóa” mơ hồ đó bao hàm cả sự thích nghi, cải biến, phát triển thông minh sao?
Hơn nữa, chẳng phải viện đến sự kiện tiền sử này, ta cũng dễ dàng tìm được cả đống bằng chứng cho thấy khả năng thích nghi và phát triển trí khôn không phải là thứ độc quyền của nhân loại. Không cần quay lại các chương chi tiết tôi đã khổ nhọc với chủ đề này trong cuốn Đời sống loài Ong, tôi sẽ chỉ đơn giản là nhắc lại hai hay ba chi tiết chính yêu. Ví dụ như lũ ong đã chế ra tổ ong. Trong môi trường hoang dã, sơ khởi và từ nguồn gốc của mình, chúng hoạt động trong không gian mở. Vì các mùa ở phương bắc chúng ta khắc nghiệt và bất ổn mà chúng nảy ra ý tưởng đi tìm khoang cây rỗng hay hốc đá. Ý tưởng chất phác này quay sang phục vụ việc kiếm ăn và chăm sóc chỗ trứng mà hàng ngàn con ong phải xúm xít quanh tổ nhằm duy trì một nhiệt độ cần thiết. Ta không mấy khi thấy lũ ong quay lại với những tập tính của tổ tiên của chúng4, đặc biệt là ở phương Nam, vào những mùa hè nóng nực.
“Lũ ong,” M. de Parville viết trong bản tóm lược trên mục khoa học của tờ Journal des Débats hôm 31 tháng Năm, 1906, “xây những cây cột vững chắc và triển khai những phương sách bảo vệ thực sự đáng chú ý và kết thúc bằng việc biến hai chạc cây dẻ thành một cái trần cứng. Đến ngay khả năng thiên phú của con người cũng chẳng thể làm tốt được như thế.
“Để chống mưa, chúng đã lập nên những hàng rào, tường dày và để chống nắng, chúng tạo ra màn che. Ta không thể hiểu rõ sự hoàn hảo của nền công nghiệp của loài ong, trừ phi quan sát kiến trúc của hai cái tổ, hiện giờ đang trưng bày ở bảo tàng.”
Một hiện tượng khác: khi được chuyển sang Australia hay California, loài ong đen của chúng ta thay đổi hoàn toàn tập tính. Sau một hai năm, nhận thấy mùa hè ở đó kéo dài vĩnh cửu và các loài hoa thì nở quanh năm, nó sẽ sống ngày qua ngày, thoải mái đi gom mật, phấn cần thiết cho mức tiêu thụ thường nhật; và rồi cái quan sát đầy xét đoán mới mẻ sẽ vượt lên kinh nghiệm được di truyền, nó sẽ không tích trữ cho mùa đông nữa. Buchner dẫn ra một hiện tượng tương tự cũng chứng minh sự thích nghi của loài ong với môi trường, không chậm chạp, lâu dài, vô thức và được định sẵn mà là ngay tức thì và thông minh: Ở Barbados, lũ ong làm tổ ngay giữa những nhà máy tinh luyện đường, nơi chúng kiếm được đường suốt cả năm, sẽ bỏ hẳn việc đi tìm hoa.
Cuối cùng chúng ta hãy nhớ lại nghịch lý buồn cười lũ ong dành cho hai nhà côn trùng học uyên bác người Anh Messrs Kirby và Spence: “Hãy đưa ra một trường hợp nào mà dưới áp lực môi trường, loài ong phải nghĩ đến việc thay thế sáp và keo ong bằng đất sết hoặc hồ vữa; cứ cho chúng tôi thấy đi rồi chúng tôi sẽ phải khâm phục những tài năng hợp lý của chúng.”
