← Quay lại trang sách

Chương 47

Tôi không chơi trò chơi của Jameson. Tôi không đoán được điều nào trong những điều anh ấy vừa nói là đúng, nhưng tôi không hề nhầm khi thấy cổ họng anh thắt lại khi nói ra những từ cuối cùng đó.

Anh đã chứng kiến Emily Laughlin chết.

Điều này vẫn không thể cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra với cô ấy. Nó cũng không giải thích được tại sao anh lại nói với tôi rằng Grayson đã tình cờ gặp cô ấy.

“Chúng ta có nên chuyển hướng chú ý sang cây cầu không, Người thừa kế?” Jameson không cho tôi cơ hội được đoán. Tôi không chắc anh ấy có thực sự muốn tôi đoán ra hay không.

Tôi ép mình tập trung vào khung cảnh trước mặt. Nó đẹp như tranh vẽ. Ở đây có ít cây cối hơn nên không thể chắn được ánh trăng. Tôi có thể nhìn thấy cây cầu uốn cong vắt ngang con lạch, nhưng không nhìn được làn nước bên dưới. Cây cầu được làm bằng gỗ, có lan can và hàng rào trông như thể chúng được làm thủ công rất tỉ mỉ. “Ông của anh tự xây cây cầu này đấy à?”

Tôi chưa bao giờ gặp Tobias Hawthorne, nhưng tôi bắt đầu có cảm giác rằng tôi hiểu rõ ông ấy. Ông ấy xuất hiện ở mọi nơi - trong câu đố này, trong Nhà, trong các chàng trai.

“Anh không biết có phải ông xây nó không,” Jameson nhe răng nở nụ cười của chú mèo Cheshire [1] , răng anh ấy lấp lánh dưới ánh trăng. “Nhưng nếu chúng ta nghĩ đúng thì có lẽ, gần như chắc chắn, ông anh đã gắn thứ gì đó vào cây cầu này.”

Jameson giả vờ xuất sắc thật đấy - anh ấy làm như tôi chưa bao giờ hỏi anh ấy về Emily, giả vờ như anh ấy chưa từng nói với tôi rằng anh ấy đã chứng kiến cô ấy ra đi mãi mãi.

Giả vờ rằng những gì xảy ra sau nửa đêm đã chìm vào trong bóng tối.

Anh ấy đi hết chiều dài của cây cầu. Sau lưng, tôi cũng làm vậy. Cây cầu đã cũ và hơi ọp ẹp, nhưng vẫn vững chắc như đá. Khi Jameson đi tới chân cầu, anh ấy lùi lại, duỗi hai tay sang bên và rê nhẹ đầu ngón tay vào lan can.

“Anh có ý tưởng gì về điều chúng ta sẽ tìm kiếm chưa?” Tôi hỏi.

“Em sẽ biết khi em nhìn thấy nó.” Có thể ý anh ấy là khi anh nhìn thấy nó, anh sẽ cho em biết . Anh ấy từng nói mình và Emily giống nhau, và tôi không thể nào rũ bỏ được cảm giác rằng anh ấy không mong đợi cô ấy trở thành một người chơi thụ động. Anh ấy cũng không coi cô ấy là một phần khác của trò chơi, được cài vào từ đầu để phục vụ cho lợi ích sau cùng.

Tôi là một con người. Tôi có khả năng. Tôi đang ở đây. Tôi đang chơi. Tôi lấy điện thoại trong túi áo khoác ra và mở đèn pin. Tôi quay trở lại cầu, chiếu tia sáng lên lan can, tìm kiếm những vết lõm hoặc nét chạm khắc - một thứ gì đó. Mắt tôi dõi theo những chiếc đinh trên gỗ, đếm chúng và thầm đo khoảng cách giữa từng cái một.

Sau khi kiểm tra lan can, tôi ngồi xổm xuống và tiếp tục kiểm tra từng chấn song. Đối diện với tôi, Jameson cũng đang làm điều tương tự. Cảm giác như chúng tôi đang khiêu vũ - một điệu nhảy kỳ lạ lúc nửa đêm dành cho hai người.

Tôi đang ở đây.

“Anh sẽ biết khi anh nhìn thấy nó,” Jameson nhắc lại lần nữa, vừa giống một câu thần chú vừa giống một lời hứa hẹn.

“Hoặc có lẽ em sẽ là người tìm ra,” tôi thẳng thừng đáp lại.

