Chương 79
Khi Grayson rời đi, Oren hộ tống tôi trở về nhà.
“Chú đã nghe được bao nhiêu rồi ạ?” Tôi hỏi, đầu óc rối bời vì những suy nghĩ và cảm xúc mà tôi không chắc mình đã sẵn sàng đón nhận hay chưa.
Oren nhìn tôi. “Cháu muốn chú nghe được đến đâu?”
Tôi cắn môi. “Chú hiểu Tobias Hawthorne. Liệu ông ấy có chọn cháu làm người thừa kế chỉ bởi vì Emily Laughlin qua đời vào đúng sinh nhật của cháu? Ông ấy quyết định để lại hết gia sản cho một người ngẫu nhiên sinh ra vào ngày Mười tám tháng Mười? Giống như tổ chức một giải xổ số ạ?”
“Chú không biết nữa, Avery.” Oren lắc đầu. “Người duy nhất thực sự biết rõ Tobias Hawthorne nghĩ gì là chính ông ấy.”
♟
Tôi đi qua những dãy hành lang của Nhà Hawthorne, trở lại khu nhà ở của chị em tôi. Tôi không chắc Grayson hay Jameson có chịu nói với tôi một lời nào nữa hay không. Tôi không biết tương lai đang nắm giữ điều gì, hay tại sao ý nghĩ rằng tôi có thể đuợc chọn vì một lý do hoàn toàn vớ vẩn lại có cảm giác giống như bị đấm một phát thật mạnh vào bụng thế này.
Có bao nhiêu người trên hành tinh này có cùng sinh nhật với tôi?
Tôi dừng lại trên cầu thang, trước bức chân dung của Tobias Hawthorne mà Xander đã chỉ cho tôi xem thế nào là cảm giác như cả một đời người ở phía trước. Tôi suy nghĩ lung tung, nghĩ về những ký ức, những khoảnh khắc khi cuộc đời tôi đi ngang cuộc đời tỷ phú. Tôi nhìn vào mắt Tobias Hawthorne - đôi mắt bạc của Grayson - và lặng lẽ hỏi ông ấy tại sao.
Tại sao lại là cháu?
Tại sao ông lại xin lỗi?
Tôi hình dung mẹ mình đang chơi trò Tôi có một bí mật. Chuyện gì đã xảy ra vào ngày tôi được sinh ra?
Tôi nhìn chằm chằm vào bức chân dung, xem xét từng nếp nhăn trên gương mặt ông lão, từng đặc điểm tính cách lộ ra sau cử chỉ của ông ấy, thậm chí cả màu lặng của phông nền. Không có câu trả lời nào cả. Mắt tôi bắt gặp dòng chữ ký của hoạ sĩ.
Tobias Hawthorne X. X. VIII
Tôi nhìn vào đôi mắt bạc của ông lão lần nữa. Người duy nhất thực sự hiểu Tobias Hawthorne nghĩ gì là chính ông ấy. Đây là một bức chân dung tự họạ. Những chữ cái bên cạnh tên là gì nhỉ?
“Những chữ số La Mã,” tôi thì thầm.
“Avery?” Oren gọi. “Ổn cả chứ?”
Trong số La Mã, X là mười, V là năm, còn I là một.
“Mười.” Tôi đặt ngón tay mình dưới chữ X đầu tiên, sau đó di chuyển đến những chữ cái còn lại, đọc riêng rẽ từng chữ một. “Mười tám.”
Nhớ lại tấm gương che giấu kho vũ khí, tôi đưa tay ra sau khung tranh. Tôi không chắc mình cảm thấy gì cho đến tận khi lần tìm ra nó. Một nút băm. Một lối thoát. Tôi nhấn vào nó, và rồi bức chân dung bật văng ra ngoài.
Đằng sau nó, trên bức tường, là một bàn phím.
“Avery?” Oren gọi tôi lần nữa, nhưng tôi đã đưa ngón tay mình lên bàn phím. Nếu như những con số ấy không phải câu trả lời cuối cùng thì sao? Khả năng này kẹp chặt tôi trong quai hàm của nó và sẽ không thả cho tôi rời đi. Nếu như chúng được sắp xếp để dẫn đến manh mối tiếp theo thì sao?
Tôi đưa ngón trỏ về phía bàn phím và thử một dãy số. “Một. Không. Một. Tám.”
Có một tiếng bíp vang lên; sau đó, đỉnh của bậc thang bên dưới tôi bắt đầu nhô lên, để lộ một ngăn bí mật. Tôi cúi xuống và thò tay vào bên trong. Chỉ có một thứ duy nhất được đặt trong bậc thang rỗng này: một mảnh kính màu. Nó có màu tím, hình bát giác, với một cái lỗ nhỏ ở trên cùng, xuyên qua lỗ là một dải ruy băng trong suốt lấp lánh. Nó trông giống một món đồ trang trí Giáng sinh.
Khi tôi cúi xuống nhấc sợi dây luồn qua tấm kính màu lên, đập vào mắt tôi là mặt dưới của tấm lót cầu thang. Có một đoạn thơ được khắc lên gỗ:
Trên đỉnh đồng hồ
Gặp tôi cao tít
Chào buổi chiều nhé
Tạm biệt sớm mai
Vặn xoắn, lật tung
Bạn thấy gì đó?
Đi hai cùng lúc
Hãy đến tìm tôi.