← Quay lại trang sách

Chương 4

Ngày hôm sau, tôi đã phải trả giá cho việc ngủ qua đêm trong xe ô tô. Toàn thân tôi đau ê ẩm và tôi phải tắm sau khi tập thể dục vì khăn giấy trong phòng tắm của nhà hàng chỉ có thể duy trì được đến một mức độ nào đấy thôi. Tôi không có thời gian để sấy khô tóc nên đã lên lớp trong tình trạng ướt nhẹp. Đây không phải là vẻ ngoài đẹp nhất của tôi, nhưng tôi đã đến trường cùng với những người bạn này suốt đời rồi mà. Đối với họ, tôi chỉ là một tấm giấy dán tường không hơn không kém.

Chẳng ai thèm nhìn tôi.

“Trong Romeo và Juliet có rải rác những câu tục ngữ, những lời hay, vừa súc tích vừa ngắn gọn, cho thấy cách thế giới và bản chất của con người vận hành.” Giáo viên môn tiếng Anh của tôi còn trẻ và rất nghiêm túc; đồng thời tôi cũng vô cùng nghi ngờ rằng cô ấy đã uống quá nhiều cà phê. “Hãy cùng lùi về sau một chút, về thời kỳ của Shakespeare [1] . Ai có thể lấy cho cô ví dụ về một câu tục ngữ mà chúng ta vẫn thường sử dụng hằng ngày nào?”

Ăn mày còn đòi xôi gấc , tôi nghĩ, đầu lùng bùng và những giọt nước từ tóc cứ không ngừng nhỏ xuống lưng. Cái khó ló cái khôn. Nếu mong ước là một con ngựa thì đến thằng ăn mày cũng có thể cưỡi.

Của phòng học bỗng dưng bật mở. Cô trợ lý văn phòng đứng đó, chờ cho đến khi giáo viên nhìn mình rồi mới thông báo, đủ lớn tiếng để cả lớp có thể nghe thấy: “Mời trò Avery Grambs lên văn phòng.”

Tôi cứ tưởng là ai đó đã chấm xong bài kiểm tra của mình rồi.

Tôi biết có thể tôi sẽ nhận được một lời xin lỗi, nhưng tôi không ngờ là thầy Altman lại đang ngồi đợi tôi ở bàn thư ký, cười rạng rỡ như thể thầy ấy vừa mới được Đức Giáo hoàng tới thăm. “Trò Avery!” Một hồi chuông cảnh tỉnh vang lên trong đầu tôi, bởi vì chưa từng có ai vui mừng đến thế khi họ gặp tôi.

“Trò hãy đi lối này.” Thầy ấy mở cửa văn phòng, và đập vào mắt tôi là mái tóc đuôi ngựa màu xanh da trời nê-ông quen thuộc.

“Libby?” Tôi ngạc nhiên. Chị ấy đang mặc quần áo blouse và không trang điểm, thế là đủ để biết chị ấy đã chạy thẳng từ chỗ làm đến đây, ngay giữa ca làm. Các hộ lý ở viện dưỡng lão không thể cứ thế mà bỏ ra ngoài giữa ca làm như thế này đâu.

Trừ khi có chuyện gì đó xảy ra.

“Có phải bố...” Tôi không thể hoàn thành được câu hỏi của mình.

“Bố em vẫn ổn.” Giọng nói thông báo ấy không phải của Libby, cũng không phải của thầy hiệu trưởng Altman. Tôi ngẩng phắt đầu lên rồi nhìn qua vai chị ấy, thấy chiếc ghế phía sau bàn thầy hiệu trưởng đã có người ngồi - một chàng trai không lớn tuổi hơn tôi là bao. Chuyện gì đang xảy ra ở đây thế này?

Anh ta mặc vest, trông giống kiểu người mà luôn có tùy tùng theo sau phục vụ.

“Tính đến ngày hôm qua,” chàng trai kia tiếp tục nói, giọng trầm thấp vang lên chừng mực và sắc bén, “Ricky Grambs vẫn còn sống, khỏe mạnh và đã an toàn say giấc trong một căn phòng trọ ở Michigan, cách Detroit một giờ lái xe.”

Tôi cố gắng để không nhìn chằm chằm vào anh ta nhưng không thể. Tóc sáng màu. Mắt xám nhạt. Từng đường nét đều sắc nét đến độ dường như có thể cắt vụn cả đá.