Hiếm khi nào họ trình bày hẳn ra cái ý muốn có phần độc đoán này, trong khi một nhà tự nhiên học khác, Andrew Knight, trát lên vỏ cây một hợp chất gồm sáp ong và nhựa thông, đã phát hiện ra lũ ong hoàn toàn từ bỏ chất keo ong và sử dụng luôn hợp chất mới không tên này, thứ mà chúng nhận thấy sẵn có nhiều, lại được chuẩn bị kỹ càng ngay gần nơi chúng cư ngụ. Hơn nữa, trong nghề nuôi ong, khi phấn hoa khan hiếm, người nuôi ong còn phải bày ra cho chúng thấy những nắm bột để chúng phải hiểu ngay rằng thứ này có thể dùng được với cùng một mục đích và cũng giống như những bao bột phấn hoa, dù cho nó có mùi vị, màu sắc hoàn toàn khác đi chăng nữa.
Những gì tôi mới nói, về vấn đề của loài ong, tôi nghĩ, có gì cần sửa đổi thì đã sửa đổi, có thể đã được ấn định trong giới hoa thảo, tôi đã nhắc tới ở trên một số thí nghiệm khiêm tốn của tôi về các nỗ lực tiến hóa kỳ diệu ở một số lượng lớn các giống cây xô thơm. Và một nghiên cứu tỉ mỉ của Babinet về ngũ cốc cho ta biết những giống thực vật nào đó khi bị chuyển đến một nơi xa lạ với môi trường sống quen thuộc sẽ quan sát hoàn cảnh mới và sẽ điều chỉnh có lợi cho bản thân, hệt như những gì lũ ong đã làm. Vì vậy, ở những vùng nóng nực nhất của châu Á, châu Phi và châu Mỹ, nơi mùa đông không phương hại hàng năm, ngũ cốc trở lại đặc tính cố hữu là sinh trương quanh năm như cỏ. Chúng sẽ xanh mãi, đâm rễ và không trổ bông kết hạt nữa. Thế nên, với nguồn gốc từ các nước nhiệt đới, khi chúng trở nên thích nghi với khí hậu các vùng giá lạnh của ta, chúng phải từ bỏ tập tính cố hữu và tạo ra phương thức sinh sôi mới. Như Bạbinet đã nói: “Cơ thể của thực vật, nhờ một phép màu phi thường, dường như đoán trước được nhu cầu bỏ qua trạng thái kết hạt, để không bị tận diệt trong thời gian khắc nghiệt.”
XXIVTrong mọi trường hợp, để loại bỏ sự chống đối ta nói tới ở trên, thứ đã đẩy chúng ta quá xa rời đối tượng trực tiếp, nếu có một cơ may, ngoài nhân loại, sẽ là đủ để tạo nên một bước tiến cho trí thông minh. Nhưng, không kể đến niềm vui thích bác bỏ một cuộc tranh cãi lỗi thời, vớ vẩn, thì, như mọi người vẫn nói, có quan trọng gì đâu để mà bám lấy cái nhan đề có hay không có trí thông minh ở từng cá thể hoa, thảo, điểu! Giả thử, như ở nơi hoa lan hay con ong, cứ cho rằng chính thiên nhiên chứ không phải cái cây hay con côn trùng mới có thể tính toán, kết hợp, trang hoàng, phát minh và tư duy: vậy chứ ta được lợi lộc gì từ tài năng xuất chúng đó? Ta được ban cho gì? Vượt lên hết thảy mọi thứ vụn vặt này là một vấn đề to lớn hơn, có giá trị hơn nhiều khiến ta hăm hở chú ý. Thứ ta cần làm là nắm bắt lấy đặc tính, phẩm chất, các tập tính và có lẽ là cả đối tượng của “trí tuệ chung” mà từ đó khởi phát mọi hành động có tư duy trên trái đất này. Từ quan điểm cho rằng nghiên cứu những sinh vật đó - kiến và ong chứ không phải loài nào khác - mà trong đó, ngoài hình thức của con người, hình thức và nội hàm của trí thông minh ấy đã được hiển thị sáng sủa nhất, trở nên một trong những điều kinh ngạc nhất mà ta thực hiện được. Mọi thứ đều rõ ràng sau tất cả mọi thứ ta đã đưa ra, rằng những khuynh hướng, những phương thức thông minh nhất định ít nhất cũng phải phức tạp, nguyên sơ, tân tiến như ở nơi các giống phong lan, cũng như ở các loài bọ cánh màng. Ta hãy bổ sung một số lượng lớn những motif và một phần logic của những loài côn trùng hiếu động hoạt động không ngừng nghỉ này, những kẻ khó quan sát và vẫn thường thoát khỏi chúng ta, nhưng ngược lại ta lại dễ dàng nắm bắt được mọi chuyển động lặng lẽ, mọi cuộc tranh luận thông thái và kiên định nơi một đóa hoa thanh tĩnh.