Jameson ngước lên nhìn tôi. “Đôi khi,” anh nói, “em cần lắng nghe một quan điểm khác, Người thừa kế ạ.”

Anh ấy nhảy lên, và điều tiếp theo mà tôi biết là anh ấy đang đứng trên lan can. Tôi không thể nhìn rõ dòng nước đang chảy bên dưới, nhưng tôi có thể nghe thấy. Không khí ban đêm thật tĩnh lặng, cho đến khi Jameson bắt đầu bước đi.

Cảm giác như tôi lại đang chứng kiến cảnh anh ấy loạng choạng trên ban công thêm lần nữa.

Cây cầu không cao đến thế. Nước có lẽ cũng không sâu như vậy. Tôi hướng đèn pin về phía anh ấy, đứng dậy khỏi tư thế cúi người. Cây cầu kêu cót két dưới chân tôi.

Jameson nói: “Chúng ta cần xem xét bên dưới.” Anh ấy leo ra phía xa của lan can, giữ thăng bằng trên mép cầu. “Hãy nắm lấy chân anh,” anh ấy bảo tôi, nhưng trước khi tôi kịp tìm ra nơi để nắm lấy và biết được anh ấy đang dự định làm gì thì anh ấy đã đổi ý. “Không được. Anh quá to. Em sẽ làm anh rơi xuống mất.” Anh ấy đi ngược trở lại lan can dưới ánh đèn pin điện thoại. “Anh sẽ giữ em.”

Có rất nhiều điều đầu tiên mà tôi chưa bao giờ có được sau cái chết của mẹ. Những buổi hẹn hò đầu tiên. Nụ hôn đầu tiên. Những lần đâu tiên. Nhưng điều đặc biệt đầu tiên này - bị treo lơ lửng trên cầu bởi một chàng trai vừa mới thú nhận đã chứng kiến bạn gái cuối cùng của mình chết - chắc chắn không nằm trong danh sách những việc tôi muốn làm.

Nếu cô ấy ở bên anh, tại sao anh lại nói là Grayson đã tình cờ gặp cô ấy?

“Đừng làm rơi điện thoại nhé,” Jameson nhắc tôi. “Và anh sẽ không thả rơi em đâu.”

Hai tay anh ấy chống vào hông tôi. Tôi đang cúi mặt, hai chân của tôi kẹp giữa những chấn song, thân mình buông thõng ra ngoài mép cầu. Nếu anh ấy thả tay, tôi sẽ gặp rắc rối.

Trò chơi Lủng lẳng, tôi gần như có thể nghe thấy tiếng mẹ tôi tuyên bố.

Jameson điều chỉnh trọng lượng của mình, làm mỏ neo cho tôi. Đầu gối anh ấy đang chạm vào tôi. Tay anh ấy đang đặt trên người tôi. Tôi cảm thấy mình nhận thức rõ hơn về cơ thể và làn da của bản thân hơn bao giờ hết.

Đừng cảm nhận. Chỉ nhìn thôi. Tôi rọi ánh sáng đèn pin xuống dưới cầu. Jameson cũng không hề buông tay.

“Em có thấy gì không?”

“Bóng,” tôi đáp. “Một ít tảo.” Tôi vặn mình, hơi cong lưng lại. Máu đang dồn lên đầu tôi. “Những tấm ván ở dưới này không cùng loại với những tấm ván mà chúng ta thấy ở trên,” tôi lưu ý. “Có ít nhất hai lớp gỗ.” Tôi đếm số tấm ván. Hai mươi mốt. Tôi mất thêm vài giây để xem xét cách các tấm ván kết nối với bờ, rồi nói với lên. “Chẳng có gì ở đây cả, Jameson. Kéo em lên đi.”

Có hai mươi mốt tấm ván ở dưới cầu, và dựa trên lượt đếm tôi vừa hoàn thành thì phía trên cũng có hai mươi mốt tấm. Mọi thứ chồng lên nhau. Không có gì sai sót. Jameson cứ đi qua đi lại, nhưng tôi nghĩ tốt hơn hết là anh ấy nên đứng yên.

Hoặc tôi sẽ nghĩ tốt hơn là nên đứng yên nếu tôi không nhìn anh ấy đi đi lại lại. Anh ấy có cách di chuyển rất riêng - tỏa ra thứ năng lượng khó diễn tả, một sự duyên dáng đến lạ kỳ. “Muộn rồi đấy,” tôi nói, quay mặt đi.