“Sao anh lại biết được chuyện đó?” Tôi gặng hỏi. Thậm chí đến tôi còn chẳng biết ông bố vô công rồi nghề của mình hiện đang ở đâu. Anh ta làm thế nào mà biết được chứ?

Chàng trai mặc vest không trả lời câu hỏi của tôi. Thay vào đó, anh ta nhướng một bên lông mày lên và nói: “Hiệu trưởng Altman phải không? Thầy có thể cho chúng tôi vài phút chứ?”

Thầy hiệu trưởng mở miệng, có lẽ định phản đối việc bị mời ra khỏi văn phòng của chính mình, nhưng lông mày của anh ta lại nhướng cao hơn chút nữa.

“Tôi nghĩ là chúng ta đã thỏa thuận với nhau rồi.”

Thầy Altman hắng giọng, đáp: “Tất nhiên”, sau đó quay lưng và bước ra khỏi cửa. Khi cánh cửa đóng lại sau lưng thầy hiệu trưởng, tôi tiếp tục công khai nhìn chằm chằm vào chàng trai đã trục xuất thầy ra khỏi chính văn phòng của mình.

“Em hỏi anh làm thế nào mà biết bố em ở đâu ư?” Mắt anh ta có màu giống với màu áo vest - xám và viền bạc. “Lúc này, đối với em, tốt nhất là cứ cho rằng anh biết tất cả mọi thứ đi.”

Giọng nói của anh ta sẽ rất dễ chịu nếu như không có mấy lời vừa rồi. “Một chàng trai nghĩ rằng mình biết tất cả mọi thứ,” tôi lẩm bẩm. “Cái này mới mẻ thật đấy!”

“Một cô gái có lưỡi sắc như dao,” anh ta đáp trả, đôi mắt màu bạc xoáy sâu vào mắt tôi, khóe môi nhếch lên.

“Anh là ai?” Tôi hỏi. “Và anh muốn gì?” Ở em, có thứ gì đó trong tôi âm thầm bổ sung từ ấy vào. Anh muốn gì ở em?

Anh ta trả lời: “Anh chỉ muốn gửi đến em một lời nhắn.” Vì một vài lý do không thể lý giải, tim tôi bắt đầu đập nhanh hơn. “Một lời nhắn đã được chứng minh là khá khó để có thể truyền tải bằng các phương tiện truyền thống.”

“Có lẽ là lỗi của tôi.” Libby đang đứng bên cạnh tôi bỗng ngượng ngùng và tình nguyện đứng ra nhận lỗi.

“Cái gì là lỗi của chị cơ?” Tôi quay qua nhìn chị ấy, thấy biết ơn vì có cớ để không cần nhìn vào đôi mắt xám kia nữa và cố gắng để chống lại thôi thúc nhìn trở lại.

“Điều đầu tiên mà em cần biết, Avery ạ,” Libby nói, một cách nghiêm túc như tất cả những người mặc áo blouse in hình đầu lâu vẫn thường như thế, “là chị không hề biết mấy bức thư đó có thật hay không.”

“Mấy bức thư nào cơ ạ?” Tôi hỏi lại. Tôi là người duy nhất trong căn phòng này không biết chuyện gì đang diễn ra ở đây, và tôi không thể thoát khỏi cảm giác rằng biết hay không biết là một loại trách nhiệm pháp lý, giống như đang đứng trên đường ray xe lửa mà không biết đoàn tàu đang chạy tới từ hướng nào.

“Những bức thư mà các luật sư của ông ngoại anh đã gửi đến nơi em ở trong suốt ba tuần qua,” chàng trai mặc vest trả lời, giọng nói của anh ta cứ quanh quẩn trong đầu tôi. “Là thư bảo đảm [2] .”

“Chị đã nghĩ mấy bức thư ấy đều là lừa đảo,” Libby nói với tôi.

“Tôi đảm bảo với chị,” chàng trai đáp lại bằng chất giọng êm mượt như tơ, “chúng không phải lừa đảo.”

Tôi thừa biết rằng không nên đặt bất cứ sự tin tưởng nào vào những lời đảm bảo của mấy gã con trai trông ưa nhìn.