XXVGiờ thì ta quan sát được gì khi lĩnh hội thiên nhiên (trí tuệ chung hay trí tuệ của tạo hóa, dù sao đi chăng nữa tên gọi cũng không quan trọng mấy) trong hoạt động của thế giới hoa phong lan? Nhiều thứ; và, để lướt qua một chút, về cái chủ đề có thể sẽ tạo điều kiện cho một khảo cứu dài, ta bắt đầu bằng việc xác định rằng trí tuệ của hoa về cái đẹp, về niềm vui, về cách thức quyến rũ và cả óc thẩm mỹ của hoa đều cực kỳ gần gũi với chúng ta. Nhưng cũng chẳng còn nghi ngờ gì nữa, trí người và trí hoa là hai thứ đồng thanh đồng khí. Thực ra, có một mối ngờ lớn là liệu con người đã sáng tạo ra được cái gì phi thường? Mọi thứ kiến trúc, motif âm nhạc, phối màu đều là mượn thẳng từ tự nhiên. Khi đã không nhắc đến biển cả, núi non, bầu trời, đêm tối, sao trời, những buổi hoàng hôn, thì cũng đừng có nói về vẻ đẹp của cây cối! Tôi không chỉ nói tới cây cối trong rừng, nơi nó là một trong những thế lực của trái đất, mà có lẽ là một nguồn chính của bản năng của chúng ta, của cảm nhận của chúng ta về vũ trụ, mà là về bản thân một cái cây đơn độc, mà vẻ xanh tươi hàm chứa cả ngàn mùa mưa nắng. Trong những ấn tượng, bất chấp sự đồng ý của chúng ta, có những ấn tượng tạo nên những ngọn nguồn tươi sáng, và có lẽ là cõi miền sâu tận của hạnh phúc và bình yên cho toàn bộ sự tồn tại của chúng ta, có ai trong chúng ta lại không nhớ lại những ấn tượng về một vài cái cây xinh đẹp? Ai đã đi qua nửa đời người, đã đến cái tuổi không còn mấy thứ phải nghi ngờ, khi đã kết thúc hầu như mọi diễn cảnh mà nghệ thuật, sự tài trí, vẻ lộng lẫy của các thời đại và con người có thể đem lại; sau khi đã trải nghiệm, đã so sánh nhiều, người ta lại quay về với những ký ức vô cùng giản đơn. Lúc nhắm mắt xuôi tay, người ta hẳn muốn mang theo vài hình ảnh trong sáng, tươi tắn hiện lên nơi cuối trời, nếu những hình ảnh ấy vượt qua được lằn ranh giữa hai cõi. Về phần mình, tôi tưởng tượng ra không phải thiên đường, cũng chẳng phảỉ thế giới bên kia, mà là hình ảnh về một cây sồi tuyệt đẹp, một cây bách, hay một cây thông đá vùng Florence hoặc ở một tu viện xinh xắn gần nhà tôi, cây nào trong số ấy cũng đem lại cho người đi qua một tấm gương về mọi hoạt động lớn lao của tâm hồn - sự phản kháng cần thiết, lòng quả cảm ôn hòa, niềm hứng khởi cao độ, giá trị khiêm nhường, chiến thắng thầm lặng và thủy chung như nhất.