“Lúc nào chẳng muộn,” Jameson đáp. “Nếu em định biến thành một quả bí ngô thì đáng ra phải làm ngay lúc này rồi, Cô bé Lọ Lem ạ!”

Mỗi ngày một biệt danh. Tôi không muốn suy nghĩ nhiều về ý nghĩa của nó - tôi thậm chí còn không chắc mình nên suy nghĩ gì. “Ngày mai còn phải đi học nữa đấy,” tôi nhắc nhở.

“Có lẽ chúng ta sẽ đi học.” Jameson đi đến chân cầu, quay lại và đi bộ về phía tôi. “Có lẽ chúng ta sẽ không. Em có thể chơi theo luật, hoặc em có thể tạo ra luật của riêng mình. Anh biết mình thích cái nào hơn, Người thừa kế ạ.”

Emily thích cái nào hơn. Tôi không thể ngăn mình nghĩ đến đó. Tôi cố gắng tập trung vào thời điểm hiện tại, vào câu đố trong tầm tay. Cây cầu kêu cót két. Jameson vẫn tiếp tục đi đi lại lại. Tôi cố gắng giải tỏa tâm trí của mình. Và cây cầu lại kêu cót két thêm lần nữa.

“Chờ đã.” Tôi nghiêng đầu sang một bên. “Dừng lại.” Thật đáng kinh ngạc rằng Jameson làm theo như tôi chỉ huy. “Lùi lại. Chậm thôi.” Tôi chờ đợi, và lắng nghe - và rồi tôi nghe thấy tiếng cót két vang lên lần nữa.

“Nó là cùng một tấm ván.” Jameson đi đến kết luận cùng lúc với tôi. “Mỗi lần.” Anh ấy ngồi xổm xuống để có thể nhìn rõ hơn. Tôi cũng quỳ xuống. Tấm ván trông không khác những tấm ván còn lại. Tôi lướt ngón tay mình qua nó, cảm nhận một điều gì đó mà tôi không rõ.

Bên cạnh tôi, Jameson cũng làm điều tương tự. Anh ấy chạm nhẹ vào tôi. Tôi cố gắng không cảm thấy gì và hy vọng anh ấy sẽ thu tay lại, nhưng thay vì thế, ngón tay anh ấy trượt vào giữa những ngón tay của tôi, đan tay chúng tôi vào nhau và đặt xuống tấm ván.

Anh ấy ấn mạnh xuống.

Tôi cũng làm vậy.

Tấm ván kêu cót két. Tôi bám sát vào nó, và Jameson bắt đầu xoay bàn tay của chúng tôi, một cách chậm rãi, từ mặt này sang mặt kia của tấm ván.

“Nó di chuyển.” Mắt tôi hướng về phía anh ấy. “Chỉ một chút.”

“Một chút thì không đủ.” Anh ấy từ từ rút tay của mình ra khỏi tay tôi, nhẹ tựa lông vũ và ấm áp. “Chúng ta sẽ phải tìm một cái chốt, thứ giữ cho tấm ván không xoay lung tung.”

Cuối cùng chúng tôi cũng tìm thấy nó, những chốt nhỏ cắm trên gỗ ở nơi giao nhau giữa tấm ván và những chấn song. Jameson cầm chốt nhỏ ở bên trái. Tôi cầm cái bên phải. Chúng tôi ấn xuống cùng một lúc. Có tiếng lộp bộp vang lên. Khi chúng tôi gặp nhau ở giữa và kiểm tra tấm ván thêm lần nữa, nó đã có thể di chuyển tự do hơn. Chúng tôi cùng nhau xoay nó cho đến khi đáy ván lật lên.

Tôi chiếu đèn pin vào tấm gỗ. Jameson cũng dùng đèn của mình làm tương tự. Có một biểu tượng được khắc trên bề mặt gỗ.

“Vô cực,” Jameson nói, chạm ngón tay cái lên hình chạm khắc.

Tôi nghiêng đầu sang bên và có cái nhìn thực dụng hơn. “Hoặc là số tám.”

Mèo Cheshire là một nhân vật trong tiểu thuyết Alice ở xứ sở thần tiên của Lewis Carroll, có đặc điểm là luôn nhe răng cười.