“Để tôi giới thiệu lại thêm lần nữa nhé.” Anh ta đan hai tay rồi đặt lên bàn làm việc chắn giữa chúng tôi, ngón tay cái của bàn tay phải nhẹ xoay vòng chiếc khuy măng-sét trên cổ tay áo trái. “Tên tôi là Grayson Hawthorne. Tôi ở đây để thay mặt cho McNamara, Ortega và Jones, một công ty luật có trụ sở ở Dallas, đại diện cho bất động sản của ông tôi.” Đôi mắt xám nhạt của Grayson nhìn thẳng vào mắt tôi. “Ông tôi đã mất vào đầu tháng này.” Một khoảng dừng nặng nề kéo theo sau đó. “Tên ông ấy là Tobias Hawthorne.” Grayson nghiền ngẫm phản ứng của tôi - hay chính xác hơn là sự vô cảm của tôi vào lúc này. “Cái tên ấy có gợi cho em điều gì không?”

Cảm giác đứng trên đường ray xe lửa đã trở lại. “Không,” tôi đáp. “Em nên thế à?”

“Ông của anh là một người rất giàu có, cô Grambs ạ. Và có vẻ như, cùng với gia đình của anh và những người đã làm việc cho ông ấy, em cũng có tên trong di chúc của ông.”

Từng từ anh ấy nói lọt vào tai tôi, nhưng tôi chẳng thể hiểu nổi dù chỉ một từ. “Cái gì của ông ấy cơ ạ?”

“Di chúc,” Grayson lặp lại, một nụ cười nhẹ xẹt qua môi. “Anh không biết chính xác ông anh để lại cho em thứ gì, nhưng em cần có mặt ở buổi đọc di chúc. Gia đình anh đã trì hoãn nó suốt nhiều tuần rồi.”

Tôi là một đứa trẻ thông minh, nhưng Grayson Hawthorne đang nói tiếng Thụy Điển à?

“Tại sao ông anh lại để lại thứ gì đó cho em?” Tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên.

Grayson đứng dậy. “Chẳng phải đây chính là vấn đề cần được tìm hiểu sao?” Anh ta bước ra từ phía sau bàn làm việc, và đột nhiên tôi biết chính xác con tàu kia sẽ tiến đến từ hướng nào.

Từ hướng anh ta.

“Anh đã mạn phép sắp xếp việc đi lại cho em rồi.”

Đây không phải là một lời mời, nó giống lệnh triệu tập hơn. “Điều gì đã khiến anh nghĩ rằng...” Tôi bắt đầu nói, nhưng Libby đã ngắt lời tôi. “Tốt lắm!” Chị ấy nói, liếc mắt trấn an tôi.

Grayson nhếch môi. “Tôi sẽ dành cho hai người chút thời gian để nói chuyện riêng.” Đôi mắt anh ta xoáy sâu vào mắt tôi, quá lâu khiến tôi khó chịu, và rồi, chẳng nói một lời, anh ta sải bước ra khỏi cửa.

Libby và tôi im lặng mất năm giây sau khi anh ta rời đi. Cuối cùng, chị ấy thầm thì: “Đừng hiểu nhầm, nhưng chị nghĩ cậu ấy là Chúa trời đấy.”

Tôi khịt mũi. “Chắc chắn anh ta cũng nghĩ vậy.” Việc lờ đi cảm giác mà anh ta tạo ra cho tôi dễ dàng hơn rất nhiều khi anh ta đi khỏi. Anh ta là loại người gì mà lại có thể tự tin tuyệt đối vào bản thân như thế? Sự tự tin đó hiện hữu ở mọi cử chỉ, cách dùng từ và hành động. Đối với chàng trai này, uy quyền cũng hiển nhiên như lực hấp dẫn. Thế giới bị bẻ cong theo ý muốn của Grayson Hawthorne. Đó là thứ mà tiền không thể mua chuộc, nhưng đôi mắt kia thì có.

“Chị hãy kể từ đầu đi ạ,” tôi nói với Libby. “Đừng bỏ sót bất cứ điều gì.”

Chị ấy bồn chồn xoắn mấy lọn tóc đen như mực lẫn trong chiếc đuôi ngựa xanh lam của mình. “Vài tuần trước, chúng ta bắt đầu nhận được những bức thư ấy, tất cả đều được gửi cho em, dưới sự giám hộ của chị. Nội dung thư viết rằng em được thừa kế một khoản tiền, kèm theo một số điện thoại để chúng ta liên lạc. Chị đã nghĩ là lừa đảo, giống như mấy bức thư điện tử tự xưng là được gửi từ một Hoàng tử nước ngoài.”