XXVINhưng tôi đang lan man quá xa: tôi chỉ muốn lưu ý, từ cây hoa, khi nó ước ao được xinh đẹp, để thỏa mãn, để vui vẻ và để chứng tỏ rằng mình hạnh phúc, rằng tự nhiên thực hiện hầu hết những gì chúng ta lẽ ra nên làm với những kho báu của chúng. Tôi biết rằng, bởi thế, tôi đang nói gần giống như vị giám mục kinh ngạc khi nhận thấy Thượng Đế luôn tạo ra những dòng sông chảy gần các thành phố; nhưng quan sát những thứ này từ các góc độ khác với của loài người thì rất khó khăn. Theo quan điểm này, chúng ta nên thừa nhận rằng nếu không biết đến hoa, chúng ta có lẽ sẽ biết rất ít về những biểu hiện và sự thể hiện đích thực của hạnh phúc. Để đánh giá đúng uy quyền của nó đối với niềm vui và sắc đẹp, cần phải sống ở thôn quê, nơi chúng sống không bị chia tách, tỉ dụ như một góc nào đấy ở Provence, giữa Siagne và Loup, nơi tôi đang viết những dòng này. Ở đây, thực sự, hoa là chúa tể nơi các thung lũng, các ngọn đồi. Ở đây những người nông dân đã mất thói quen trồng ngũ cốc, dường như họ có thiên chức thỏa mãn những nhu cầu tinh tế hơn của một loài người được nuôi dưỡng bằng những mùi hương ngọt lành và phấn hoa. Những cánh đồng tạo nên những bó hoa thơm, không ngừng được làm mới, và các mùi hương như thể luân phiên nhảy múa theo vòng quay phiêu lãng của năm tháng. Các loài hoa Anemones Gilliflowers, Mimosas, Violets, Pinks, Narcissuses, Hyacinths, Jonquils, Mignonette, hoa nhài, hoa huệ làm chủ ngày đêm, suốt 12 tháng trong năm, cả bốn mùa xuân hạ thu đông. Nhưng thời gian lộng lẫy nhất là của hoa thủy tiên. Khi ấy, từ những đỉnh đồi đến những vùng đồng trũng, giữa những con đập hình thành nhờ những ruộng nho và vườn ô liu, chúng chảy khắp nơi như dòng suối hoa, làm nổi bật những ngôi nhà, cây cối, một dòng suối sắc màu mà ta gán cho biểu tượng của tuổi trẻ, sức khỏe và niềm vui. Mùi thơm nồng nàn, trùm lên không gian rộng lớn, mở ra cả khoảng trời, như thể tuôn trào ra từ nhưng ngọn nguồn hạnh phúc. Những con đường, lối mòn trải đầy hoa, có khác gì vườn địa đàng. Lần đầu tiên trong đời, ta như được mãn nhãn chiêm ngưỡng hạnh phúc.
XXVIIKhi tiếp tục xem xét theo quan điểm của con người, khi giữ cái ảo tưởng cần thiết, chúng ta sẽ thêm vào nhận xét thứ nhất một điều khác đôi chút lớn hơn, dẫu ít mạo hiểm hơn, nhưng có thể, có đầy hậu quả, đó chính là cái điều rằng thiên tài của đồng đất, có lẽ cũng là thiên tài của cả thế giới, hành động trong cuộc đấu tranh sinh tồn hoàn toàn đúng hệt như con người. Nó sử dụng cũng chính những phương pháp ấy, chính cái logic ấy. Nó đạt được mục đích nhờ sự trợ giúp của những phương tiện mà chúng ta cũng sử dụng: cũng dò dẫm tìm kiếm, cũng dao động, nhiều lần bắt tay vào việc, thêm cái này, bớt cái kia, hiểu ra và sửa chữa những sai lầm của mình, như chúng ta cũng làm nếu ở vào địa vị của nó. Nó bắt đầu tinh khéo ra, trăn trở, gian khó, từng li từng tí một sáng chế như những kỹ sư và công nhân của chúng ta trong các nhà máy. Nó cũng đấu tranh, như chúng ta, với rất nhiều cái nặng nề, to lớn, tăm tối trong bản thể của mình. Như chúng ta, nó không biết được chính xác mình đi đâu, nó kiếm tìm, và dần dần phát kiến. Lý tưởng của nó thường mơ hồ, thế nhưng trong đó phân biệt rõ những đường nét lớn nhằm hướng tới một đời sống sôi nổi hơn, phức tạp hơn, hứng khởi hơn. Về vật chất, nó làm chủ những phương tiện vô tận. Nó nắm giữ bí ẩn của những sức mạnh kỳ diệu mà chúng ta không biết tới, nhưng về tinh thần nó, dường như, nó sống một cách giản đơn trong môi trường của chúng ta, và cho đến giờ chúng ta vẫn chưa nhận thấy là nó đã vượt qua môi trường ấy. Nhưng vì nó không vay mượn gì từ thế giới bên kia, thì chúng ta có thể hay không kết luận rằng bên ngoài môi trường của chúng ta chẳng có cái gì hết? Chúng ta có thể kết luận hay không rằng những phương pháp của trí tuệ con người là những cái duy nhất có khả năng, rằng con người không sai lầm, rằng con người không phi thường, cũng không quái gở, nhưng là cái sinh thể mà ta phải trải qua, trong sinh thể ấy một cách mãnh liệt nhất bộc lộ một ý chí lớn lao, những mong ước vĩ đại của vũ trụ?
XXVIIIĐiểm tựa của tri thức của chúng ta phát lộ một cách chậm chạp và dè sẻn. Có lẽ hình ảnh nổi tiếng của Plato - cái hang mà trên đó phản ánh những bóng hình không cắt nghĩa được - không làm chúng ta thỏa mãn nữa. Nhưng nếu như chúng ta muốn thay thế nó bằng một hình tượng mới, chính xác hơn, thì hình tượng ấy vị tất đã là cái an ủi chúng ta hơn. Hãy thử hình dung cái hang này rộng hơn. Hãy thử hình dung không có một tia sáng nào lọt được vào đó, nhưng ngoài ánh sáng và lửa, nó được cung dưỡng một cách hào phóng tất cả những gì mà nền văn minh của chúng ta tạo ra, và những người sống trong đó bị cầm tù ngay từ khi mới lọt lòng. Họ có lẽ sẽ chẳng tiếc về sự thiếu vắng cái ánh sáng mà họ chưa bao giờ được thấy. Họ có thể là không mù, đôi mắt của họ có thể không đui, nhưng bởi không nhìn thấy được, họ có thể trở thành một cơ quan thụ cảm nhạy bén nhất.
Để hiểu rõ những hoạt động của họ, chúng ta hãy thử hình dung những cư dân bất hạnh của bóng tối này giữa những vật dụng chưa từng được biết tới xung quanh họ. Sẽ có biết bao nhiêu những lầm lẫn lạ lùng, những sai lệch đến khó tin với sự thật, những diễn giải thật bất ngờ! Nhưng cảm động và thường luôn thiên tài biết bao việc sử dụng mà họ có thể thực hiện với những vật dụng được tạo ra không phải cho cảnh tăm tối.
Họ, có vẻ như, rất thường xuyên đạt dươc mục đích, và nỗi kinh ngạc của họ sẽ lớn đến mức nào, nếu như, bỗng dưới ánh sáng ban ngày, họ phát hiện ra một thiên nhiên đích thực và chức năng của các công cụ và thiết bị mà họ đã ra sức cố gắng làm cho chúng thích ứng với sự bất định của bóng tối?…
Tuy nhiên so với vị thế của chúng ta thì vị thế của họ dường như đơn giản và dễ dàng. Cái bí ẩn mà họ lang thang ở trong đó có giới hạn. Họ bị mất chỉ một giác quan thôi, trong khi thật khó xác định chúng ta bị thiếu hụt bao nhiêu giác quan. Nguyên nhân lầm lạc của họ chỉ có một, trong khi nguyên nhân sai lầm của chúng ta là không kể xiết.