“Tại sao ông Tobias Hawthorne ấy, người mà em chưa bao giờ gặp mặt cũng như chưa bao giờ nghe tên, lại đưa em vào di chúc của mình nhỉ?” Tôi thắc mắc.

“Chị không biết nữa,” Libby đáp, “nhưng người đó” - chị ấy ra hiệu về hướng mà Grayson vừa mới rời đi - “không phải kẻ lừa đảo. Em có thấy cách cậu ta đối phó với hiệu trưởng Altman không? Em nghĩ thỏa thuận giữa họ là gì? Là mua chuộc... hay đe dọa?”

Cả hai. Kìm nén câu trả lời đó trong lòng, tôi lôi điện thoại ra và kết nối với wifi của trường. Chỉ cần một lần tìm kiếm cái tên Tobias Hawthorne trên mạng, một dòng tít đã đập vào mắt hai chị em tôi: Nhà từ thiện nổi tiếng qua đời ở tuổi 78.

“Em biết nhà từ thiện có nghĩa là gì không?” Libby nghiêm túc hỏi tôi. “Nghĩa là rất giàu đấy.”

“Nó có nghĩa là một người làm từ thiện,” tôi sửa lại giúp chị ấy.

“Thế nên... giàu .” Libby ném cho tôi một ánh nhìn. “Nếu em là đối tượng được nhận từ thiện thì sao? Họ sẽ không cử cháu trai của mình đến đón em nếu ông ấy chỉ để lại cho em vài trăm đô-la đâu. Chúng chắc chắn phải lên đến con số hàng ngàn đấy. Avery, em có thể đi du lịch, hoặc trang trải việc học đại học, hoặc mua một chiếc xe tốt hơn.”

Tôi có thể cảm thấy tim mình bắt đầu đập nhanh hơn. “Tại sao một người hoàn toàn xa lạ lại để lại thứ gì đó cho em?” Tôi nhắc lại, cố ép mình không được mơ mộng giữa ban ngày, dù chỉ một giây, bởi vì một khi tôi bắt đầu mơ mộng, tôi không chắc mình có thể dừng lại.

“Hay là ông ấy biết mẹ em?” Libby đoán. “Chị không biết nữa, nhưng chị biết rõ một điều rằng em cần phải tham dự buổi đọc di chúc.”

“Em không thể cứ vậy mà đi được” tôi nói với chị ấy. “Chị cũng thế.” Cả hai chị em tôi đều đã lỡ việc. Tôi thì lỡ tiết học trên lớp. Tuy nhiên... nếu không có gì khác thì chuyến đi này có thể giúp tách Libby ra khỏi Drake, ít nhất là tạm thời.

Và nếu đây là thật... Ngày càng khó để không nghĩ về những khả năng có thể xảy ra.

“Đã có người thay ca cho chị trong hai ngày tới,” Libby thông báo. “Chị đã gọi vài cuộc điện thoại và gọi luôn cho cả em nữa.” Chị ấy nắm lấy tay tôi. “Thôi nào, Ave. Chỉ có chị và em cùng nhau đi đâu đó, như vậy không tốt sao?”

Chị ấy siết chặt tay tôi. Một lúc sau, tôi cũng siết chặt tay chị ấy. “Chính xác thì buổi đọc di chúc sẽ diễn ra ở đâu ạ?”

“Texas!” Libby cười toe toét. “Và họ không chỉ đặt vé cho chúng ta thôi đâu, họ đã đặt vé hạng nhất đấy.”

William Shakespeare là một nhà văn và nhà viết kịch người Anh, được coi là nhà văn vĩ đại nhất của Anh và là nhà viết kịch đi trước thời đại. Ông cũng được vinh danh là nhà thơ tiêu biểu của nước Anh và là “Thi sĩ của dòng sông Avon”. Romeo và Juliet là một trong những vở bi kịch nổi tiếng nhất của ông.

Certified mail: Khi nhận được thư bảo đảm, người nhận sẽ phải ký tên để xác nhận là bức thư đã được nhận.