Nhưng bởi chưng chúng ta đã bị phán định phải sống trong cái hang tương tự, thì có kỳ lạ hay không việc cái thế lực giam cầm chúng ta rất thường xuyên và cơ bản nhất hành động như chính chúng ta. Những tia sáng này nơi hang tối của chúng ta cho chúng ta thấy rằng, chúng ta đã không nhầm về chức năng của các vật dụng ở trong đó, và chúng ta phải chịu ơn các loài côn trùng và các loài hoa về một số những tia sáng ấy.
XXIXChúng ta đã quá lâu rồi kiêu căng một cách phi lý ở chỗ tự coi mình là những sinh thể phi thường, duy nhất và đột ngột một cách siêu nhiên, có lẽ, rơi xuống từ một thế giới khác, không có một mối liên kết nào với sự sống nào khác, dẫu sao cũng có những năng lực bất thường trời phú, vô song, khủng khiếp. Tốt hơn nhiều là đừng quá phi thường đến thế, bởi kinh nghiệm đã cho chúng ta thấy rằng những cái phi thường rốt cục đều biến mất giữa sự tiến hóa bình thường của tự nhiên. Điều an ủi hơn nhiều là quan sát thấy chúng ta đang đi theo đúng con đường mà linh hồn của thế giới vĩ đại đang chuyển động, rằng chúng ta cũng có đúng những ý tưởng đó, đúng những hy vọng đó, đúng những thử thách đó, ngoại trừ những mơ ước cố hữu của một mình chúng ta về công lý và lòng nhân từ, và gần như cũng đúng những tình cảm đó. Điều bình tâm hơn nhiều là tin rằng để cải thiện số phận của chúng ta và để sử dụng những sức mạnh, những cơ hội và những quy luật của vật chất chúng ta sử dụng đúng những phương tiện mà tự nhiên đã sử dụng để soi sáng và đưa vào nề nếp những lĩnh vực của các sinh thể không chịu khuất phục và vô thức; rằng không có các phương tiện khác đâu, rằng chúng ta đang sống trong chân lý, rằng chúng ta đang chiếm một nơi chốn xứng đáng với chúng ta và đang ở trong ngôi nhà của mình trong cái vũ trụ được hình thành từ những bản thể bí ẩn, nhưng tư duy của nó không phải là không thể thấu triệt và không thù địch với chúng ta, mà đúng hơn là tương tự hay tương hợp với tư duy của chúng ta.
Nếu như thiên nhiên biết hết mọi điều, nếu như nó không bao giờ sai lầm, nếu như ở mọi nơi, trong mọi hoạt động của mình nó lập tức hoàn thiện và không lầm lỗi, nếu như nó phát hiện ra trong mọi thứ cái trí tuệ cao hơn của chúng ta bội phần, có lẽ chúng ta sẽ lo sợ và mất hy vọng. Khi ấy chúng ta có lẽ cảm thấy mình là nạn nhân và là con mồi của một thế lực xa lạ với chúng ta, không có hy vọng một khi nào đó hiểu rõ và đo lường được nó. Tốt hơn nhiều là tin chắc rằng thế lực này, ít ra theo quan điểm trí tuệ, gần gũi thân thiết với sức mạnh của chúng ta. Trí tuệ của chúng ta thu nhận từ chính những ngọn nguồn, như trí tuệ của nó. Tất cả chúng ta thuộc về chính thế giới đó và sống bình đẳng. Chúng ta không còn liên quan đến những vị thần bí hiểm, mà với những ý nguyện của những người anh em, dẫu còn tiềm ẩn mà chúng ta phải hiểu để chi phối chúng.
XXXTôi cảm thấy không quá là phi lý việc cả quyết rằng không có những sinh thể có trí tuệ nhiều hơn hay ít hơn, nhưng có một trí tuệ chung cho tất cả, chan hòa khắp mọi nơi, một cái gì đó tựa như thứ dung dịch truyền dẫn khắp thế giới, thâm nhập một cách khác nhau vào tất cả các sinh vật gặp nó trên đường, khi nhìn vào đó, chúng là vật truyền dẫn tốt đẹp hay xấu xa của tinh thần. Con người, trong trường hợp như thế, cho đến giờ có lẽ là hiện thân của sự sống trên trái đất, thể hiện sự kháng cự ít nhất với thứ dung dịch mà các tôn giáo gọi là thần thánh này. Hệ thần kinh của chúng ta là những sợi dây mà có thể theo đó dòng điện tinh vi nhất này lan truyền. Nhưng nếp cuộn của bộ não chúng ta có lẽ đã tạo thành một dạng cuộn cảm ứng làm tăng lên sức mạnh của dòng điện, nhưng chính dòng điện có lẽ cũng như nhau về bản chất và xuất phát từ một nguồn, như dòng điện chạy qua một tảng đá, qua một vì sao, qua một bông hoa hay một con vật.
Nhưng dẫu sao đây là những điều bí ẩn mà thử nghiệm chúng là một việc khá vô tích sự, bởi chúng ta không có một cơ quan có thể thu nhận lời giải đáp cho những vấn đề này. Chúng ta nên bằng lòng rằng chúng ta có thể quan sát thấy những biểu hiện nào đấy của cái trí tuệ này ở bên ngoài chúng ta. Tất cả những gì chúng ta quan sát thấy trong chính bản thân mình, chúng ta có quyền coi chúng là đáng ngờ, bởi ở đây chúng ta xuất hiện ở vai kép - quan tòa và các bên tranh tụng, và chúng ta quá quan tâm đến việc để làm cho thế giới của chúng ta sống bằng những ảo tưởng và những niềm hy vọng tuyệt trần. Nhưng một chỉ dẫn nhỏ nhất từ bên ngoài có thể là rất quý báu và đáng mong ước đối với chúng ta. Những chỉ dẫn vừa được những bông hoa bày cho chúng ta, có lẽ, không mấy quan trọng khi so với điều mà núi non, biển cả, sao trời mách bảo cho chúng ta, nếu như chúng ta có thể nắm bắt được bí mật trong sự sống của chúng. Nhưng những bông hoa cho chúng ta cái quyền với niềm tin lớn lao giả định rằng tinh thần toát ra từ chúng và làm tươi mới mọi sự vật, về bản chất giống hệt với tinh thần làm hồi sinh thể xác của chúng ta. Nếu nó giống với chúng ta, nếu chúng ta, về phần mình, tựa như nó, nếu tất thảy những gì có trong nó cũng có trong chúng ta, nếu nó sử dụng những biện pháp của chúng ta, nếu nó vốn có những những thói quen của chúng ta, những mối bận tâm của chúng ta, nhưng ước vọng của chúng ta, cái mong muốn của chúng ta về điều tốt đẹp nhất, thì phải chăng cái logic đang cản trở chúng ta hy vọng vào tất cả những điều mà dù sao chúng ta theo bản năng và cần phải hy vọng? Phải chăng không thể cho cái điều rằng trí tuệ của tự nhiên nuôi dưỡng cũng chính những niềm hy vọng đó gần như là một điều xác thực? Khi chúng ta phát hiện ra nguồn sức mạnh như thế của cái trí tuệ chan hòa trong sự sống, thì có đúng thật hay không việc cho rằng, toàn bộ sự sống đang sáng tạo ra hành động của trí tuệ, tức là, nó đang theo đuổi mục tiêu hạnh phúc, hoàn thiện và chiến thắng cái mà chúng ta gọi là cái ác, cái chét, sự tăm tối, sự không tồn tại, hoàn toàn có thể, chỉ là bóng hình diện mạo của nó hay giấc mộng của riêng nó?